1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quan hệ Việt Nam Trung Quốc từ 1991 nay

63 5 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 63
Dung lượng 1,08 MB

Cấu trúc

  • Lời mở đầu

  • I. Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trước khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1991.

    • 1. Sơ lược về mối quan hệ đặc biệt của hai nước láng giềng trước khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1991.

    • 2. Các nhân tố dẫn đến sự vận động trong quan hệ Việt Nam Trung Quốc giai đoạn 1986-1991.

      • 2.1. Sự thay đổi trên trường quốc tế song song với tình hình chung của khu vực.

      • 2.2 . Nhân tố Trung Quốc.

      • 2.3. Nhân tố Việt Nam.

  • II. Hợp tác và phát triển:

    • 1. Về kinh tế:

    • 2. Về chính trị:

      • a. Các giai đoạn trong mối quan hệ về chính trị giữa Việt Nam - Trung Quốc từ 1991 đến năm (2018).

      • b. Đánh giá chung nhất về mặt chính trị trong mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ 1991 đến năm (2018).

      • c. Cụ thể một chuyến thăm gần đây của hai nước:

      • d. Một số tài liệu giấy thu thập được về những quan điểm, ý kiến của Việt Nam trong việc phát triển mối quan hệ giữa nước ta với Trung Quốc:

    • 3. Về văn hóa:

      • a. Trong những lĩnh vực:

      • b. Bất cập về “sức mạnh mềm văn hóa Trung Quốc và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam”.

  • III. Những vấn đề nóng giữa Việt Nam – Trung Quốc từ 1991 đến nay.

    • 1. Vấn đề biên giới đất liền giữa Việt Nam – Trung Quốc.

      • a. Bối cảnh.

      • b. Tiến hành kí kết Hiệp ước.

      • c. Nội dung Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc.

      • d. Hoàn thành phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền

      • e. Triển khai công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa

      • f. Ý nghĩa việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc

    • 2. Vấn đề phân chia Vịnh Bắc Bộ

      • a. Bối cảnh

      • b. Nội dung ký kết “Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa”.

    • 3. Vấn đề Biển Đông.

      • a. Bối cảnh.

      • b. Yêu sách của Trung Hoa.

      • c. Những sự kiện Trung Quốc đã thực hiện trên Biển Đông.

      • d. Hành động của Việt Nam.

      • e. Giải pháp khai thác chung cho vấn đề Biển Đông.

      • f. Tóm lại

  • IV. Kết Luận.

    • a. Nhận xét.

    • b. Bài học.

  • Tài Liệu Tham Khảo

Nội dung

Việt Nam và Trung Quốc chung nhau 1.400 km đường biên giới và có vùng biển tiếp giáp nhau, tương đồng về thể chế chính trị, văn hóa xã hội, bổ sung lẫn nhau về kinh tế nhân dân hai nước vốn có tình hữu nghị truyền thống lâu đời,đã từng ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của mỗi nước. Mối quan hệ Việt Trung đã qua thử thách, đã được tôi luyện trong cuộc đấu tranh cách mạng giành độc lập và giải phóng dân tộc của mỗi nước. Lịch sử đã chứng minh mối quan hệ hữu nghị truyền thống và tình cảm gắn bó giữa hai dân tộc chúng ta,như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Vừa là đồng chí,vừa là anh em”.

Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trước khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1991

Sơ lược về mối quan hệ đặc biệt của hai nước láng giềng trước khi bình thường hóa quan hệ vào năm 199

Mối quan hệ này trải qua nhiều biến động, từ tình bạn thân thiết đến xung đột không thể hòa giải Nó bao gồm những lúc trở thành đồng minh, khi thì lại là đối thủ, có lúc hòa bình và lúc lại chiến tranh, thể hiện sự chuyển giao giữa đoàn kết và mâu thuẫn suốt hàng chục năm qua.

