1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

Giáo trình Công tác xã hội với người khuyết tật (Nghề Công tác xã hội)

44 34 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Công Tác Xã Hội Với Người Khuyết Tật
Tác giả Vũ Ánh Dương, Lê Hùng Cường
Trường học Trường Cao Đẳng Cơ Giới Ninh Bình
Chuyên ngành Công Tác Xã Hội
Thể loại Giáo Trình
Thành phố Ninh Bình
Định dạng
Số trang 44
Dung lượng 263,73 KB

Cấu trúc

  • GIÁO TRÌNH

  • LỜI GIỚI THIỆU

  • Bài 1: Kiến thức chung về tàn tật và người khuyết tật

  • Mã bài: MĐ29_B01

    • 1. Khái niệm, phân dạng tàn tật

    • 2. Nguyên nhân

    • 3. Hậu quả của tàn tật

    • 4. Những khó khăn của người khuyết tật trong hòa nhập cộng đồng

  • Bài 2: Công tác hỗ trợ người khuyết tật

  • Mã bài: MĐ29_B02

  • Nội dung chính:

    • 1. Chính sách hỗ trợ giáo dục

    • 2. Chính sách hỗ trợ việc làm

    • 3. Chính sách ưu đãi về y tế

    • 4. Hỗ trợ người khuyết tật trong hoạt động thể thao và văn nghệ

  • Bài 3: Kỹ năng công tác xã hội với người khuyết tật

  • Mã bài: MĐ29_B03

  • Nội dung chính:

    • 1. Kỹ năng giao tiếp

    • 2. Kỹ năng lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh

    • 3. Công tác xã hội cá nhân và nhóm đối với người khuyết tật

  • Bài 4: Các hoạt động hoà nhập cộng đồng

  • Mã bài: MĐ29_B04

    • 1. Tổ chức các hoạt động giáo dục và hoạt động khác cùng với cộng tác viên cộng đồng để nâng cao nhận thức xoá bỏ kỳ thị với người khuyết tật

    • 2. Xây dựng các giải pháp để trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật cho người khuyết tật

    • 3. Nâng cao trách nhiệm, thực hiện luật người khuyết tật trong cộng đồng

    • 4. Những công việc của người nhân viên xã hội đối với người khuyết tật tại gia đình

    • 5. Xây dựng các chương trình giáo dục cho người khuyết tật tại nhà trường và tại cộng đồng

    • 6. Cung cấp các chương trình vui chơi giải trí cho người khuyết tật

  • Bài 5: Các tổ chức của người khuyết tật

  • Mã bài: MĐ29_B05

    • 1. Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi

    • 2. Hội người mù Việt Nam

Nội dung

KIẾN THỨC CHUNG VỀ TÀN TẬT VÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT

Khái niệm, phân dạng tàn tật

Khái niệm về người khuyết tật ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, đặc điểm và các giải pháp hỗ trợ Hiện nay, ở Việt Nam, sự đa dạng trong cách tiếp cận dẫn đến nhiều khái niệm khác nhau về người khuyết tật.

Theo Bộ Y tế, người khuyết tật được định nghĩa là những cá nhân có sự khuyết tật thể hiện qua các rối loạn tâm sinh lý hoặc chức năng của cơ thể, bao gồm khả năng nghe, nhìn, vận động và các vấn đề liên quan đến hệ thần kinh.

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội định nghĩa người khuyết tật là những cá nhân có khuyết tật và không thể tự nuôi sống bản thân Họ cần sự hỗ trợ từ cộng đồng, gia đình và sự trợ giúp của Nhà nước để cải thiện cuộc sống.

Pháp lệnh Người tàn tật định nghĩa người khuyết tật là những cá nhân không phân biệt nguyên nhân gây ra khuyết tật, bao gồm những người có khiếm khuyết về một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng, dẫn đến sự suy giảm khả năng lao động và gây khó khăn trong sinh hoạt cũng như học tập.

Tàn tật là tình trạng mất mát và thiệt thòi do khuyết tật hoặc mất khả năng, dẫn đến việc không thể thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc như người bình thường Tình trạng này cần được xem xét trong bối cảnh tuổi tác, giới tính, cũng như các yếu tố văn hóa và hoàn cảnh xã hội.

* Thông qua các khái niệm trên rút ra đặc điểm chung:

- Người khuyết tật là người thiếu, hỏng hoặc không bình thường về thể lực, trí lực, hoặc thẩm mỹ cơ thể.

Người khuyết tật là những cá nhân bị giảm hoặc mất khả năng thực hiện các chức năng bình thường của cơ thể, ảnh hưởng đến cuộc sống, lao động và học tập của họ Điều này có thể xuất phát từ các vấn đề về sức khỏe hoặc do những mặc cảm tâm lý.

Sự khuyết tật có thể được phân loại theo các loại hình sau:

- Các giác quan ( nghe/nhìn)

* Có nhiều cấp độ của khuyết tật

- Nhẹ: Cá nhân có thể yêu cầu ít hoặc không cần yêu cầu giúp đỡ để thực hiện một hành vi cụ thể nào đó.

- Trung bình: Người đó cần một sự giúp đỡ nhỏ để thực hiện các hành vi thông thường.

Cá nhân khuyết tật thường cần sự hỗ trợ đáng kể trong các hoạt động hàng ngày, nhưng xã hội thường thiếu thái độ hợp tác, đặc biệt trong lĩnh vực việc làm Nhiều người cho rằng người khuyết tật không thể làm việc hiệu quả như người bình thường, dẫn đến rào cản trong việc tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp cho họ Để giúp người khuyết tật có thể tự nuôi sống bản thân và gia đình, cần tìm ra các giải pháp hỗ trợ hiệu quả, giúp họ cảm thấy có ích cho xã hội và tìm được niềm vui trong cuộc sống thông qua công việc phù hợp với khả năng của mình.

Nguyên nhân

Khuyết tật không chỉ xuất phát từ hành động của con người mà còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tiêu cực khác, bao gồm nguyên nhân tự nhiên, kinh tế, chính trị và xã hội.

* Do bẩm sinh: Trong này có những bệnh bẩm sinh như bệnh tim, tâm thần, thiểu năng trí tuệ, sứt môi, hở hàm ếch…

Hay là quái thai do cha mẹ bị nhiễm độc trong chiến tranh, hậu quả chiến tranh để lại.

Bệnh tật là một trong những bất trắc không thể tránh khỏi trong cuộc sống, dẫn đến nhiều hệ lụy như nghèo đói và thất nghiệp Người khuyết tật thường là nạn nhân của những căn bệnh nghiêm trọng, gây tổn thương cho cơ thể, làm mất đi một số bộ phận hoặc chức năng quan trọng Điều này ảnh hưởng đến khả năng lao động, học tập, vui chơi và giải trí của họ, với những ví dụ như bệnh bại liệt, các dị tật bẩm sinh như sứt môi, hở hàm ếch, cũng như các vấn đề về thính giác và thị giác.

Theo thống kê của Bộ Y tế, khoảng 1% trẻ sơ sinh ở Việt Nam mắc dị tật bẩm sinh Tuy nhiên, khảo sát tại 7 tỉnh đồng bằng Sông Hồng cho thấy 36,25% nguyên nhân khuyết tật là do bẩm sinh, trong khi 31,86% còn lại liên quan đến bệnh tật.

Trong bối cảnh nền kinh tế còn nghèo và dịch vụ chăm sóc y tế hạn chế, sự gia tăng số lượng người khuyết tật là một xu hướng không thể tránh khỏi.

* Do hậu quả chiến tranh: Chiến tranh đã để lại nhiều di chứng nặng nề ở

Việt Nam Hàng triệu người dân đã hy sinh tính mạng, hy sinh một phần thân thể, để lại những căn bệnh nguy hiểm trên cơ thể.

Mặc dù chiến tranh đã kết thúc, nhưng đất nước ta vẫn phải đối mặt với hậu quả nghiêm trọng từ bom đạn còn sót lại Hàng ngày, người dân vẫn chịu đựng những thiệt hại về tính mạng và sức khỏe do các vật liệu nổ chưa được phát nổ Trên các cánh đồng, rừng và khu dân cư, còn hàng vạn tấn bom đạn nguy hiểm Chẳng hạn, chỉ trong một làng nhỏ ven sông Bến Hải, đã có hàng chục người bị chết hoặc bị thương vì những mảnh bom còn lại từ thời chiến.

Ngoài ra, do ảnh hưởng của chất độc, đặc biệt là chất độc màu da cam đã dẫn dến những đứa trẻ bị dị tật suốt đời.

Ví dụ: Ở tỉnh Quảng Trị và nhiều địa phương khác có những cặp vợ chồng sinh ra con đều bị dị tật.

