Từ năm 2000 trở lại đây, tỉnh Phú Thọ và huyện Đoan Hùng có chủ trương khôi phục và mở rộng diện tích trồng bưởi, nhằm mục đích tạo thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, qui mô lớn, chủ yếu với hai giống bưởi đặc sản là bưởi Sửu và bưởi Bằng Luân thông qua các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về hỗ trợ nông nghiệp trọng điểm), kế hoạch phát triển cây bưởi đặc sản Đoan Hùng và bưởi diễn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 20162020… Năm 2006, bưởi Đoan Hùng chính thức được bảo hộ thương hiệu dưới hình thức chỉ dẫn địa lý tại Quyết định số 73QĐSHTT, tuy nhiên đến nay việc phát triển vùng sản xuất, tìm kiếm thị trường, quảng bá thương hiệu sản phẩm bưởi quả Đoan Hùng vẫn còn nhiều hạn chế. Thống kê thời điểm nhận được văn bằng bảo hộ chỉ dẫn địa lý bưởi (năm 2006), trên toàn huyện Đoan Hùng mới có khoảng 205 ha bưởi đã cho thu hoạch, chủ yếu là giống bưởi Bằng Luân trong đó có nhiều diện tích bưởi có tuổi cây trên 20 năm cho chất lượng quả bưởi ngon. Với nhiều chủ trương và chính sách khuyến khích phát triển, đến nay diện tích bưởi của huyện đã tăng lên qua các năm. Số liệu của UBND huyện Đoan Hùng, đến thời điểm hiện tại, tổng diện tích bưởi hiện có là 2.347ha, trong đó diện tích 2 giống bưởi đặc sản là 1.400ha (xấp xỉ 60%), diện tích bưởi Sửu và bưởi Bằng Luân tương ứng là 536ha và 864ha. Bên cạnh việc mở rộng sản xuất các giống bưởi đặc sản, diện tích bưởi Diễn và một số giống bưởi khác (Da Xanh, Xuân Vân, bưởi chua,...) chiếm khoảng 40% (trong đó diện tích bưởi Diễn là 830ha, tập trung ở 10 xã phía Nam của huyện). Tổng diện tích bưởi đã cho thu hoạch trên địa bàn huyện Đoan Hùng là 1.500ha (xấp xỉ 64%) tạo ra một nguồn thu lớn cho người sản xuất, kinh doanh góp phần không nhỏ trong việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp của toàn huyện nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển vùng sản xuất bưởi vẫn còn một số tồn tại: Diện tích, sản lượng bưởi đã được mở rộng nhưng chưa đạt theo kế hoạch đề ra. Năng suất, sản lượng bưởi đã tăng so với trước nhưng chưa xứng với tiềm năng. Việc nghiên cứu cải tạo mẫu mã quả bước đầu cho kết quả khả quan nhưng triển khai nhân ra diện rộng còn hạn chế. Công tác quản lý cây đầu dòng chưa chặt chẽ. Đặc biệt là chất lượng bưởi quả còn chưa chưa ổn định, hiện tượng khô tôm, khô múi là khá phổ biến trên giống bưởi Bằng Luân. Tổn thất trong thu hoạch vào thời điểm cuối vụ ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và sản lượng. Công tác quản lý nhà nước đối với phát triển vùng sản xuất còn bộc lộ một số bất cập. Việc áp dụng chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 2102013NĐCP ngày 19122013 của Chính phủ còn hạn chế. Việc liên kết giữa nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà nông chưa thực hiện được, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ chưa kết nối theo chuỗi sản phẩm. Hiện tại, trên địa bàn còn khá ít doanh nghiệp nào đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và kinh doanh bưởi tập trung với quy mô lớn. Đối với diện tích bưởi đặc sản, một số hộ trồng bưởi chưa chú trọng đầu tư thâm canh, còn trồng xen ghép với các loại cây trồng khác (chè, sắn, các loại cây ăn quả khác…), chưa triệt để áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật nên năng suất bưởi còn đạt thấp. Trình độ nhận thức, tư tưởng, tập quán một số bộ phận nông dân còn mang nặng tư tưởng sản xuất nhỏ, chưa chú trọng vào đầu tư thâm canh, sản xuất hàng hóa, gìn giữ và phát triển thương hiệu; thậm chí có những hộ trồng bưởi Bằng Luân thiếu kiên trì đã tiến hành ghép cải tạo, thay thế bằng giống bưởi Diễn. Nguyên