Trung Quốc là quốc gia đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, chính thức công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 18/1/1950, đánh dấu một bước quan trọng trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, quan hệ Việt-Trung tương đối tốt đẹp, với sự hỗ trợ đáng kể từ nhân dân, nhà nước và Đảng Cộng sản Trung Quốc, xuất phát từ truyền thống hữu nghị và lợi ích quốc gia chung Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc tiếp tục hỗ trợ Việt Nam về chính trị và quân sự, huy động hàng triệu người tham gia mít tinh phản đối chiến tranh và cung cấp vũ khí, quân trang, lương thực Sự giúp đỡ to lớn này đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, như Bác Hồ đã nhấn mạnh, “Một thắng lợi của Đảng ta và của nhân dân ta không thể tách rời sự ủng hộ nhiệt tình của Liên Xô, Trung Quốc và cả phe xã hội chủ nghĩa.”

Quan hệ Việt-Trung trong chiến tranh chống Mỹ có sự gắn bó chặt chẽ nhưng cũng tồn tại những bất đồng Trung Quốc đã sử dụng viện trợ như một công cụ để gây áp lực lên Việt Nam trong nhiều vấn đề Trong các năm 1965 và 1966, Trung Quốc liên tục cản trở các nỗ lực quốc tế nhằm ủng hộ Việt Nam, từ chối thiết lập cầu hàng không Việt-Trung để bảo vệ miền Bắc Khi Việt Nam tiến hành đàm phán với Mỹ, Trung Quốc không những không hỗ trợ mà còn giảm viện trợ Đến năm 1971 và 1972, Trung Quốc lại gia tăng viện trợ nhằm tạo sức ép lên Mỹ.

Mỹ đã ký kết thông cáo chung Thượng Hải, điều này mang lại lợi ích cho Trung Quốc, đồng thời giúp Mỹ rút lui khỏi chiến tranh Việt Nam một cách danh dự Đổi lại, Mỹ đã nhượng bộ Trung Quốc về vấn đề Đài Loan, cho thấy lợi ích quốc gia của Trung Quốc luôn được ưu tiên hàng đầu trong quan hệ với Việt Nam Vào tháng 1/1974, Trung Quốc đã lợi dụng tình hình này để củng cố vị thế của mình.

Việt Nam đang tập trung sức lực giải phóng miền Nam, Trung Quốc đã huy động lực lượng hải quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Việt Nam thống nhất đất nước, nhưng quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng khi Bắc Kinh ngừng viện trợ không hoàn lại và chấm dứt cho vay vào cuối năm 1977 Năm 1978, Trung Quốc tuyên bố rút toàn bộ chuyên gia và cắt đứt viện trợ, đồng thời kích động Campuchia chống lại Việt Nam và tiến hành khiêu khích vũ trang ở sáu tỉnh biên giới phía Bắc Mối quan hệ giữa hai nước xấu đi nhanh chóng, dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới tháng 2/1979, gây tổn thất lớn về người và của cho cả hai bên, làm tổn hại quan hệ hữu nghị Việt-Trung và đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực, ảnh hưởng đến sự phát triển của các quốc gia lân cận.

Sau chiến tranh biên giới, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục căng thẳng, kéo dài suốt thập kỷ 80, ảnh hưởng xấu đến chính sách đối ngoại và phát triển kinh tế của cả hai nước Trong 12 năm đối đầu (1979-1991), sự bế tắc trong quan hệ chính trị dẫn đến nhiều vấn đề khác, với Trung Quốc thường xuyên gây khiêu khích dọc biên giới Sự kiện nghiêm trọng nhất xảy ra vào ngày 14/3/1988, khi sáu tàu chiến của hải quân Trung Quốc tấn công các tàu tiếp tế của Việt Nam và chiếm đóng sáu bãi nước ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, gây lo ngại trong khu vực và quốc tế Trong thời gian này, quan hệ kinh tế và văn hóa giữa hai nước bị ngưng trệ, mặc dù đã có nhiều cuộc đàm phán nhưng đều thất bại Từ tháng 1/1989, hai bên nối lại đàm phán và đến tháng 9/1990, cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô (Trung Quốc) đã mở ra cơ hội giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ Việt-Trung.