Môi trường có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống con người, bao gồm cả tác động tích cực lẫn tiêu cực Những hiện tượng thiên tai như lũ lụt, bão, động đất và hạn hán không chỉ gây ra thiệt hại về tài sản mà còn khiến nhiều người rơi vào cảnh nghèo đói, mất nhà cửa và thiếu thốn lương thực Hệ quả của những tác động này là sự gia tăng các bệnh dịch, đặc biệt là các bệnh liên quan đến đường ruột và hô hấp.

Hàng năm, hàng triệu tấn rác thải và khí độc do con người thải ra đã gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường nước và không khí Nhiều nguồn nước trở nên không thể sử dụng hoặc bị ô nhiễm nặng, dẫn đến tình trạng nhiều gia đình và vùng miền phải đối mặt với các bệnh nguy hiểm và khuyết tật.

Trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đang gia tăng do thiếu trang thiết bị an toàn và vi phạm nguyên tắc lao động Tình trạng này dẫn đến tỷ lệ người lao động bị tai nạn và bệnh nghề nghiệp cao, có nơi lên tới hàng chục phần trăm, với các bệnh phổ biến như điếc, rung chuyển, lao và viêm gan.

Tai nạn giao thông đang gia tăng do nhu cầu đi lại, học tập, vui chơi và du lịch của người dân ngày càng lớn Mặc dù số lượng phương tiện giao thông trong nước tăng nhanh, nhưng hạ tầng đường xá chưa được cải tạo và nâng cấp đồng bộ, cùng với việc người tham gia giao thông chưa tuân thủ luật lệ, đã dẫn đến tình trạng tai nạn giao thông nghiêm trọng Hàng năm, khoảng 17.000 đến 20.000 người gặp tai nạn giao thông, trong đó nhiều người phải chịu thiệt hại nặng nề, từ việc tử vong đến khuyết tật suốt đời.

Kinh tế kém phát triển và nhiều nguyên nhân khác đã dẫn đến khó khăn trong đời sống của nhân dân, đặc biệt là các bà mẹ ở vùng nông thôn và vùng sâu, vùng xa Họ không được chăm sóc dinh dưỡng đầy đủ trong thời kỳ mang thai, gây ra tình trạng trẻ sơ sinh nhẹ cân và thiếu tháng, dẫn đến các bệnh như còi xương và thiểu năng trí tuệ Bên cạnh đó, điều kiện chăm sóc và phục hồi chức năng cho người khuyết tật cũng không được chú trọng, khiến số lượng người khuyết tật không chỉ không giảm mà còn có xu hướng gia tăng.

Cuộc cạnh tranh khốc liệt trong nền kinh tế thị trường ngày càng gia tăng, khiến nhiều người không có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi và giải trí Điều này dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng cho sức khỏe, bao gồm các bệnh như đột quỵ, nhồi máu cơ tim và các vấn đề liên quan đến thần kinh.

Nhiều gia đình ở các địa phương có trình độ nhận thức thấp vẫn tin vào những phương pháp chữa bệnh không khoa học, như uống nước hài cốt hoặc nước từ các hang động do những người tự xưng là thầy bói khuyên dùng Hành động này không chỉ không giúp chữa bệnh mà còn có thể làm tình trạng bệnh trở nên nghiêm trọng hơn, thậm chí dẫn đến việc phát sinh nhiều căn bệnh khác.

Hậu quả của tàn tật

Vấn đề khuyết tật hiện nay đang gây ra nhiều lo ngại trong xã hội, để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về mặt vật chất mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần của người khuyết tật, gia đình họ và toàn cộng đồng.

Người khuyết tật thường gặp khó khăn trong việc duy trì sức khỏe và khả năng chống chọi với bệnh tật, dẫn đến tình trạng sức khỏe giảm sút Họ cũng ít có cơ hội tham gia vào các chương trình phúc lợi công cộng như chăm sóc y tế và giáo dục Do đó, tỷ lệ tử vong, đặc biệt là ở nhóm tuổi dưới 20, thường cao, chiếm khoảng 90%.

Khuyết tật hạn chế khả năng tham gia các hoạt động học tập, vui chơi và giải trí của người khuyết tật, khiến nhiều người không thể đến trường hoặc phải nhờ sự giúp đỡ Điều này dẫn đến khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, buộc họ phải sống phụ thuộc vào gia đình, người thân hoặc cộng đồng Thiếu cơ hội học tập và nâng cao trình độ văn hoá làm cho việc hoà nhập vào cộng đồng trở nên khó khăn hơn Hơn nữa, ảnh hưởng về thẩm mỹ cũng tác động đến khả năng giao tiếp, khiến người khuyết tật ở bất kỳ đâu cũng phải đối mặt với thiệt thòi và cảm giác tự ti.

Gia đình có người khuyết tật thường phải dành nhiều thời gian và chi phí cho việc chăm sóc, như đưa đi khám bệnh và học tập, dẫn đến thu nhập kém do thiếu thời gian lao động Sự lo lắng về kinh tế và bệnh tật của con cái tạo ra không khí căng thẳng trong gia đình, khiến họ dễ bị ám ảnh tâm lý và sợ hãi sự đánh giá từ xã hội Hệ quả là nhiều gia đình chọn cách thu mình lại, sống trong không gian hẹp và hạn chế giao tiếp với người ngoài.

Khuyết tật không chỉ làm giảm lực lượng lao động, gây thiệt hại cho sự phát triển kinh tế xã hội, mà còn đòi hỏi xã hội phải chi tiêu một khoản tiền lớn cho việc xây dựng cơ sở vật chất, quản lý trung tâm, đào tạo chuyên môn, và trợ cấp cho người khuyết tật Đặc biệt, ngân sách cần được dành cho việc thành lập các trung tâm phục hồi chức năng, cung cấp thuốc men, và hướng nghiệp dạy nghề, nhằm giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng Ngoài ra, nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa khuyết tật cũng là một nhiệm vụ quan trọng của xã hội.

Những khó khăn của người khuyết tật trong hòa nhập cộng đồng

Hầu hết người khuyết tật sinh sống tại các vùng nông thôn, nơi mà điều kiện kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn Đặc biệt, họ phải đối mặt với hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ phúc lợi công cộng.

* Tình trạng hôn nhân gia đình:

Chỉ có 40% người khuyết tật ở Việt Nam đã kết hôn, trong khi 60% còn lại chưa từng lập gia đình hoặc gặp khó khăn trong tình duyên do khuyết tật Cụ thể, 40,34% người từ 31-50 tuổi chưa kết hôn, trong khi tỷ lệ này ở độ tuổi 20-30 là 38% và từ 51 tuổi trở lên là 13,56% Đặc biệt, trong nhóm người khuyết tật trên 60 tuổi, có tới 53,06% chưa từng lập gia đình, dẫn đến nhiều người sống cô đơn hoặc phải phụ thuộc vào gia đình, cộng đồng và Nhà nước.

Tình trạng văn hóa của người khuyết tật hiện nay khá đáng lo ngại, khi phần lớn trong số họ có trình độ học vấn thấp, thậm chí có người còn mù chữ Đối tượng chủ yếu là những người mang tật bẩm sinh và có mức độ khuyết tật nặng.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến người khuyết tật, tuy nhiên, tỷ lệ người biết chữ chỉ đạt 35,8% Cụ thể, 5,8% đã hoàn thành cấp THPT, 22,08% hoàn thành THCS và 26,09% hoàn thành tiểu học Đáng chú ý, tỷ lệ người không biết chữ lên đến 35,58%, trong đó 10,45% không biết đọc, viết.

Trình độ văn hóa của người khuyết tật giữa nông thôn và thành phố có sự chênh lệch rõ rệt Tỷ lệ người khuyết tật hoàn thành bậc học THPT và các bậc học cao hơn ở thành phố cao hơn nhiều so với nông thôn Cụ thể, chỉ có 5,8% người khuyết tật học hết THPT, trong đó tỷ lệ ở thành phố là 15,89%, trong khi ở nông thôn chỉ đạt 4,31%.

Khuyết tật ảnh hưởng lớn đến khả năng lập gia đình của những người này, với khoảng 80-84% sống chung và phụ thuộc vào gia đình, người thân Tuy nhiên, một số ít người khuyết tật phải sống độc thân, trong khi một số khác không có nhà cửa và phải lang thang kiếm sống.

Người khuyết tật thường phải phụ thuộc vào gia đình và người thân, điều này khiến cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn Họ không thể tự lo cho bản thân, và chỉ một số ít có khả năng lao động để tăng thu nhập cho gia đình thông qua các công việc như nấu ăn và dọn dẹp Thật không may, nhiều lúc họ lại trở thành nạn nhân của sự thiếu tôn trọng từ chính những người thân yêu.