nhân một phần do đặc tính của giống bưởi Bằng Luân những năm đầu mới cho quả, năng suất, chất lượng chưa cao, giá bán thấp hơn nhiều so với vườn bưởi lâu năm. Một số nơi cây giống sử dụng chưa được kiểm soát về nguồn gốc; cơ sở sản xuất giống trên địa bàn còn thiếu và chưa đáp ứng theo quy định. Các văn bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giống cây ăn quả còn thiếu nên gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý. Công tác quản lý chỉ dẫn địa lý, phát triển thương hiệu bưởi Đoan Hùng còn hạn chế; việc kinh doanh bưởi không phải là bưởi đặc sản Đoan Hùng bưởi Diễn, bưởi Da Xanh, bưởi Năm roi, bưởi Xuân Vân,...) nhưng lại gắn thương hiệu bưởi Đoan Hùng diễn ra phổ biến đã làm ảnh hưởng lớn đến thương hiệu bưởi đặc sản Đoan Hùng. Hiệp hội sản xuất và kinh doanh bưởi Đoan Hùng hiện có khoảng 160 hội viên tuy nhiên mới có khoảng 25% số hộ được cấp quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý (tập trung chủ yếu ở xã Chí Đám và Bằng Luân). Tình trạng bán cả vườn bưởi non không cần tem nhãn diễn ra phổ biến trên địa bàn làm ảnh hưởng đến chất lượng bưởi quả và phát triển thương hiệu.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VÙNG SẢN XUẤT BƯỞI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ 1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Quản lý hành chính Nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước là quá trình tổ chức và điều chỉnh xã hội thông qua quyền lực nhà nước, thực hiện bởi các cơ quan hành pháp Mục tiêu của quản lý này là phát triển mối quan hệ xã hội, duy trì an ninh trật tự và đáp ứng nhu cầu hợp pháp của công dân.
Quản lý hành chính nhà nước bao gồm việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, cũng như của các tổ chức và cá nhân được nhà nước ủy quyền Điều này thể hiện sự phối hợp và trách nhiệm trong việc thực thi các chính sách và quy định của nhà nước.
Quản lý hành chính nhà nước, theo nghĩa hẹp, là hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực chấp hành và điều hành, chủ yếu do các cơ quan hành chính thực hiện Mục tiêu của hoạt động này là đảm bảo việc thực thi các quy định do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành.
1.1.2 Quản lý Nhà nước về kinh tế nông nghiệp
Theo Giáo trình kỹ thuật nông nghiệp của Đại học Kinh tế Quốc dân (2015), thuật ngữ quản lý có nội dung phong phú và rộng lớn Trong thực tiễn, thuật ngữ này thường được kết hợp với các đối tượng cụ thể như quản lý kinh tế, quản lý văn hóa, an ninh, quốc phòng, quản lý tài chính, quản lý sản xuất - kinh doanh, và quản lý thiết bị Điều này cho thấy quản lý phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể trong quá trình phát triển Quản lý kinh tế có thể được hiểu là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý trong hoạt động kinh tế, nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VÙNG SẢN XUẤT BƯỞI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Quản lý hành chính Nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước là quá trình tổ chức và điều chỉnh các hoạt động xã hội và hành vi công dân thông qua quyền lực nhà nước Các cơ quan trong hệ thống hành pháp thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước nhằm phát triển quan hệ xã hội, duy trì an ninh trật tự và đáp ứng nhu cầu hợp pháp của công dân.
Quản lý hành chính nhà nước là quá trình thực thi nhiệm vụ và quyền hạn của tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, cũng như của các tổ chức và cá nhân được nhà nước ủy quyền Điều này đảm bảo rằng mọi hoạt động diễn ra dưới sự giám sát và quản lý của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích chung của xã hội.