Quan hệ Việt - Trung từ năm 1950 đến trước khi bình thường hóa vào năm 1991 trải qua nhiều thăng trầm và biến động lớn Từ mối quan hệ "đồng chí, anh em," hai nước đã chuyển sang tình trạng kẻ thù không đội trời chung.

Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã chuyển từ tình hữu nghị tốt đẹp sang tình trạng đối đầu căng thẳng, cho thấy tính phức tạp của mối quan hệ này và những tác động lớn mà nó mang lại cho Việt Nam.

Các nhân tố dẫn đến sự vận động trong quan hệ Việt Nam Trung Quốc giai đoạn 1986-1991

2.1 Sự thay đổi trên trường quốc tế song song với tình hình chung của khu vực a Sự thay đổi trên trường quốc tế.

Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc với sự sụp đổ của bức tường Béc-lin năm 1989, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, tạo ra một trật tự thế giới mới Mỹ trở thành siêu cường duy nhất, nhưng phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các cường quốc như Nhật Bản, Nga, Trung Quốc và Liên minh châu Âu Khoảng trống quyền lực mà Liên Xô để lại đã mở ra cơ hội cho các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc, trong việc lấp đầy những lỗ hổng này.

Trên quốc tế có một số xu hướng mới (Đại hội VIII nêu) sau đây:

Đối đầu giữa các phe đã chuyển sang xu hướng hòa hoãn, từ sự gay gắt trước đây sang một thái độ hòa dịu Quan điểm này không còn bị chi phối bởi ý thức hệ thời Chiến tranh Lạnh.

 Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình b Tình hình chung khu vực

Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đang nổi lên như một trong những khu vực phát triển năng động nhất thế giới, trở thành trọng tâm trong chính sách đối ngoại của các cường quốc, đặc biệt là Trung Quốc Trung Quốc đang nỗ lực xây dựng lòng tin và mở rộng ảnh hưởng của mình trong khu vực này.

Môi trường quốc tế và khu vực đang trải qua những biến đổi mạnh mẽ, buộc các quốc gia, trong đó có Việt Nam và Trung Quốc, phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình để thích ứng với tình hình mới.

2.2 Nhân tố Trung Quốc a Tầm ảnh hưởng của một nước lớn

Trong giai đoạn 1980-1987, Việt Nam đã nhiều lần thể hiện thiện chí trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại coi vấn đề Campuchia là điều kiện tiên quyết Trung Quốc muốn quốc tế hóa vấn đề này để khẳng định vai trò của mình trong khu vực Đông Nam Á và giải quyết mối quan hệ với Mỹ và Liên Xô Tuy nhiên, sự kiện Thiên An Môn vào tháng 6 năm 1989 và sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Campuchia, cùng với khủng hoảng của Liên Xô vào cuối những năm 90, đã khiến Trung Quốc phải từ bỏ tham vọng của mình.

Sau khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc đã tận dụng cơ hội này để lấp đầy khoảng trống quyền lực và gia tăng ảnh hưởng quốc tế, đặc biệt là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương Việt Nam trở thành một ưu tiên trong chính sách của Trung Quốc do vị trí địa lý thuận lợi và vai trò quan trọng trong khu vực Việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam không chỉ giúp Trung Quốc thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện 4 hiện đại hóa, mà còn ngăn chặn sự mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam, từ đó tạo điều kiện cho Trung Quốc thực thi chính sách ảnh hưởng của mình như một cường quốc.

Trung Quốc, với vai trò là một cường quốc, không thể lùi bước trước xu thế toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế Sự gia tăng của làn sóng hòa bình và hợp tác trong quan hệ quốc tế cho thấy rằng việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.