Người khuyết tật thường có thu nhập rất thấp do thiếu nghề nghiệp ổn định, với nhiều người chỉ có thể làm việc phụ giúp gia đình Họ thường phụ thuộc vào kinh tế gia đình và một số sống lang thang, kiếm sống trên hè phố.

* Việc làm của người khuyết tật:

Mặc dù quyền làm việc của người khuyết tật đã được ghi nhận trong Bộ luật lao động và các văn bản liên quan, nhưng nhiều người vẫn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ học vấn thấp, sức khỏe yếu, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường lao động và thái độ chưa rõ ràng của người sử dụng lao động Kết quả là, nhiều người khuyết tật chỉ được bố trí vào các công việc thủ công, nặng nhọc với hiệu quả lao động thấp và thu nhập không đủ sống Theo thống kê, có 4,35% người khuyết tật làm nghề không phù hợp với tay nghề, 52% không phù hợp với tình trạng sức khỏe, và 32,78% không được đào tạo nghề.

* Đặc điểm tâm lý của người khuyết tật:

Quy luật bù trừ về các giác quan cho thấy khi một giác quan bị mất, các giác quan khác sẽ trở nên nhạy cảm hơn để bù đắp Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết kế môi trường làm việc và đào tạo nghề, giúp tận dụng các đặc điểm khuyết tật để nâng cao hiệu quả công việc.

- Do bị khuyết tật nên tâm lý mặc cảm, tự ti Tuy vậy, nhưng cũng rất nhiều người khuyết tật có ý chí vươn lên rất tốt.

Ví dụ: Tấm gương anh Nguyễn Ngọc Ký mặc dù anh bị tật nguyền như vậy nhưng với ý chí vươn lên anh đã vượt lên tất cả.

- Người khuyết tật có một sức bền bỉ trong một số công việc tốt.

Người khuyết tật cũng là một con người nên cũng có tất cả các nhu cầu như những người bình thường khác như:

Những người sống trong bốn bức tường thường cảm thấy bị cô lập và khao khát hòa nhập xã hội Họ có nhu cầu mạnh mẽ được giao tiếp với mọi người, học hỏi từ những trải nghiệm của người khác và nhận được sự tôn trọng từ cộng đồng Sự kết nối này không chỉ giúp họ cảm thấy được chấp nhận mà còn thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội.

- Nhu cầu chữa bệnh: vì họ hay ốm đau rất cần được chăm sóc.

- Nhu cầu học văn hoá.

- Nhu cầu việc làm và có thu nhập để giải phóng sự ràng buộc.

- Nhu cầu phục hồi thẩm mỹ: Hiện nay mới có một trung tâm của quốc tế về phục hồi thân thể: những người hở hàm ếch.

- Nhu cầu thể thao – văn nghệ: Năm 1997 đã có tổ chức cuộc thi thể thao văn nghệ toàn quốc dành cho người khuyết tật.

* Đời sống của người khuyết tật:

Đời sống của người khuyết tật hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn do sức khỏe suy giảm, khiến họ không thể tự phục vụ bản thân Mặc dù một số người vẫn có khả năng lao động, nhưng họ thường chỉ làm những công việc đơn giản, dẫn đến thu nhập thấp Phần lớn người khuyết tật phải phụ thuộc vào gia đình và người thân, trong khi một số ít không còn người thân hoặc mong muốn sống tập trung tại các trung tâm của Nhà nước.

CÔNG TÁC HỖ TRỢ NGƯỜI KHUYẾT TẬT

Chính sách hỗ trợ giáo dục

Để cải thiện cơ hội học nghề và việc làm cho người khuyết tật, cần có sự phối hợp hiệu quả giữa các ngành liên quan và sự quan tâm của cộng đồng Việc phổ cập và nâng cao trình độ văn hóa cho người khuyết tật là rất quan trọng, nhằm tạo điều kiện cho họ học tập và phát triển Cần thiết phải đào tạo nghề cho người khuyết tật ở mọi trình độ văn hóa, đồng thời gắn kết đào tạo nghề với cơ hội việc làm và thu nhập.

Quan tâm đến can thiệp sớm và phục hồi chức năng từ khi còn nhỏ là rất quan trọng để ngăn ngừa khuyết tật nặng, giúp trẻ em dễ dàng hơn trong việc học nghề và tìm kiếm việc làm sau này Để tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật trong việc di chuyển, các cơ quan, doanh nghiệp và cơ sở giáo dục cần cải tạo cơ sở vật chất, đảm bảo người khuyết tật có thể tiếp cận và sử dụng Nếu làm việc trong cùng một ngành nghề, cần ưu tiên và chia sẻ hơn nữa với người khuyết tật để họ có cơ hội phát triển bình đẳng.

Thay đổi nhận thức của chủ sử dụng lao động về khả năng làm việc của người khuyết tật là rất quan trọng, không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội Người khuyết tật nếu không được làm việc sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình và cộng đồng Cần có chính sách khuyến khích dạy nghề cho người khuyết tật tại cộng đồng, nơi họ sinh sống, nhằm tạo cơ hội việc làm phù hợp và thuận tiện Đầu tư vào việc nâng cao năng lực, trang bị kiến thức, kỹ năng và tay nghề cho người khuyết tật là cần thiết, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa Chương trình tạo việc làm tại chỗ cần được thực hiện như một chiến lược cấp quốc gia, giúp người khuyết tật và gia đình tự tạo việc làm, từ đó cải thiện cuộc sống của họ.

Nhà nước và các tổ chức đã triển khai các lớp học giáo dục chuyên biệt cho trẻ em câm, điếc, và thiểu năng trí tuệ, cũng như các lớp giáo dục hòa nhập cho trẻ em khuyết tật mức độ nhẹ và vừa Bộ Giáo dục - Đào tạo được Chính phủ giao nhiệm vụ xây dựng các mô hình giáo dục phù hợp cho trẻ em khuyết tật.

Giáo dục tập trung (các trường chuyên biệt):

Mô hình giáo dục này đã được triển khai rộng rãi tại hơn 50% tỉnh thành trên toàn quốc, bao gồm 69 trường học, trong đó có 43 trường dành cho trẻ em khiếm thính và 14 trường dành cho trẻ em khiếm thị.

12 trường dạy trẻ chậm phát triển tinh thần Tổng số lớp là 366 lớp, trong đó có

Trong hệ thống giáo dục dành cho trẻ em khuyết tật, hiện có 272 lớp cho trẻ điếc, 52 lớp cho trẻ mù và 43 lớp cho trẻ chậm phát triển Bên cạnh việc giảng dạy văn hóa, các trung tâm cũng chú trọng đến việc dạy nghề với 56 lớp nghề thu hút 3.714 học sinh, bao gồm 2.743 trẻ điếc, 406 trẻ mù và 406 trẻ chậm phát triển Tổng cộng, có 554 giáo viên đang giảng dạy tại các trường này.

Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, mô hình giáo dục cho trẻ em khuyết tật đang gặp nhiều thách thức Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, và chỉ có 17 trong số 554 giáo viên được đào tạo chuyên sâu với bằng cử nhân sư phạm chuyên biệt, điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục cho trẻ em khuyết tật.

Chính sách hỗ trợ việc làm

Nhà nước triển khai nhiều chính sách hỗ trợ sản xuất cho người khuyết tật và cơ sở của họ, bao gồm việc cho vay vốn, cấp ruộng đất thuận lợi cho canh tác, miễn giảm thuế, cung cấp phương tiện và công cụ sản xuất, cũng như hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.

Theo kết quả điều tra năm 1995, cả nước có 177 cơ sở sản xuất dành cho người khuyết tật, thu hút 7.821 lao động với ngân sách nhà nước hỗ trợ 7.821 triệu đồng Đến năm 1996, số cơ sở tăng lên 340, thu hút 12.500 lao động và ngân sách hỗ trợ đạt 12 tỷ 500 triệu đồng Trong số 340 cơ sở hiện nay, có 27 cơ sở có trên 100 lao động là người khuyết tật, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, trong khi 313 cơ sở còn lại là tổ hợp và hợp tác xã Về cơ chế hoạt động, trong số 340 cơ sở, có 125 cơ sở sản xuất tập trung, 90 cơ sở kết hợp sản xuất tập trung dựa vào cộng đồng, và 125 cơ sở hoàn toàn dựa vào cộng đồng, không có cơ sở nào tập trung.

Mô hình sản xuất phi tập trung dựa vào cộng đồng đã chứng minh hiệu quả trong thực tế Tuy nhiên, để phát huy tối đa tiềm năng, cần có sự hỗ trợ từ các cấp hội, chính quyền địa phương và doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm.