Quản lý hành chính nhà nước, theo nghĩa hẹp, là hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực chấp hành và điều hành, chủ yếu do các cơ quan hành chính thực hiện Mục tiêu chính của hoạt động này là đảm bảo việc tuân thủ các quy định từ cơ quan quyền lực nhà nước.
1.1.2 Quản lý Nhà nước về kinh tế nông nghiệp
Theo Giáo trình kỹ thuật nông nghiệp của Đại học Kinh tế Quốc dân (2015), thuật ngữ quản lý có nội dung phong phú và thường được kết hợp với các đối tượng cụ thể như quản lý kinh tế, văn hóa, an ninh, tài chính, và sản xuất - kinh doanh Quản lý phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể trong quá trình phát triển Quản lý kinh tế được hiểu là sự tác động có mục đích của chủ thể lên đối tượng trong hoạt động kinh tế nhằm đạt mục tiêu kinh tế - xã hội Quản lý Nhà nước về kinh tế trong nông nghiệp thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các điều chỉnh pháp luật, chính sách và các công cụ tài chính, vật chất của Chính phủ.
Quản lý Nhà nước về kinh tế trong nông nghiệp là hoạt động quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh nông nghiệp thông qua các công cụ kế hoạch, pháp luật và chính sách Mục tiêu là xử lý các vấn đề vượt quá khả năng tự giải quyết của các đơn vị kinh tế, điều tiết lợi ích giữa các vùng, ngành và sản phẩm nông nghiệp, cũng như giữa nông nghiệp và nền kinh tế tổng thể Ngoài ra, quản lý này còn thực hiện kiểm soát các hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn, góp phần ổn định và lành mạnh hóa các mối quan hệ kinh tế - xã hội.
Quản lý Nhà nước về kinh tế trong nông nghiệp khác biệt với quản lý sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế Các tổ chức này tự chủ trong việc quản lý sản xuất – kinh doanh, bao gồm xây dựng kế hoạch, tổ chức quản lý và thực hiện hạch toán kinh tế để tạo ra giá trị vật chất và tinh thần phục vụ nhu cầu xã hội Tuy nhiên, hoạt động sản xuất - kinh doanh của họ phải tuân thủ pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Quản lý Nhà nước về kinh tế trong nông nghiệp và quản lý sản xuất - kinh doanh của các tổ chức kinh tế là hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng Việc thực hiện hiệu quả quản lý Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý sản xuất - kinh doanh, trong khi quản lý sản xuất - kinh doanh tốt thể hiện hiệu lực của quản lý Nhà nước và góp phần phát huy vai trò quản lý vĩ mô Quản lý Nhà nước trong nông nghiệp tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức, đồng thời thực hiện kiểm soát để đảm bảo sự phát triển ổn định của nông nghiệp và nông thôn.
1.1.3 Vai trò và chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp 1.1.3.1 Vai trò
Quản lý Nhà nước về kinh tế trong nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp các hoạt động lao động nhằm xã hội hóa sản xuất và phát triển nền nông nghiệp hàng hóa Khi lực lượng sản xuất và trình độ phát triển hàng hóa ngày càng cao, việc thực hiện vai trò quản lý này trở nên cần thiết và nghiêm ngặt hơn Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của ngành nông nghiệp, mối quan hệ giữa các phân ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cùng các yếu tố kinh tế trong toàn ngành sẽ có sự tương thích, đảm bảo khai thác hợp lý nguồn lực và thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất và những biến động từ các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước thường gây ra sự mất cân đối trong mối quan hệ tỷ lệ Để đối phó với tình hình này, Nhà nước cần nhận thức rõ các quy luật phát triển và dự báo các yếu tố ảnh hưởng để xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp hiệu quả Việc hình thành các quy chế và luật lệ sẽ giúp hướng dẫn sử dụng các kích thích kinh tế, từ đó định hướng phát triển các vùng nông nghiệp và các thành phần kinh tế ở nông thôn Cơ sở khách quan của vai trò quản lý Nhà nước trong nông nghiệp bắt nguồn từ yêu cầu cân đối trong phát triển, cần phối hợp mọi hoạt động của nền nông nghiệp hàng hóa dựa trên trình độ xã hội hóa ngày càng cao.