Việt Nam ban đầu tham gia vào Campuchia nhằm giúp đỡ nhân dân chống lại chế độ diệt chủng và duy trì hòa bình tại Đông Dương Tuy nhiên, sự can thiệp kéo dài đã gây ra nghi ngờ từ các nước ASEAN và sự phản đối từ phương Tây Sau khi giành độc lập năm 1975, Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng và phát triển chậm chạp, buộc phải mở cửa và cải cách để cải thiện nền kinh tế Xu thế toàn cầu cũng đã thay đổi, từ đối đầu sang hòa hoãn, làm giảm ảnh hưởng của các nước XHCN như Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam Sự sụp đổ của các nước XHCN ở Đông Âu và chính sách của Trung Quốc đã thúc đẩy Việt Nam cần đổi mới, dẫn đến việc giải quyết vấn đề Campuchia, tăng cường quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và các cường quốc như Mỹ.

Theo lý thuyết cơ bản về chính sách đối ngoại, tư duy đối ngoại là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách Sự đổi mới trong cách xác định bạn – thù đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới cho đến khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và thiết lập khuôn khổ quan hệ Một thực tế không thể phủ nhận là trong quan hệ quốc tế, không tồn tại bạn thù vĩnh viễn.

Vào năm 1980, Việt Nam đã khẳng định rằng Trung Quốc là bá quyền và quân xâm lược, cùng với các lực lượng tay sai tại Campuchia Tuy nhiên, nghị quyết 32 của Bộ Chính trị tháng 7 năm 1986 đã đánh dấu một bước chuyển lớn trong tư duy của Việt Nam khi tuyên bố thực hiện “đấu tranh cùng tồn tại hòa bình” và sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc nhằm bình thường hóa quan hệ Điều này cho thấy Việt Nam đã bắt đầu phân biệt rõ ràng giữa bạn và thù, không còn theo đuổi cuộc đấu tranh không khoan nhượng như trước Đến nghị quyết 13 BCT tháng 5 năm 1988, Việt Nam đã cụ thể hóa quan điểm “thêm bạn bớt thù”, thể hiện xu hướng hướng tới việc xây dựng mối quan hệ bạn bè nhiều hơn và giảm thiểu thù địch Cách tiếp cận linh hoạt này đã mở ra cơ hội cho Việt Nam xác định đối tượng một cách uyển chuyển, từ những kẻ thù trước đây giờ không còn bị xem là kẻ thù nữa, tạo điều kiện cho sự phát triển quan hệ quốc tế tích cực.

Vào năm 1991, Trung Quốc đã đạt được bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, đánh dấu sự chuyển mình trong tư duy đối ngoại của Việt Nam khi không còn coi ai là kẻ thù Từ đó, Việt Nam mở rộng quan hệ hữu nghị với tất cả các quốc gia, không còn bị chi phối bởi ý thức hệ cộng sản đối lập với chủ nghĩa tư bản Sự thay đổi này đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ Việt - Trung phát triển toàn diện, theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.”

Quan điểm về bạn và thù đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi quan hệ Việt – Trung từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, từ tình trạng đối kháng sang sự cùng tồn tại hòa bình, và từ thái độ thù địch sang mối quan hệ bạn bè và đối tác.

Hợp tác và phát triển

Về kinh tế

Từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, quan hệ kinh tế thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, với kim ngạch thương mại tăng hơn 1.800 lần, từ 32 triệu USD lên gần 60 tỷ USD vào năm 2014 Từ năm 2004, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam Năm 2014, kim ngạch thương mại song phương đạt 58,78 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 14,91 tỷ USD và nhập khẩu 43,87 tỷ USD, với tỷ lệ tăng trưởng lần lượt là 17,16%, 12,70% và 18,76% so với năm 2013.

Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, đóng vai trò vừa là nguồn nhập khẩu lớn nhất, vừa là thị trường xuất khẩu lớn nhất Lợi ích thương mại song phương giữa hai nước rất rõ ràng, với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là dầu thô, than đá và nông sản nhiệt đới Ngược lại, hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu bao gồm máy móc, thép, sản phẩm hóa chất, linh kiện điện tử, và hàng tiêu dùng Trong những năm gần đây, cấu trúc thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc không có nhiều thay đổi, khi Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu khoáng sản và nông sản, trong khi nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất và hàng công nghiệp, do khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam còn yếu.

Việt Nam hiện chưa tự sản xuất đủ hàng hóa và phải nhập khẩu từ Trung Quốc Tuy nhiên, sự gia tăng liên tục trong thương mại song phương đã dẫn đến việc ngày càng rõ ràng hơn vấn đề mất cân bằng thương mại giữa hai quốc gia.

Việt Nam rất chú trọng đến vấn đề nhập siêu trong thương mại với Trung Quốc, nỗ lực tăng xuất khẩu để cân bằng cán cân thương mại Tuy nhiên, cơ cấu hàng xuất khẩu chưa có sự thay đổi lớn do hàng công nghiệp Việt Nam vẫn chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc Từ đầu năm 2018, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng, trong khi một số mặt hàng nông nghiệp và dầu thô giảm Trung Quốc hiện là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam, cho thấy sự phụ thuộc lớn của nền kinh tế Việt Nam vào thương mại song phương giữa hai nước.

Doanh nghiệp Trung Quốc đang đầu tư mạnh mẽ vào nhiều dự án lớn tại Việt Nam, với nhiều hợp đồng lớn được các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu Sự gia tăng vốn vay từ Trung Quốc trong các lĩnh vực như nhiệt điện và cơ sở hạ tầng đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng vốn vay của Việt Nam Tuy nhiên, sự tham gia của Trung Quốc trong các dự án như trồng rừng ở biên giới và khai thác bô xít ở Tây Nguyên đã gây ra lo ngại về ảnh hưởng đến an ninh quốc gia tại những khu vực này.

- quốc phòng của Việt Nam.

Vị trí địa lý của Việt Nam nằm gần phía Nam Trung Quốc, với thị trường hơn 1 tỷ dân, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra thách thức lớn khi Trung Quốc, được biết đến như công xưởng của thế giới, có khả năng sản xuất hàng hóa đa dạng với chi phí thấp và sức cạnh tranh cao Việt Nam cần tận dụng lợi thế này để phát triển kinh tế bền vững.

Trong giai đoạn 1991-2001, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu mang tính chất thăm dò, với chỉ 110 dự án và tổng vốn đầu tư 221 triệu USD Tuy nhiên, đến nay, con số này đã tăng lên khoảng 1.180 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt 8,5 tỷ USD, đưa Trung Quốc đứng thứ 9 trong số 105 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam.

Để tăng cường các dự án đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng và hợp tác trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, hai bên đang thúc đẩy thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ Mục tiêu là phòng ngừa tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ quốc tế và giữ vững an ninh tiền tệ ở mỗi nước.

Doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư vào nhiều dự án lớn tại Việt Nam, với vốn đầu tư trực tiếp (FDI) bắt đầu từ cuối tháng 11/1991 khi một doanh nghiệp Quảng Tây liên doanh với một doanh nghiệp Hà Nội mở nhà hàng Hoa Long Sau gần 25 năm, FDI của Trung Quốc không ngừng gia tăng về quy mô, đa dạng hóa hình thức, lĩnh vực và mở rộng địa bàn đầu tư.

Trong mười năm đầu (1991-2001), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu mang tính chất thăm dò, với chỉ 110 dự án và tổng giá trị 221 triệu USD Tuy nhiên, tính đến nay, số dự án đã tăng lên khoảng 1.180 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt 8,5 tỷ USD, giúp Trung Quốc đứng thứ 9 trong số 105 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam.