Từ năm 1993 đến 1996, Hội Người mù Việt Nam đã can thiệp và hỗ trợ 12.385 người mù thông qua việc cấp ruộng đất, miễn giảm thuế cho 21.980 lượt người và cung cấp vay vốn tạo việc làm với mức vay trung bình 1 triệu đồng/người Các cơ sở sản xuất của người khuyết tật được hưởng chính sách miễn giảm 50% thuế doanh thu nếu có trên 10 lao động Ngoài ra, các doanh nghiệp không sử dụng lao động khuyết tật có trách nhiệm trích một phần lợi nhuận để đóng góp vào Quỹ hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật.

Nhà nước và các cơ sở dạy nghề hỗ trợ người khuyết tật trong việc lựa chọn và học nghề phù hợp với sức khỏe và khả năng lao động của họ Trong quá trình học, học viên khuyết tật được giảm hoặc miễn học phí, cấp học bổng và nhận trợ cấp xã hội theo quy định.

Trong vấn đề hiện nay, có hai trường dạy nghề cho ngời khuyết tật thuộc

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hàng năm thu hút hàng ngàn người khuyết tật tham gia học nghề thông qua hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm trên toàn quốc Nhiều tổ chức và hiệp hội tư nhân, đặc biệt là Hội Người mù Việt Nam, cũng tích cực dạy nghề cho người khuyết tật, với 306 lớp dạy nghề cho 8.475 người mù trong giai đoạn 1993-1996, tổng kinh phí lên tới 810 triệu đồng Kết quả điều tra năm 1995 cho thấy 55,18% người khuyết tật có khả năng lao động đang làm việc trong các ngành nghề khác nhau, trong khi chỉ 30,43% là thiếu việc làm Khi được hỏi về nguyện vọng, 48,5% người khuyết tật mong muốn được hỗ trợ vốn để tạo việc làm, 13,56% đề nghị bố trí công việc phù hợp, và 4,1% mong muốn được học nghề.

Chính sách ưu đãi về y tế

Chính sách ưu đãi về y tế cho người khuyết tật là rất quan trọng, với 67% người khuyết tật vận động mong muốn nhận hỗ trợ chỉnh hình và phục hồi chức năng, như chân, tay giả và xe chuyên dùng Việt Nam có khả năng sản xuất các dụng cụ chỉnh hình, nhưng hiện tại chỉ đáp ứng khoảng 15% nhu cầu với hơn 20.000 dụng cụ/năm Từ năm 1991 đến 1996, đã có 175.000 trẻ em khuyết tật được phục hồi chức năng, 55.000 em được điều trị chỉnh hình, 15.000 nẹp chỉnh hình được cấp, cùng với 550 xe lăn cho đối tượng này.

Hiện nay, 68% người khuyết tật vẫn chưa có dụng cụ chỉnh hình cần thiết Trong số đó, 12% có khả năng tài chính để mua dụng cụ, trong khi 56% còn lại mong muốn sở hữu nhưng không đủ tiền để chi trả.

Nhà nước hỗ trợ khám chữa bệnh cho người khuyết tật bằng cách cấp miễn phí các khoản điều trị cho những người sống tại trung tâm nuôi dưỡng Đối với những người được nuôi dưỡng trong cộng đồng, nhà nước cung cấp thẻ bảo hiểm y tế để họ có thể tiếp cận dịch vụ y tế Trong trường hợp cần phẫu thuật, nhà nước cũng giảm một phần chi phí cho bệnh nhân.

Hỗ trợ người khuyết tật trong hoạt động thể thao và văn nghệ

Các hoạt động thể thao và văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp người khuyết tật vươn lên và hòa nhập cộng đồng Nhà nước cần hỗ trợ trang thiết bị cho các trung tâm thể thao dành cho người khuyết tật, đồng thời phối hợp với hội bảo trợ và các cơ quan khác để tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia các hoạt động này Hàng năm, các ngày hội văn hóa thể thao được tổ chức, như hai hội thi vào năm 1997 tại Quảng Trị và năm 1999 tại Đà Nẵng, đã khuyến khích người khuyết tật tích cực hòa nhập xã hội.

KỸ NĂNG CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT

Kỹ năng giao tiếp

- Đặc điểm tâm lý người khuyết tật

+ Mặc cảm ngoại hình: là sự chú trọng quá mức đến khiếm khuyết cơ thể đến nỗi gây đau đớn.

Ám ảnh sợ xã hội là nỗi sợ hãi và sự trốn tránh khi tham gia các hoạt động xã hội, như giao lưu và gặp gỡ trong những đám đông Người mắc chứng này thường cảm thấy lo lắng, căng thẳng khi phải đối mặt với tình huống xã hội, dẫn đến việc họ hạn chế hoặc tránh xa các tương tác cộng đồng.

- Kỹ năng giao tiếp với người khuyết tật

+ “Hãy nhìn vào con người họ hơn là nhìn vào tình trạng khuyết tật của họ.”

+ Tránh tò mò hỏ những câu hỏi về tình trạng khuyết tật của họ khi mới gặp.

+ Không nên có thái độ khó chịu vì những khoảng thời gian chết trong khi đang giao tiếp với NKT

+ Hỏi ý kiến của NKT trước khi có ý định hỗ trợ họ.

+ Nếu cần phê bình thì hãy phê bình cách thực hiện chứ không phải phê bình khuyết tật hay con người họ.

+ Sử dụng ngôn từ đúng mực, mang tính tích cực, giảm nhẹ, tránh gây sự phân biệt, kỳ thị.

Kỹ năng lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh

Kế hoạch là tập hợp các hoạt động được tổ chức theo lịch trình, với thời hạn và nguồn lực cụ thể nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra Việc lập kế hoạch giúp tư duy quản lý trở nên hệ thống hơn, cho phép bạn dự đoán các tình huống tương lai và phối hợp hiệu quả mọi nguồn lực cá nhân và tổ chức Điều này tạo ra sức mạnh tổng hợp, giúp bạn duy trì “mũi tiến công” vào mục tiêu cuối cùng Ngoài ra, kế hoạch còn giúp dễ dàng kiểm tra và giám sát hiệu quả thực hiện dự án Để xây dựng một kế hoạch chi tiết và khoa học, bạn có thể áp dụng phương pháp 5W1H2C5M với các yếu tố cần thiết.

- Xác định mục tiêu, yêu cầu công việc 1W (why)

- Xác định nội dung công việc 1W (what)

- Xác định 3W (where, when, who)

- Xác định cách thức thực hiện 1H (how)

- Xác định phương pháp kiểm soát và kiểm tra 2C (control, check)

- Xác định nguồn lực thực hiện 5M (man, money, material, machine và method)

1 Xác định mục tiêu, yêu cầu (Why)

Khi phải làm một công việc, điều đầu tiên mà bạn cần phải tự hỏi mình là:

- Tại sao tôi phải làm công việc này?

- Nó có ý nghĩa như thế nào với tổ chức, bộ phận của tôi?

- Hậu quả gì nếu tôi không thực hiện chúng?

Khi thực hiện một công việc, điều quan trọng đầu tiên cần xem xét là lý do thực hiện công việc đó Bằng cách xác định rõ yêu cầu và mục tiêu, bạn sẽ có thể tập trung vào những nhiệm vụ cần thiết và đánh giá hiệu quả cuối cùng một cách chính xác.

2 Xác định nội dung công việc (What)

- WHAT: (cái gì?) Nội dung công việc đó là gì?

- Hãy chỉ ra các bước để thực hiện công việc đó.

- Bạn hãy chắc rằng, bước sau là sự phát triển của bước trước.

- WHERE: (ở đâu?) có thể bao gồm các câu hỏi sau:

+ Công việc đó thực hiện tại đâu ?

+ Giao hàng tại địa điểm nào ?

+ Kiểm tra tại bộ phận nào ?

+ Thử nghiệm những công đoạn nào ? v.v…

- WHEN: (khi nào?) Công việc đó thực hiện khi nào, khi nào thì giao, khi nào kết thúc…

+ Để xác định được thời hạn phải làm công việc, bạn cần xác định được mức độ khẩn cấp và mức độ quan trọng của từng công việc.

Có bốn loại công việc: công việc quan trọng và khẩn cấp, công việc không quan trọng nhưng khẩn cấp, công việc quan trọng nhưng không khẩn cấp, và công việc không quan trọng cũng như không khẩn cấp Để quản lý thời gian hiệu quả, bạn cần ưu tiên thực hiện các công việc quan trọng và khẩn cấp trước.

- WHO: (ai?) bao gồm các khía cạnh sau:

4 Xác định cách thức thực hiện (How)

HOW: (như thế nào?) nó bao gồm các nội dung:

- Tài liệu hướng dẫn thực hiện là gì (cách thức thực hiện từng công việc)?

- Nếu có máy móc thì cách thức vận hành như thế nào?