Quản lý Nhà nước về kinh tế trong nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn, phản ánh yêu cầu nội tại của nền nông nghiệp Sự hiệu quả của quản lý này phụ thuộc vào định hướng phát triển chung của nền kinh tế quốc gia Để phát huy vai trò này, quản lý Nhà nước cần thực hiện các chức năng chủ yếu nhằm điều chỉnh, hướng dẫn và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp.
Thứ nhất, định hướng chiến lược cho sự phát triển nông nghiệp cho phù hợp từng giai đoạn phát kinh tế triển đất nước
Nông nghiệp là một phần quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò thiết yếu trong phát triển kinh tế và xã hội Để đảm bảo sự phát triển hài hòa của nông nghiệp, cần xác định chiến lược phát triển phù hợp với tổng thể nền kinh tế Nhà nước sẽ cụ thể hóa chiến lược này thành các chương trình và kế hoạch phát triển trung hạn và ngắn hạn hàng năm nhằm hướng dẫn sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn Các chiến lược này bao gồm việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển các vùng kinh tế, và ứng dụng khoa học công nghệ Trong giai đoạn 2011-2020, ngành nông nghiệp sẽ hướng tới sự hiện đại, hiệu quả và bền vững, với nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Thứ hai, điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ nông nghiêp, nông thôn và giữa nông nghiệp, nông thôn với phần còn lại của nền kinh tế
Trong bối cảnh phát triển sản xuất hàng hóa ngày càng cao, mối quan hệ kinh tế trong nông nghiệp nông thôn và giữa nông nghiệp với nền kinh tế toàn cầu ngày càng đa dạng Sự phát triển này có thể phù hợp hoặc không phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước Do đó, Nhà nước cần điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế bằng các biện pháp khuyến khích, hạn chế hoặc cấm đoán Các loại quan hệ kinh tế cần điều chỉnh bao gồm quyền sở hữu tài nguyên như đất đai và vốn, mối quan hệ hợp tác trong sản xuất và chế biến, cũng như các quan hệ phân phối Nhà nước cần tạo ra môi trường thuận lợi để các quan hệ này phát triển một cách công bằng và hiệu quả.
Quản lý Nhà nước đối với nông nghiệp và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, nhằm tạo ra một môi trường kinh tế xã hội nông thôn lành mạnh Việc duy trì ổn định hệ thống các mối quan hệ kinh tế là điều kiện cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền vững của nông nghiệp và nông thôn.
Hỗ trợ kinh tế hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã dịch vụ và các tổ chức sản xuất khác là yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Kể từ tháng 4/1988, khi Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường, hộ gia đình đã được công nhận là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn, dẫn đến sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại Việc xác định lại vai trò của hộ kinh tế đã thúc đẩy sự đổi mới trong hợp tác, chuyển dịch sang việc cung cấp dịch vụ cho kinh tế hộ và kinh tế trang trại.
CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ bưởi trên thế giới và ở Việt Nam 1.2.1.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ bưởi trên thế giới
Trên toàn cầu, sản lượng bưởi đạt khoảng 4 - 5 triệu tấn, bao gồm hai loại chính là bưởi chùm (Citrus paradisi) và bưởi (Citrus grandis), chiếm 5,4 - 5,6% tổng sản lượng cây có múi Trong đó, bưởi chùm chiếm ưu thế với sản lượng từ 2,8 - 3,5 triệu tấn, trong khi bưởi chỉ đạt khoảng 1,2 - 1,5 triệu tấn (theo FAO 2013, FAO Statistic).
Sản xuất bưởi chùm chủ yếu diễn ra tại các quốc gia ở châu Mỹ và châu Âu, nơi được sử dụng chủ yếu để chế biến nước quả Trong khi đó, bưởi chủ yếu được trồng ở châu Á, với các quốc gia nổi bật như Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines và Thái Lan.
Bangladesh, được sử dụng để ăn tươi là chủ yếu.
Tính đến năm 2017, diện tích trồng cây bưởi trên toàn cầu đạt 444.072 ha với năng suất bình quân 310,683 tấn/ha, tổng sản lượng đạt 13.796.591 tấn Trong giai đoạn 2012 - 2017, diện tích bưởi liên tục gia tăng, tăng thêm 190.101 ha, trong khi sản lượng cũng tăng lên 7.231.240 tấn.