Giai đoạn trước, FDI của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào khách sạn, nhà hàng và sản xuất hàng tiêu dùng quy mô nhỏ Gần đây, có sự chuyển dịch sang công nghiệp chế biến chế tạo, điện và bất động sản, với dự án lớn như nhiệt điện Vĩnh Tân I lên tới gần 2 tỷ USD Tuy nhiên, đầu tư của Trung Quốc vẫn chủ yếu ở các ngành nghề thông thường, chưa có dự án lớn trong lĩnh vực công nghệ cao Ngược lại, Việt Nam hiện chỉ có 13 dự án đầu tư sang Trung Quốc với tổng giá trị còn khiêm tốn.

16 triệu USD - con số được ông Bùi Tất Thắng - Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển cho biết tại tham luận Diễn đàn kinh tế mùa Thu 2014.

Quốc gia này đứng thứ 5 trong số các đối tác song phương của Việt Nam về vốn hỗ trợ phát triển (ODA), với tổng vốn ODA và vay ưu đãi đạt hơn 395 triệu USD tính đến tháng 6/2015 Khoản vốn này chủ yếu dành cho dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông, tuy nhiên, dự án hiện đang gặp phải tình trạng chậm tiến độ và đội vốn đầu tư.

Từ năm 1992 đến 2000, các khoản vay ưu đãi của Trung Quốc dành cho Việt Nam chủ yếu tập trung vào khôi phục và mở rộng các nhà máy cũ Kể từ năm 2000, nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi từ Trung Quốc đã gia tăng đáng kể, được ưu tiên cho các lĩnh vực thiết yếu như điện lực, khai khoáng, luyện kim, phân bón nông nghiệp, hóa chất và cơ khí Ngoài ra, Chính phủ Trung Quốc còn hỗ trợ Việt Nam thông qua các khoản viện trợ không hoàn lại, giúp tổ chức các đoàn tham quan và khảo sát kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội tại Trung Quốc, cũng như tạo điều kiện cho việc trao đổi giữa các đoàn thanh thiếu niên.

Các bộ, ngành của hai nước đã thường xuyên gặp gỡ và điều chỉnh nội dung các hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại Điều này nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý cho sự phát triển của hợp tác kinh tế và trao đổi thương mại giữa hai bên.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) chính thức hoạt động từ năm 2010, với quan hệ Việt - Trung giữ vai trò quan trọng và mang tính trụ cột Việt Nam, nhờ vị trí địa chiến lược tại Đông Nam Á, được xem như "cầu nối" chiến lược để Trung Quốc mở rộng và tiếp cận các nước ASEAN thông qua các tuyến đường bộ và đường biển Phát huy vị thế này là yếu tố then chốt trong quan hệ kinh tế giữa hai nước trong giai đoạn mới.

Về chính trị

Hai bên thường xuyên thực hiện các chuyến thăm cấp cao, bao gồm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Những chuyến thăm này đều dẫn đến việc ký kết Thông cáo chung, hiệp định và các văn kiện hợp tác, tạo nền tảng pháp lý cho mối quan hệ lâu dài giữa hai nước Điều này không chỉ thúc đẩy việc triển khai các thỏa thuận hợp tác mà còn tăng cường độ tin cậy chính trị giữa hai bên.

Các lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành thăm lẫn nhau, thể hiện truyền thống tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước Theo ước tính, hàng năm có hơn một số lượng đáng kể các đoàn cấp cao được trao đổi, góp phần củng cố mối quan hệ hợp tác và hiểu biết lẫn nhau.

Từ năm 1991 đến 2018, mối quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển quan trọng Việc trao đổi hơn 100 đoàn đại biểu giữa hai nước đã góp phần thúc đẩy sự hiểu biết và hợp tác toàn diện Sự đa dạng trong các đoàn đại biểu ở nhiều cấp độ đã tạo nền tảng vững chắc cho quan hệ hai nước, mở ra nhiều cơ hội hợp tác và phát triển song phương.

Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1995 chứng kiến sự thay đổi lớn trong quan hệ quốc tế, đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, sự hiện diện của Mỹ và Liên Xô tại khu vực giảm sút, tạo điều kiện cho Trung Quốc chuyển hướng tích cực trong quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng, bao gồm Việt Nam Năm 1991, Trung Quốc tham gia Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN và được mời tham gia Diễn đàn khu vực Đông Nam Á (ARF) Đến năm 1992, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham đã bày tỏ mong muốn thúc đẩy đối thoại an ninh với các nước ASEAN Trong bối cảnh này, chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng có sự thay đổi, nhằm mở rộng và tăng cường quan hệ với cộng đồng quốc tế.

Vào tháng 11 năm 1991, Việt Nam đã tiến hành chuyến thăm chính thức tới Trung Quốc với sự tham gia của Tổng bí thư và Thủ tướng, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước Sự kiện này đánh dấu một bước quan trọng trong ngoại giao, cho thấy Việt Nam rất coi trọng việc giải quyết vấn đề bình thường hóa với Trung Quốc.

Trong chuyến thăm này, hai nước đã đạt được bước tiến quan trọng với việc ra bản Thông cáo chung và xác định 5 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa hai Nhà nước và hai Đảng, bao gồm độc lập tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ Hai bên cam kết chấm dứt mối quan hệ căng thẳng trong quá khứ và tiến tới bình thường hóa quan hệ Chuyến thăm và Thông cáo chung cho thấy sự thay đổi trong quan điểm của hai bên về tình hình thế giới, nhận thức rằng việc bình thường hóa quan hệ là phù hợp với lợi ích lâu dài của cả hai nước, đánh dấu một bước chuyển lớn không chỉ trong quan hệ song phương mà còn trong khu vực Kể từ đó, các nhà lãnh đạo hai nước đã duy trì các cuộc thăm viếng và hợp tác liên tục trên nhiều lĩnh vực.

Sau khi bình thường hóa quan hệ, Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ, mặc dù vẫn tồn tại nhiều tranh chấp Ngày 19/10/1993, đại diện hai nước đã ký Thoả thuận về nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề này, mở đường cho các hiệp định biên giới sau này Việc ký kết các hiệp định thông qua đàm phán đã tăng cường niềm tin lẫn nhau, đưa quan hệ hai nước vào quỹ đạo hợp tác Thời kỳ này, các chuyến thăm giữa lãnh đạo hai nước, như chuyến thăm của Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng vào tháng 12/1992, đã góp phần củng cố mối quan hệ hữu nghị và thúc đẩy hợp tác, đồng thời tạo điều kiện cho việc thành lập các nhóm công tác chuyên viên nhằm đẩy nhanh tiến trình giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ.

Một sự kiện quan trọng trong quan hệ chính trị giữa Trung Quốc và Việt Nam là chuyến thăm chính thức của Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Giang Trạch Dân, diễn ra từ ngày 19 đến 22/11/1994 Đây là chuyến thăm đầu tiên của nhà lãnh đạo cao nhất Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ chuyến thăm của Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ vào năm 1963.

Trong chuyến thăm, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị và tăng cường hợp tác, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế thương mại Hai bên đồng ý giải quyết các vấn đề tồn tại thông qua đàm phán và Chủ tịch Giang Trạch Dân đã đề ra 16 chữ trong quan hệ hai nước: “Phương hướng rõ ràng, từng bước tiến lên, đại cục làm trọng, hữu hảo hiệp thương” Kết quả của cuộc hội đàm là việc ký kết các hiệp định, thành lập Uỷ ban Hợp tác thương mại Việt Nam - Trung Quốc, và thông cáo chung khẳng định sự cần thiết gia tăng hợp tác kinh tế thương mại trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi.