5 Xác định phương pháp kiểm soát (Control)

Cách thức kiểm soát (CONTROL) sẽ liên quan đến:

- Công việc đó có đặc tính gì?

- Làm thế nào để đo lường đặc tính đó?

- Đo lường bằng dụng cụ, máy móc như thế nào?

- Có bao nhiêu điểm kiểm soát và điểm kiểm soát trọng yếu.

6 Xác định phương pháp kiểm tra (Check)

Phương pháp kiểm tra (CHECK) liên quan đến các nội dung sau:

Để đảm bảo quy trình làm việc hiệu quả, cần xác định rõ các bước công việc cần kiểm tra Thông thường, số lượng bước kiểm tra sẽ tương đương với số lượng công việc thực hiện, nhằm đảm bảo mọi khía cạnh đều được giám sát và đánh giá chính xác.

- Tần suất kiểm tra như thế nào? Việc kiểm tra đó thực hiện 1 lần hay thường xuyên (nếu vậy thì bao lâu một lần?).

- Ai tiến hành kiểm tra?

- Những điểm kiểm tra nào là trọng yếu?

Trong tổ chức của bạn, không thể có đủ nguồn lực để kiểm tra tất cả các công đoạn Vì vậy, chúng ta chỉ nên tập trung vào việc kiểm tra những điểm quan trọng nhất.

- Điểm kiểm tra trọng yếu tuân theo nguyên tắc Pareto (20/80), tức là những điểm kiểm tra này chỉ chiếm 20% số lượng nhưng chiếm đến 80% khối lượng sai sót.

Nhiều kế hoạch thường tập trung vào công việc mà bỏ qua tầm quan trọng của các nguồn lực Chỉ khi có đủ nguồn lực, kế hoạch mới trở nên khả thi và hiệu quả.

Nguồn lực bao gồm các yếu tố:

+ Material = nguyên vật liệu/hệ thống cung ứng

+ Machine = máy móc/công nghệ

+ Method = phương pháp làm việc

Công tác xã hội cá nhân và nhóm đối với người khuyết tật

Người khuyết tật là nhóm yếu thế do khiếm khuyết cơ thể, dẫn đến suy giảm các chức năng xã hội Đội ngũ nhân viên công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giúp họ tiếp cận các nguồn lực bên ngoài và phát huy nguồn lực bên trong Điều này giúp người khuyết tật trở nên mạnh mẽ hơn, có khả năng sống độc lập và tham gia vào các hoạt động lao động, học tập như mọi người khác.

Công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người khuyết tật bằng cách đánh giá nhu cầu xã hội của họ và quản lý trường hợp để giúp họ tiếp cận các dịch vụ phù hợp Nhân viên công tác xã hội không chỉ kết nối người khuyết tật với dịch vụ mà còn cung cấp hỗ trợ tâm lý cho cả họ và gia đình Với kiến thức và kỹ năng chuyên môn, nhân viên công tác xã hội góp phần phục hồi chức năng xã hội cho cá nhân, gia đình và cộng đồng người khuyết tật.

Công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy môi trường xã hội, bao gồm chính sách, pháp luật và cộng đồng thân thiện, nhằm hỗ trợ người khuyết tật hòa nhập vào xã hội Đội ngũ công tác xã hội hoạt động như những người xúc tác và biện hộ, đảm bảo rằng cá nhân và gia đình người khuyết tật được tiếp cận các chính sách an sinh xã hội Qua đó, họ giúp người khuyết tật nâng cao chức năng và cải thiện chất lượng cuộc sống của mình.

Nhân viên công tác xã hội không chỉ giải quyết các vấn đề xã hội mà còn thực hiện các hoạt động giáo dục phòng ngừa và tập huấn, cung cấp kiến thức cho gia đình về cách chăm sóc người khuyết tật Điều này giúp người khuyết tật trở nên chủ động, tự tin hơn trong cuộc sống và giảm thiểu các vấn đề phát sinh Họ cũng tư vấn cho chính quyền về các chính sách phù hợp nhằm ngăn ngừa vấn đề xã hội Thông qua các dịch vụ xã hội như chăm sóc sức khoẻ, cải thiện tình hình kinh tế, hỗ trợ tâm lý, nhân viên công tác xã hội giúp người khuyết tật tiếp cận dịch vụ, phát huy khả năng và vượt qua khó khăn Bằng cách giáo dục và cung cấp kỹ năng giải quyết vấn đề, họ tạo cơ hội cho người khuyết tật hòa nhập cộng đồng, phát triển nhân cách và tăng cường giao lưu xã hội.

Năm 2010, Đề án Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 – 2020 (Đề án 32) đã được Thủ tướng phê duyệt với mục tiêu phát triển nghề công tác xã hội và xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội Đề án nhằm đảm bảo đủ số lượng và chất lượng nhân lực, đồng thời phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội tại các cấp Tổng kinh phí thực hiện đề án lên tới 2.347 tỷ đồng, góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.

Đến năm 2020, Việt Nam cần đào tạo lại 60.000 nhân viên xã hội, với mục tiêu đạt 30.000 người vào năm 2015 Đây là một thách thức lớn đối với ngành công tác xã hội, vì hiện tại, đội ngũ nhân viên chủ yếu là những người chưa được đào tạo bài bản, làm việc không chuyên nghiệp và thiếu kỹ năng cần thiết Nhiều nhân viên làm trái ngành nghề và kiêm nhiệm, dẫn đến việc giải quyết các vấn đề xã hội không hiệu quả và bền vững Do đó, việc nâng cao chất lượng đào tạo và chuyên môn cho lực lượng công tác xã hội là rất cần thiết để cải thiện tình hình hiện tại.

Nhận thức về nghề công tác xã hội tại Việt Nam vẫn còn mới mẻ, dẫn đến sự phát triển và đào tạo cán bộ, nhân viên trong lĩnh vực này chưa đồng bộ Hệ thống nhân viên và tổ chức cung cấp dịch vụ công tác xã hội còn mỏng và thiếu tính chuyên nghiệp.

Chính sách xã hội cần kết hợp chặt chẽ với việc phát triển và triển khai các dịch vụ xã hội, chuyển từ các mô hình trợ cấp tài chính sang đào tạo nghề và kỹ năng sống, nhằm nâng cao khả năng sống độc lập cho người khuyết tật Đồng thời, tiếng nói của người khuyết tật phải được lắng nghe và thể hiện rõ trong quá trình xây dựng luật và chính sách dành cho họ Ngoài ra, các hoạt động nghiên cứu và thực hành trong lĩnh vực công tác xã hội cần bổ sung chức năng để đảm bảo tiếng nói của người khuyết tật được đưa vào các chính sách và chương trình xã hội.

Việc phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công tác xã hội cần chú trọng đến kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp Mặc dù các chương trình đào tạo tại các trường đại học đã bao gồm một số môn học liên quan đến khuyết tật, nhưng nội dung đào tạo và thực hành vẫn chưa được hệ thống hóa, đặc biệt là thiếu các môn học về kỹ năng trong thực hành công tác xã hội Đầu tư vào kỹ năng và xây dựng các chuẩn mực thực hành cùng quy định đạo đức là rất cần thiết để triển khai các mô hình hỗ trợ cho những đối tượng yếu thế trong xã hội, đặc biệt là người khuyết tật và trẻ khuyết tật.

Theo TS Nguyễn Quốc Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Tư liệu, việc xây dựng các mô hình và trung tâm công tác xã hội từ cấp cơ sở là định hướng quan trọng cho hệ thống công tác xã hội chuyên nghiệp ở Việt Nam Các mô hình này có thể thuộc hệ thống quản lý nhà nước hoặc tổ chức phi chính phủ, nhưng đều phải chịu sự tác động từ hệ thống phúc lợi xã hội Đối với người khuyết tật, nhà nước cần đầu tư tối đa cho các mô hình thực hành và điều tiết nguồn lực từ tài trợ, hoạt động từ thiện Việc thành lập hội nhân viên xã hội và hội đào tạo công tác xã hội là cần thiết để định hướng quy chuẩn nghề nghiệp và đánh giá kỹ năng cho người làm công tác xã hội, từ đó nâng cao tính chuyên nghiệp và xây dựng cơ chế phát triển công tác xã hội trong đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn.

Đội ngũ chuyên nghiệp, được đào tạo từ trung cấp đến tiến sỹ, cần được bồi dưỡng nâng cao năng lực và kiến thức Việc này là cần thiết để trang bị cho cán bộ, hội viên và tình nguyện viên các tổ chức xã hội những kỹ năng công tác xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội trong lĩnh vực này.