Bảng 2.1 Diện tích, năng suất và sản lượng bưởi trên thế giới
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2008 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2017
Năng suất (tạ/ha) 208,068 148,470 251,713 267,754 268,507 310,683 Sản lượng (tấn) 5.423.070 4.308.029 6.547.337 6.276.219 6.565.351 13.796.591
Năm 2012, Trung Quốc có diện tích trồng bưởi lên tới 63.135 ha, với năng suất cao nhất thế giới đạt 438,4 tạ/ha, sản lượng đạt 2.768.308 tấn Quốc gia này nổi tiếng với một số giống bưởi đặc sản như bưởi Văn Đán, Sa Điền, và bưởi ngọt Quân Khê.
Nông nghiệp Trung Quốc nổi bật với các sản phẩm chất lượng cao, đặc biệt là bưởi Năm 2008, bưởi Sa Điền có diện tích trồng lên tới 30.000 ha, sản lượng đạt 750.000 tấn Tại tỉnh Phúc Kiến, bưởi Quan Khê cũng ghi nhận diện tích 40.000 ha và sản lượng 20.000 tấn.
Bảng 2.2 Diện tích, năng suất và sản lượng bưởi ở một số nước trồng bưởi chủ yếu trên thế giới năm 2012
TT Vùng/địa điểm Diện tích thu hoạch (ha) Năng suất
Bưởi ở Thái Lan chủ yếu được trồng tại các tỉnh miền Trung, miền Bắc và miền Đông, với những giống bưởi nổi tiếng như Cao Phuang và Cao Fan Năm 1987, diện tích trồng bưởi là 1.500 ha, sản lượng đạt 76.275 tấn và giá trị khoảng 28 triệu đô la Mỹ Đến năm 2007, diện tích bưởi tăng lên khoảng 34.354 ha, sản lượng đạt 197.716 tấn, bao gồm cả bưởi chùm Đến năm 2012, Thái Lan đã trồng 14.136 ha bưởi với sản lượng đạt 193.253 tấn.
Bưởi và bưởi chùm được trồng thương mại ở một số vùng tại Ấn Độ, với bưởi chùm là loại quả phổ biến cho bữa sáng ở nhiều quốc gia Các vùng khô hạn như Punjab là lý tưởng cho việc trồng bưởi chùm, trong khi bưởi phát triển tốt ở những khu vực có lượng mưa lớn như KonKan Năm 2005, Ấn Độ sản xuất 142.000 tấn bưởi và bưởi chùm, và đến năm 2012, sản lượng đạt 183.922 tấn, đứng thứ hai về sản xuất bưởi ở châu Á Dự kiến đến năm 2015, diện tích trồng bưởi chùm cho xuất khẩu sẽ tăng gấp đôi và sản lượng sẽ tăng 30%.
Mỹ đứng thứ hai thế giới về sản lượng bưởi, chủ yếu là bưởi chùm Quốc gia này chú trọng vào việc chọn tạo giống cam quýt, đặc biệt là giống bưởi, với bộ giống bưởi chất lượng hàng đầu thế giới, bao gồm nhiều giống không hạt Năm 2009, sản lượng bưởi chùm của Mỹ đạt 1.182.970 tấn, khẳng định vị thế là quốc gia xuất khẩu bưởi chùm lớn nhất toàn cầu.
Trên thế giới hiện nay, có ba vùng trồng cam quýt chính, bao gồm châu Mỹ, Địa Trung Hải và châu Á, trong đó Bắc Mỹ là vùng trồng lớn nhất Theo thống kê của FAO, năm 1997, sản lượng bưởi của Bắc Mỹ đạt 3,497 triệu tấn, chiếm 69,4% tổng sản lượng toàn cầu.
(Nguồn: FAOSTAT, 2013) lượng bưởi của thế giới, các quốc gia có sản phẩm bưởi quả ngoài khu vực Bắc Mỹ có sản lượng khoảng 1.541 triệu tấn chiếm 30,6%.