CÁC HOẠT ĐỘNG HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG

Tổ chức các hoạt động giáo dục và hoạt động khác cùng với cộng tác viên cộng đồng để nâng cao nhận thức xoá bỏ kỳ thị với người khuyết tật

Kỳ thị là một vấn đề phổ biến mà các nhóm thiểu số thường phải đối mặt, đặc biệt là những người mắc HIV, người đồng tính, và tội nhân sau khi ra tù Người khuyết tật cũng chịu ảnh hưởng nặng nề từ thái độ này, khiến họ gặp khó khăn trong việc hòa nhập và có được cuộc sống bình thường.

Nghiên cứu của Erving Goffman (1963) phân loại kỳ thị thành ba loại: kỳ thị về cơ thể, kỳ thị về tính cách và kỳ thị bộ lạc Kỳ thị về cơ thể liên quan đến những biến dạng thể chất, trong khi kỳ thị về tính cách nhấn mạnh những thiếu sót trong nhân cách, như việc bị coi là thiếu ý chí Kỳ thị bộ lạc liên quan đến sắc tộc, quốc tịch hoặc tôn giáo, cũng như việc tham gia vào các tổ chức xã hội bị khinh miệt Công trình của Parker và Aggleton (2003) xem kỳ thị là một quá trình xã hội, tạo ra và tái tạo các mối quan hệ quyền lực và kiểm soát, đồng thời cho thấy cách thức mà kỳ thị biến sự khác biệt thành bất bình đẳng Theo Ogden và Nyblade (2005), tình trạng khuyết tật có thể dẫn đến kỳ thị loại thứ nhất, nhưng một số dạng khuyết tật cũng có thể gây ra kỳ thị loại thứ hai.

Năm 2007, với sự tài trợ của Quỹ Ford, Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội (ISDS) đã khảo sát 4 tỉnh thành ở Việt Nam, thu thập các số liệu thống kê về quan điểm của cộng đồng đối với người khuyết tật Kết quả cho thấy mức độ phân biệt đối xử đối với người khuyết tật là rất lớn và có sự biến thiên rõ rệt giữa các tỉnh.

Thái độ của cộng đồng với người khuyết tật Tỉ lệ quan điểm đồng ý Đáng thương 98% đến 99%

Xây dựng các giải pháp để trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật cho người khuyết tật

Người khuyết tật không thể có cuộc sống bình thường 40% đến 59,4%

Người khuyết tật bị như vậy là do số phận 56% đến 65%

Người khuyết tật đáng phải gánh chịu số kiếp khuyết tật như vậy vì họ phải trả giá cho việc làm xấu xa ở kiếp trước

Gặp phải người khuyết tật là gặp vận đen 17%

Tổ chức các hoạt động giáo dục và sự kiện với sự tham gia của cộng tác viên cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức và xoá bỏ kỳ thị đối với người khuyết tật là một bước quan trọng Những hoạt động này không chỉ giúp thay đổi cách nhìn nhận của xã hội mà còn tạo ra môi trường hòa nhập và hỗ trợ cho người khuyết tật Việc hợp tác chặt chẽ với cộng đồng sẽ góp phần lan tỏa thông điệp tích cực và thúc đẩy sự đồng cảm, từ đó giảm thiểu định kiến và kỳ thị.

2 Xây dựng các giải pháp để trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật cho người khuyết tật

Hiện nay, khoảng 10% dân số thế giới là người khuyết tật, trong đó Việt Nam có khoảng 6,7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,5% dân số Đặc biệt, 87% trong số họ sống ở nông thôn và thường gặp khó khăn trong cuộc sống, cần sự hỗ trợ từ nhà nước và xã hội Do đó, nhu cầu về trợ giúp pháp lý và truyền thông pháp luật cho người khuyết tật là rất lớn Để bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật và khẳng định trách nhiệm của các quốc gia trong việc hỗ trợ họ, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền của người khuyết tật vào ngày 13/12/2006, nhấn mạnh việc đảm bảo quyền con người và tự do cho người khuyết tật Việt Nam là một trong 150 quốc gia tham gia Công ước này.

Tăng trưởng kinh tế cần gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội một cách công bằng và tiến bộ Trước thực trạng số lượng người khuyết tật lớn, Đảng và Nhà nước đã ban hành các chính sách, pháp luật cụ thể để hỗ trợ họ Hiến pháp năm 1992, tại Điều 59 và Điều 67, khẳng định rằng Nhà nước và xã hội sẽ tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật học văn hóa và nghề nghiệp phù hợp, đồng thời hỗ trợ người già, người tàn tật và trẻ mồ côi không nơi nương tựa Năm 2001, Quốc hội cũng đã có những hành động cụ thể nhằm cải thiện đời sống cho nhóm đối tượng này.

Nghị quyết số 51/QH10 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm

Năm 1992, Điều 59 của Hiến pháp đã được sửa đổi, thay đổi từ “tàn tật” sang “khuyết tật” để thể hiện sự tôn trọng và nhân văn hơn đối với người khuyết tật Nội dung liên quan đến người khuyết tật được quy định rõ ràng, nhấn mạnh rằng “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp.” Vào ngày 28/11/2013, Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 6 đã thông qua những quy định này, khẳng định cam kết của nhà nước đối với quyền lợi của người khuyết tật.

Hiến pháp (sửa đổi) quy định tại Điều 59 rằng Nhà nước sẽ trợ giúp tất cả công dân, bao gồm cả người khuyết tật có và không có nơi nương tựa, nhằm đảm bảo bình đẳng về cơ hội thụ hưởng phúc lợi xã hội và phát triển hệ thống an sinh xã hội Điều 61 nhấn mạnh việc mở rộng cơ hội học tập cho người khuyết tật, không phân biệt độ tuổi, với sự ưu tiên cho giáo dục ở các vùng khó khăn, miền núi, hải đảo và cho những người nghèo, đồng thời khuyến khích phát triển nhân tài.

Hệ thống pháp luật về người khuyết tật tại Việt Nam đã được hoàn thiện, thể chế hoá các chính sách của Đảng và phù hợp với Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật Quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí cho người khuyết tật đã được khẳng định trong nhiều văn bản pháp luật, như Điều 10 của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Nghị định số 07/2007/NĐ-CP Đặc biệt, Luật Người khuyết tật năm 2010 đã quy định rõ quyền được trợ giúp pháp lý cho tất cả người khuyết tật, không phân biệt tình trạng có hay không có nơi nương tựa.

Ngày 05/8/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1019/QĐ-BTP phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020, với mục tiêu 90% người khuyết tật được trợ giúp pháp lý trong giai đoạn 2012-2015 và 100% trong giai đoạn 2016-2020 Để thực hiện Đề án, ngày 18/12/2012, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 3888/QĐ-BTP về Kế hoạch năm 2013 cho chính sách trợ giúp pháp lý Ngày 05/02/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 07/2007/NĐ-CP, quy định rõ rằng tất cả người khuyết tật theo Luật Người khuyết tật đều được trợ giúp pháp lý.

Chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật đã được triển khai hiệu quả, với khoảng 3.670 lượt người khuyết tật được hỗ trợ từ năm 2007 đến nay, bên cạnh nhiều thương binh và bệnh binh Trong giai đoạn thí điểm từ 2005-2009, 05 tỉnh đã trợ giúp pháp lý cho 965 người khuyết tật và người nhiễm chất độc màu da cam Đối tượng chủ yếu được trợ giúp là hội viên của các hội người khiếm thị, người khiếm thính, với nhiều hình thức như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, và đại diện ngoài tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp Các quyền lợi đặc thù của người khuyết tật, như chăm sóc sức khỏe, trợ cấp xã hội, học tập, và việc làm, cũng được chú trọng Việc trợ giúp pháp lý diễn ra tại trụ sở Trung tâm, qua các chi nhánh, và các hoạt động lưu động, nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người khuyết tật.

Hoạt động truyền thông về pháp luật và trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật được tăng cường nhằm giúp họ nhận thức rõ quyền lợi của mình và tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí Các Trung tâm đã hợp tác với các cơ quan liên quan để phổ biến thông tin về chính sách ưu đãi cho người khuyết tật qua các phương tiện truyền thông, tổ chức các buổi nói chuyện pháp luật và phát tờ gấp giới thiệu về chính sách và pháp luật liên quan Ngoài ra, biển thông tin về quyền trợ giúp pháp lý cũng được đặt tại các địa phương và Câu lạc bộ người khuyết tật để nâng cao nhận thức cộng đồng.

Mặc dù đã đạt được một số kết quả tích cực, hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật trong những năm qua vẫn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc cần được khắc phục.

Nhiều người khuyết tật vẫn chưa nắm rõ quyền được trợ giúp pháp lý, hoặc mặc dù biết nhưng không thể tiếp cận dịch vụ này Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động truyền thông chưa được triển khai rộng rãi và phương pháp truyền thông chưa phù hợp với từng dạng khuyết tật, dẫn đến thông tin chưa đến tay đông đảo người khuyết tật.

Người câm điếc, với khoảng 2,6 triệu người tại Việt Nam, gặp khó khăn trong giao tiếp và thu thập thông tin pháp lý do môi trường sống hạn chế và phương thức giao tiếp chủ yếu bằng cử chỉ, hình ảnh Trong khi người khiếm thị có sách nói và chữ nổi, người khuyết tật chân, tay có nhiều cơ hội học hỏi, thì người câm điếc lại chỉ có 32.000 ký hiệu giao tiếp, gây cản trở khả năng hòa nhập cộng đồng Ngay cả giáo viên dạy người khiếm thính cũng gặp khó khăn trong việc truyền đạt thông tin đầy đủ và chính xác, thường phải tốn nhiều thời gian và công sức để giao tiếp hiệu quả.

Đội ngũ cộng tác viên trợ giúp pháp lý hiện có đông đảo, nhưng quỹ thời gian dành cho hoạt động này lại rất hạn chế, dẫn đến chất lượng dịch vụ không đồng đều Hiện tại, các vụ việc trợ giúp pháp lý chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tư vấn pháp luật, chưa có sự phát triển đội ngũ cộng tác viên từ các cơ quan, tổ chức chuyên về người khuyết tật hoặc những người khuyết tật tham gia trực tiếp.

Hoạt động trợ giúp pháp lý đang được tăng cường nhưng chủ yếu chỉ đến trung tâm xã, chưa phủ sóng đến nhiều thôn, bản, vùng sâu, vùng xa Trung bình mỗi năm, Trung tâm chỉ tổ chức một đợt trợ giúp pháp lý lưu động tại xã trong 1-2 ngày Điều này dẫn đến việc các xã không có Câu lạc bộ hoặc Câu lạc bộ hoạt động không hiệu quả, cùng với việc huyện chưa có Chi nhánh, không thể đáp ứng nhu cầu của người dân trong thời gian Trung tâm không tổ chức hoạt động Đặc biệt, người khuyết tật gặp khó khăn trong việc di chuyển và giao tiếp, khiến họ không thể đến yêu cầu trợ giúp pháp lý tại các điểm lưu động, trong khi các phương thức trợ giúp pháp lý đặc thù cho họ vẫn chưa được triển khai.

Cơ sở vật chất và kinh phí của các Trung tâm trợ giúp pháp lý hiện đang gặp nhiều khó khăn Nhiều Trung tâm thiếu xe ô tô để thực hiện trợ giúp pháp lý lưu động, trong khi trụ sở làm việc và phòng tiếp dân chưa đáp ứng được nhu cầu tiếp cận của người khuyết tật, với nhiều hạn chế như ở tầng cao hoặc không có lối đi riêng Hơn nữa, trang thiết bị làm việc còn thiếu thốn và kinh phí cho các hoạt động chuyên môn như tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tài trợ từ các Dự án hợp tác quốc tế.

Nâng cao trách nhiệm, thực hiện luật người khuyết tật trong cộng đồng

Sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án trợ giúp người tàn tật giai đoạn 2006 – 2010 (Quyết định 239/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 10 năm 2006), mục tiêu chính là cải thiện chất lượng cuộc sống cho người khuyết tật Đề án hướng tới việc tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội và xây dựng một môi trường xã hội ngày càng quan tâm hơn đến quyền lợi của họ.

Ngày 01/01/2011, Luật Người khuyết tật chính thức có hiệu lực, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật, bao gồm quyền tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội và sống độc lập, hòa nhập cộng đồng Nhà nước cam kết thực hiện các chính sách phòng ngừa và giảm thiểu khuyết tật, bảo trợ xã hội, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, và tiếp cận công trình công cộng Đặc biệt, ưu tiên hỗ trợ cho trẻ em và người cao tuổi khuyết tật, tạo điều kiện cho họ phục hồi chức năng và khắc phục khó khăn để sống độc lập và hòa nhập với cộng đồng.

Ngày 05 tháng 8 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1019/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020. Mục tiêu chủ yếu:

Giai đoạn 2012 - 2015, 70% người khuyết tật đã tiếp cận dịch vụ y tế, 60% trẻ khuyết tật có khả năng học tập được tiếp cận giáo dục, và 250.000 người khuyết tật trong độ tuổi lao động được học nghề và tạo việc làm phù hợp Ít nhất 50% công trình công cộng như trụ sở cơ quan nhà nước, nhà ga, và cơ sở y tế đã đảm bảo điều kiện tiếp cận cho người khuyết tật Ngoài ra, 30% người khuyết tật được hỗ trợ sử dụng công nghệ thông tin, 20% tham gia hoạt động văn hóa nghệ thuật, và 25% được hỗ trợ trong thể dục thể thao.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, 90% người khuyết tật đã được tiếp cận các dịch vụ y tế và 70% trẻ khuyết tật có khả năng học tập được hưởng quyền giáo dục Hơn 300.000 người khuyết tật trong độ tuổi lao động đã được học nghề và tìm kiếm việc làm phù hợp Tất cả các công trình công cộng như trụ sở cơ quan nhà nước, nhà ga, bến xe, cơ sở y tế, giáo dục và thể thao đều đảm bảo điều kiện tiếp cận cho người khuyết tật Ngoài ra, 50% người khuyết tật được hỗ trợ sử dụng công nghệ thông tin, 30% tham gia các hoạt động văn hóa nghệ thuật, và 40% tham gia thể dục thể thao Cuối cùng, 100% người khuyết tật được trợ giúp pháp lý khi cần thiết.

Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi Pháp lệnh về người tàn tật được ban hành vào ngày 30 tháng 7 năm 1998 và Luật Người khuyết tật (Luật số 51/2010/QH12), điều kiện sống của người khuyết tật đã có những cải thiện đáng kể Chính sách hỗ trợ cho thương binh, người bị nhiễm chất độc hóa học và con cái của họ đã được thực hiện đầy đủ và kịp thời theo Pháp lệnh Người có công Ngoài ra, người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng cũng nhận được trợ cấp thường xuyên, cùng với các chính sách hỗ trợ y tế Bên cạnh đó, việc tổ chức dạy nghề và tạo việc làm phù hợp cho những người khuyết tật còn khả năng lao động đã được khởi động.

Nhiều hoạt động hỗ trợ người khuyết tật đã được triển khai, bao gồm chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng và cung cấp trang thiết bị chỉnh hình Chính sách ưu tiên cũng hỗ trợ chi phí cho người khuyết tật trong giao thông, giáo dục, đào tạo và các dịch vụ văn hóa, thể dục - thể thao Đặc biệt, người khuyết tật được hưởng trợ cấp thường xuyên tại cộng đồng theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị định 28/2012/NĐ-CP, góp phần nâng cao đời sống và tạo điều kiện cho họ hòa nhập cộng đồng.

Người khuyết tật đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội như chăm sóc sức khỏe, học nghề và tìm kiếm việc làm Họ thường rơi vào hoàn cảnh nghèo đói, ngoại trừ những người hưởng chính sách người có công Người khuyết tật nặng thường phụ thuộc vào sự trợ giúp của nhà nước và cộng đồng Để thực hiện hiệu quả các chính sách của Đảng và Nhà nước, cần có sự quan tâm từ các cấp chính quyền, đoàn thể và cơ quan chức năng nhằm đảm bảo người khuyết tật được hưởng đầy đủ các quyền lợi của mình.

1 Tiếp tục tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với người khuyết tật và bản thân người khuyết tật với vấn đề khuyết tật; tạo sự đồng thuận và quan tâm nhiều nhất để tạo điều kiện cho người khuyết tật Đồng thời, làm cho người khuyết tật hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình để họ không tự ti, mặc cảm, mà phấn đấu vươn lên trong cuộc sống.

2 Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện LuậtNgười khuyết tật của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể nhân dân và các tổ chức trợ giúp người khuyết tật; trước hết là trách nhiệm của các ngành chức năng của nhà nước có liên quan trực tiếp tới tổ chức thực hiện và giải quyết chính sách.

Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức của người khuyết tật hoạt động và đảm bảo họ có thể tiếp cận các công trình phúc lợi, nhà ở và giao thông thuận tiện Cần mang đến cho người khuyết tật cơ hội hoạt động hòa nhập và bình đẳng trong xã hội.

3 Thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách đối với người có công, các chính sách xã hội đối với người khuyết tật như: bảo trợ xã hội, trợ giúp xã hội, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, tiếp cận các thông tin, tham gia và hưởng thụ văn hóa, thể dục, thể thao, trợ giúp pháp lý Đặc biệt, phải tạo điều kiện cho người khuyết tật học nghề, có việc làm phù hợp với sức khỏe và có thu nhập ổn định. Các cấp chính quyền, nhất là các cơ quan chức năng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát để đảm bảo các chính sách với người khuyết tật được thực hiện chính xác, đầy đủ, kịp thời.