Châu Á, cái nôi của cam quýt và cây bưởi, là khu vực sản xuất bưởi lớn nhất thế giới với diện tích thu hoạch đạt 116.914 ha và sản lượng lên tới 3.689.213 tấn vào năm 2012 Mặc dù Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan có sản lượng bưởi cao, nhưng năng suất và chất lượng giống bưởi tại đây vẫn còn thấp do hạn chế trong kỹ thuật canh tác Công tác chọn tạo giống và kỹ thuật canh tác, ngoại trừ Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, còn nhiều bất cập so với các vùng trồng bưởi khác trên thế giới Nghề trồng cam quýt tại Châu Á hiện đang kết hợp giữa kỹ thuật hiện đại và phương pháp canh tác truyền thống, nhưng tình hình sâu bệnh hại trên cây có múi đang diễn ra nghiêm trọng.
Nhật Bản là một thị trường tiêu thụ bưởi lớn, với số lượng bưởi tươi xuất khẩu từ bang Florida, Mỹ, đạt 4.755.972 thùng (80.851 tấn) trong năm 2004/05, tăng lên 6-7 triệu thùng (102.119 tấn) vào năm 2005/06 và 8 triệu thùng (136.000 tấn) trong năm 2006/07 Ngoài ra, Nam Phi cũng đã xuất khẩu khoảng 6 triệu thùng (96.721 tấn) bưởi sang Nhật Bản trong năm 2004/2005, tăng gần 1,55 triệu thùng so với năm trước đó.
Tại Nga, khoảng 12% người dân ưa chuộng quả có múi, với quýt và cam là hai loại phổ biến nhất Bưởi, mặc dù được xem là loại quả có múi quý hiếm, cũng đã có sự gia tăng trong nhập khẩu, từ 4.000 tấn vào năm 2004 so với 32.000 tấn năm 2003, 33.000 tấn năm 2002 và 22.000 tấn năm 2001 Trong 9 tháng đầu năm, xu hướng này tiếp tục cho thấy sự quan tâm ngày càng tăng đối với bưởi tại thị trường Nga.
Năm 2005, Nga đã nhập khẩu 30.000 tấn bưởi, đứng thứ 3 thế giới về nhập khẩu bưởi sau Nhật Bản (288.000 tấn) và Canada (51.000 tấn), trong tổng số 464.000 tấn bưởi toàn cầu Các nguồn cung cấp bưởi chính cho Nga bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Nam Phi và Argentina.
1.2.1.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ bưởi ở Việt Nam
Theo quy hoạch phát triển ngành trồng trọt, ở nước ta có 3 vùng trồng cây có múi chủ yếu, đó là:
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long nổi bật với cây có múi, bao gồm cam, quýt, bưởi và chanh, với tổng diện tích lên tới 74.400ha, chiếm 54% tổng diện tích cây có múi cả nước và sản lượng đạt 880.800 tấn/năm, tương đương 65% Khu vực này còn nổi tiếng với những giống cây có múi đặc sản được thị trường ưa chuộng, như bưởi Da Xanh Bến Tre, bưởi Năm Roi Vĩnh Long và Hậu Giang, quýt Hồng Đồng Tháp, quýt Đường Trà Vinh, cùng với cam Sành và bưởi Lông Cổ Cò Tiền Giang, thường được bán với giá cao.
Vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam có diện tích cây có múi lên đến 43.500 ha, trong đó 34.800 ha cho thu hoạch Nổi bật trong khu vực này là hai loại bưởi đặc sản: bưởi Thanh Trà của Huế và bưởi Phúc Trạch của Hương Khê, Hà Tĩnh Diện tích trồng bưởi Phúc Trạch đang ngày càng mở rộng, đạt 1.800 ha vào năm 2018, với khoảng 1.250 ha đã cho quả Sản lượng bưởi Phúc Trạch trong những năm gần đây đạt trung bình từ 15.000 đến 17.000 tấn mỗi năm.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN VÙNG SẢN XUẤT BƯỞI QUẢ ĐOAN HÙNG
VÙNG SẢN XUẤT BƯỞI QUẢ ĐOAN HÙNG 2.1 Khái quát về đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.1.1.1 Vị trí địa lý Đoan Hùng là một huyện miền núi nằm ở phía Bắc của tỉnh Phú Thọ, phía Đông Nam giáp huyện Phù Ninh, phía Nam giáp huyện Thanh Ba, phía Tây Nam và phía Tây giáp huyện Hạ Hòa, đều là các huyện của tỉnh Phú Thọ, phía Tây Bắc giáp huyện Yên Bình của tỉnh Yên Bái, phía Bắc và phía Đông giáp các huyện Yên Sơn và Sơn Dương của tỉnh Tuyên Quang Khu vực phía Đông Bắc của huyện có đoạn cuối của sông Chảy chảy qua và hợp lưu với sông Lô chảy từ Tuyên Quang về tại thị trấn Đoan Hùng tạo nên một ngã ba sông đẹp huyền diệu, nơi đặt tượng đài Chiến thắng sông Lô oai hùng rồi chảy tiếp về phía Nam của huyện
Huyện có nhiều tuyến đường bộ huyết mạch, bao gồm Quốc lộ 2 kết nối Hà Nội với Tuyên Quang và Hà Giang, cùng với Quốc lộ 70 từ thị trấn Đoan Hùng đến Yên Bái và Lào Cai Ngoài ra, hệ thống đường thủy tại đây, nơi Sông Lô và Sông Chảy giao nhau, đóng vai trò quan trọng trong việc giao thương hàng hóa, góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển của tỉnh.
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN ĐOAN HÙNG
Nguồn: UBND huyện Đoan Hùng
Diện tích tự nhiên của huyện Đoan Hùng là 302,85 km²
Huyện có nguồn đất phong phú phù hợp cho việc phát triển cây bưởi, chủ yếu là đất vườn tạp, đất mầu đồi và một phần từ đất trồng cọ cũng như cây lâm nghiệp Tổng diện tích đất có khả năng trồng bưởi đặc sản ước tính khoảng 1.630,45 ha, trong đó bưởi Sửu chiếm 535,28 ha và bưởi Bằng Luân chiếm 1.095,17 ha.
Nghiên cứu hiện trạng vùng trồng bưởi tại huyện Đoan Hùng cho thấy bưởi chủ yếu được trồng trên đất thổ cư, bao gồm đất vườn và đồi thấp Phương thức trồng chủ yếu là xen ghép với chè, rau màu và các loại cây ăn quả khác, trong khi vườn chuyên canh bưởi còn hạn chế Gần đây, huyện Đoan Hùng đã chú trọng đến các giải pháp như dồn đổi ruộng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất và quy hoạch đất công nhằm tạo ra các vùng trồng bưởi tập trung, đặc biệt tại xã Chí Đám, Bằng Luân, Nghinh Xuyên và Ngọc Quan.
Diện tích, phân bố và đặc tính của các loại đất trong vùng trồng bưởi của huyện Đoan Hùng được thể hiện cụ thể như sau:
Nhóm đất phù sa chiếm 13,57% tổng diện tích đất trồng bưởi đặc sản, hình thành từ sự bồi tụ của sông Chảy và sông Lô, chủ yếu tập trung tại các xã như Chí Đám, Đông Khê, Hùng Quan, Quế Lâm, Nghinh Xuyên, Phương Chung, Phong Phú và Hữu Đô Đặc điểm của nhóm đất này là địa hình bằng phẳng, tơi xốp, với hàm lượng carbon hữu cơ và đạm tổng số thường ở mức thấp, trong khi lân và kali tổng số đạt mức độ khá.
Nhóm đất đỏ chiếm 7,18% tổng diện tích đất trồng bưởi đặc sản, hình thành từ sự phong hoá của đá mẹ Loại đất này chủ yếu phân bố ở các xã Bằng Luân, Minh Lương, Phúc Lai và Ca Đình, nằm ở địa hình đồi thấp Đất đỏ có đặc điểm tơi xốp, với thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, có tính chua và hàm lượng đạm, lân, kali ở mức trung bình đến thấp.