4 Đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa, huy động toàn xã hội tạo thêm nguồn lực để hỗ trợ người khuyết tật và gia đình có người khuyết tật; quan tâm chia sẻ, động viên để người khuyết tật có thêm động lực vượt qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống.

Những công việc của người nhân viên xã hội đối với người khuyết tật tại

Người nhân viên xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các gia đình có người khuyết tật với các dịch vụ xã hội phù hợp Để hỗ trợ hiệu quả cho những gia đình này, nhân viên xã hội cần thực hiện một số nhiệm vụ quan trọng.

Nhân viên xã hội cần đánh giá chính xác tình trạng của cá nhân, tìm hiểu nguyên nhân và triệu chứng liên quan đến khuyết tật, đồng thời dự đoán mức độ khuyết tật Việc nắm rõ quá trình suy yếu và các biểu hiện của tật là rất quan trọng trong công tác hỗ trợ và can thiệp.

Hiểu rõ tâm trạng của thân chủ và gia đình là rất quan trọng Cần tạo cơ hội để họ chia sẻ những lo lắng và nỗi buồn của mình Việc xây dựng lòng tin và thể hiện sự thông cảm với những khó khăn mà họ đang trải qua sẽ giúp tạo ra một mối quan hệ vững chắc và hỗ trợ hiệu quả hơn.

- Giúp gia đình nhận định tình trạng của thân chủ, và bàn kế hoạch giải quyết những nhu cầu thiết yếu;

- Giúp gia đình tìm những dịch vụ y tế, xã hội, pháp luật, giải trí trong cộng đồng;

Giúp gia đình theo dõi sự tiến triển và quá trình phục hồi chức năng của thân chủ, đồng thời hướng dẫn họ cách giải quyết các vấn đề khó khăn Xác định thời điểm cần thiết phải tìm kiếm dịch vụ hỗ trợ bên ngoài và lập kế hoạch ứng phó trong trường hợp khẩn cấp.

Xác định mục tiêu trong công tác xã hội với thân chủ và gia đình là rất quan trọng, nhằm nâng cao khả năng tự túc trong sinh hoạt của thân chủ Đồng thời, việc giáo dục gia đình về chăm sóc và phục hồi cũng đóng vai trò thiết yếu trong quá trình này.

- CTXH với những chương trình, dịch vụ trong cộng đồng: dạy văn hóa, giáo dục lao động hướng nghiệp, dạy nghề.

Xây dựng các chương trình giáo dục cho người khuyết tật tại nhà trường và tại cộng đồng

Chính phủ và các bộ ngành đã chú trọng thực hiện Luật giáo dục và Pháp lệnh về người tàn tật, tạo điều kiện thuận lợi cho người khuyết tật tiếp cận dịch vụ giáo dục Số lượng học sinh, sinh viên khuyết tật đang gia tăng nhanh chóng; từ 6.000 trẻ khuyết tật học tại 72 cơ sở giáo dục chuyên biệt năm học 1996-1997, đến 230.000 trẻ khuyết tật học tại 9.000 trường phổ thông vào năm học 2005-2006, chiếm tỷ lệ 25% Học sinh khuyết tật không chỉ học ở cấp mầm non và tiểu học mà còn ở trung học, trung cấp và cao đẳng, với nhiều em đạt thành tích học tập xuất sắc.

Công tác đào tạo nguồn lực cho giáo dục khuyết tật đang ngày càng được chú trọng, với sự hình thành các khoa đào tạo giáo dục đặc biệt tại nhiều trường đại học và cao đẳng sư phạm Bộ Giáo dục và Đào tạo, phối hợp với các bộ liên quan, đã ban hành mã ngành cho đào tạo giáo dục trẻ em khuyết tật và giáo dục đặc biệt Đến nay, đã có 264 cán bộ quản lý giáo dục từ 63 tỉnh, thành phố và giảng viên của các trường đại học, cao đẳng sư phạm được bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật.

Hơn 700 giáo viên trung học đã được đào tạo chuyên môn về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại 07 trường cao đẳng sư phạm, cùng với hơn 10.000 giáo viên mầm non và trung học được bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng giảng dạy cho trẻ khuyết tật Mạng lưới giáo viên cốt cán tại các huyện đã được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của gần 230.000 trẻ khuyết tật.

Mặc dù đã có những tiến bộ trong giáo dục cho trẻ em khuyết tật, vẫn còn một số lượng lớn trẻ em, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, chưa được tiếp cận với dịch vụ giáo dục Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008, chỉ có 36,8% trẻ em khuyết tật được học tại các trường tiểu học hoặc phổ thông Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện kinh tế khó khăn, nhận thức hạn chế của gia đình và cộng đồng, cùng với cơ sở vật chất giáo dục chưa đáp ứng đủ yêu cầu tiếp cận.

* Học nghề của người khuyết tật

Kể từ khi có Pháp lệnh, số lượng người khuyết tật tham gia học nghề đã tăng đáng kể, với gần 19.000 người trong giai đoạn 1999 - 2004 và khoảng 8.000 người mỗi năm từ 2005 đến 2008, gấp đôi so với giai đoạn trước, trong đó năm 2008 có 8.712 người Hiện tại, cả nước có 260 cơ sở dạy nghề tại 56 tỉnh, thành phố, bao gồm 55 cơ sở chuyên biệt và 205 cơ sở tham gia dạy nghề cho người khuyết tật Trong những năm qua, nhà nước đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng từ Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo để xây dựng cơ sở và hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho người khuyết tật, với ngân sách tăng dần qua các năm (2005: 11,5 tỷ; 2006: 20 tỷ; 2007: 156 tỷ; 2008: 165 tỷ; 2009: 183 tỷ).

Hệ thống quản lý Nhà nước về dạy nghề đã được củng cố từ Trung ương đến địa phương, với các quy định pháp luật ưu tiên cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật, bao gồm hỗ trợ về địa điểm, vốn, kinh phí đào tạo, miễn giảm thuế và lãi suất vay ưu đãi Các cơ sở dạy nghề khác cũng được khuyến khích nhận người khuyết tật, đảm bảo nguồn kinh phí đào tạo Người khuyết tật học nghề có cơ hội nhận học bổng, trợ cấp xã hội và được miễn hoặc giảm học phí tùy theo mức độ khuyết tật và khả năng lao động Tuy nhiên, theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008, tỷ lệ người khuyết tật được học nghề vẫn còn thấp, chỉ đạt 12,1%.

* Việc làm của người khuyết tật

Theo khảo sát năm 2008, hơn 50% người khuyết tật trong độ tuổi lao động có việc làm, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp (trên 70%) Các chính sách tạo việc làm cho người khuyết tật đã giúp hơn 400 cơ sở sản xuất, kinh doanh của thương binh và người khuyết tật tạo việc làm ổn định cho 15.000 lao động Khoảng 65% hộ gia đình có người khuyết tật được hưởng các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất như miễn giảm thuế và hỗ trợ tín dụng ưu đãi Tuy nhiên, phần lớn người khuyết tật đang làm việc không ổn định, chủ yếu tự tạo việc làm hoặc làm việc trong các tổ chức nhân đạo, và rất ít người có cơ hội làm việc ổn định trong các doanh nghiệp hoặc cơ quan nhà nước.

Pháp luật lao động yêu cầu doanh nghiệp phải tuyển dụng từ 2-3% lao động là người tàn tật, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp Nếu không đạt tỷ lệ này, doanh nghiệp phải đóng tiền vào Quỹ việc làm cho người tàn tật Tuy nhiên, hầu hết doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thực hiện quy định này do thiếu công tác tuyên truyền và giám sát Ngoài ra, người khuyết tật thường không đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng, và doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc bố trí công việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của họ, đặc biệt trong các ngành nghề đặc thù như luyện kim, hóa chất, địa chất, và xây dựng.

Cung cấp các chương trình vui chơi giải trí cho người khuyết tật

Trong những năm qua, các Bộ, ngành địa phương đã nỗ lực cải thiện điều kiện tiếp cận công trình công cộng cho người khuyết tật thông qua việc ban hành quy chuẩn xây dựng và cải tạo các công trình Tuy nhiên, số lượng công trình hạ tầng đáp ứng tiêu chuẩn tiếp cận vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông, cơ quan hành chính, bệnh viện và trường học Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của xã hội về người khuyết tật còn thấp, thiếu nguồn lực đầu tư cho cải tạo, cũng như thiếu chế tài xử phạt và giám sát từ các cơ quan thực thi pháp luật.

CÁC TỔ CHỨC CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT

Ngày đăng: 19/02/2022, 13:33

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w