Nhóm đất xám chiếm 78,72% tổng diện tích đất trồng bưởi đặc sản, hình thành từ sự phong hoá của đá phiến sét và đá biến chất trên thềm phù sa cổ Loại đất này phân bố rộng rãi trên nhiều dạng địa hình và có mặt ở tất cả các xã trong vùng trồng bưởi Đặc điểm của đất là có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, tơi xốp, độ pH từ chua đến chua vừa, và hàm lượng dinh dưỡng ở mức trung bình tùy thuộc vào điều kiện hình thành.
Nhóm đất cát chỉ chiếm 0,53% tổng diện tích đất phù hợp cho trồng bưởi đặc sản, được hình thành từ bồi đắp của sông Lô và tập trung chủ yếu ở các xã Chí Đám Đất cát có thành phần cơ giới là cát pha, ít chua nhưng lại có hàm lượng dinh dưỡng nghèo.
Chất lượng bưởi quả Đoan Hùng khác biệt so với các loại bưởi khác chủ yếu do các yếu tố tự nhiên, đặc biệt là thổ nhưỡng nơi trồng Nghiên cứu cho thấy yêu cầu về loại đất, độ dốc canh tác và thành phần cơ giới của hai giống bưởi Bằng Luân và bưởi Sửu có sự khác biệt rõ rệt.
Bảng 2.10 Tổng hợp các yếu tố đặc thù về tự nhiên quyết định tính đặc thù về chất lượng bưởi quả Đoan Hùng
Stt Các chỉ tiêu đặc thù Định tính, định lượng
Bưởi Bằng Luân Bưởi Sửu
Đất phát triển chủ yếu trên phù sa cổ và đá biến chất, với sự xen kẹp giữa các thềm phù sa cổ Đặc biệt, đất phù sa được bồi bổ và ít bị bồi lấp, có tính chất trung tính và ít chua.
3 Thành phần cơ giới Thịt pha cát đến thịt pha sét.Thịt pha cát đến thịt pha cát và sét.
(Nguồn: Dự án xác lập và quản lý quyền đối với tên gọi xuất xứ Đoan Hùng cho sản phẩm Bưởi của tỉnh Phú Thọ)
Huyện Đoan Hùng sở hữu điều kiện đất đai đa dạng với thành phần cơ giới nhẹ và hàm lượng dinh dưỡng trung bình, phù hợp cho việc trồng cây ăn quả, đặc biệt là bưởi Để nâng cao chất lượng bưởi, cần áp dụng các biện pháp cải tạo và chăm sóc thích hợp Theo bản thuyết minh chỉ dẫn địa lý “Đoan Hùng”, đất trồng hai giống bưởi Sửu và Bằng Luân có những yếu tố tự nhiên đặc thù, quyết định chất lượng sản phẩm Sự kết hợp giữa đặc điểm đất, khí hậu, nguồn nước tưới và kỹ thuật chăm sóc đã tạo nên sự độc đáo cho sản phẩm bưởi Đoan Hùng Là huyện vùng trung du, Đoan Hùng có sự đa dạng trong sản xuất nông lâm nghiệp, trong đó cây lương thực chiếm diện tích lớn, đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực Diện tích cây ăn quả tại huyện đang có xu hướng tăng nhanh từ năm 2001.
Năm 2007, diện tích trồng bưởi đã tăng lên đáng kể nhờ vào việc triển khai các chương trình dự án của tỉnh và trung ương tại huyện.
2.1.1.3 Điều kiện khí hậu, thời tiết
Khí hậu huyện Đoan Hùng mang đặc trưng của vùng trung du và miền núi phía Bắc, với hai mùa rõ rệt trong năm Mùa hè bắt đầu từ tháng 4 và kéo dài đến tháng
Mùa đông tại khu vực này kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, với nhiệt độ cao và lượng mưa lớn kèm theo cường độ mạnh Trong mùa này, thường xuất hiện các đợt gió mùa xen lẫn với những ngày nắng ấm, độ ẩm không khí thấp, tạo ra thời tiết hanh khô và có sương muối.
Nhiệt độ trung bình hàng năm tại huyện Đoan Hùng dao động từ 17°C đến 29°C, với mức thấp nhất khoảng 15,5°C vào tháng 1 và tháng 2, và cao nhất đạt 29,7°C vào tháng 6 và tháng 7 Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây bưởi trong khu vực.