Trong giai đoạn này, quan hệ chính trị giữa hai nước không thể không nhắc đến sự thúc đẩy quan hệ giữa quốc hội hai bên, đặc biệt sau chuyến thăm hữu nghị chính thức của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đến Trung Quốc từ ngày 21/02 đến 01/03/1994 Chuyến thăm này nhằm củng cố sự tin cậy lẫn nhau, tạo dựng mối quan hệ hữu nghị láng giềng thân thiết, đồng thời thúc đẩy hợp tác song phương trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hóa và khoa học kỹ thuật, cũng như tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai cơ quan lập pháp.

Trong chuyến thăm, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường hiểu biết và tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc Ông cũng bày tỏ mong muốn mở ra giai đoạn hợp tác mới giữa Quốc hội Việt Nam và Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc, đồng thời tìm hiểu thêm về kinh nghiệm cải cách mở cửa của Trung Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai nước.

Giai đoạn này đánh dấu sự khôi phục quan hệ chính trị giữa hai nước sau thời gian căng thẳng, thông qua các cuộc viếng thăm cấp cao và đàm phán, nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau Mối quan hệ này không chỉ phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và khu vực, mà còn đáp ứng nhu cầu của cả hai bên Các chuyến thăm cấp cao đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hợp tác và phát triển giữa hai quốc gia.

Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đang trong quá trình hàn gắn sau thời gian căng thẳng, đánh dấu giai đoạn khởi động cho các cuộc gặp cấp cao và thông cáo chung nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau Trong thời gian này, các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam, bao gồm Tổng bí thư, Thủ tướng, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quốc hội, đã thực hiện các chuyến thăm chính thức tới Trung Quốc Ngược lại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc như Tổng bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ cũng đã thăm Việt Nam.

Trong các cuộc gặp gỡ gần đây, hai bên đã đạt được nhiều tiến bộ quan trọng trong hợp tác kinh tế và tăng cường mối quan hệ giữa hai Đảng cũng như hai Nhà nước Việc ký kết hiệp định liên quan đến giải quyết biên giới lãnh thổ cho thấy sự cam kết mạnh mẽ của cả hai nước trong việc bình thường hóa quan hệ và phát triển hợp tác chính trị song phương.

 Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 1999.

Theo những đánh giá của chúng tôi, giai đoạn thứ hai bắt đầu từ giữa năm

Từ năm 1995 đến đầu năm 1999, Việt Nam trải qua hai sự kiện quan trọng, đánh dấu sự thay đổi trong vai trò và vị trí của đất nước trên trường quốc tế Những biến động này cũng đã tác động đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Về văn hóa

Hiện nay, Việt Nam và Trung Quốc đang chú trọng đến việc giao lưu và hợp tác văn hóa Cả hai nước tích cực triển khai "Kế hoạch thực hiện Hiệp định văn hóa" nhằm tăng cường hiểu biết và gắn kết giữa hai nền văn hóa.

Việt Nam và Trung Quốc thường xuyên tổ chức các đoàn văn hóa nghệ thuật và các sự kiện giao lưu văn hóa, thể thao hàng năm Những hoạt động này nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết và gắn kết giữa nhân dân hai nước.

Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ nhiều điểm tương đồng về văn hóa, đặc biệt là trong lịch sử, khi Việt Nam từng sử dụng chữ Hán trong các văn bản hành chính và sáng tác văn học Quan hệ giao lưu văn hóa giữa hai nước đã có bề dày lịch sử và sự bền chặt, với nhiều truyền thống như Tết Nguyên đán và các lễ hội trong năm được bảo tồn và phát triển.

Việt Nam luôn coi trọng các tư tưởng Nho, Đạo, Phật và nổi bật với việc dịch nhiều tác phẩm triết học, văn học và sử học của Trung Quốc Nước ta dẫn đầu thế giới trong việc chuyển ngữ các tác phẩm như Kinh thi, Luận ngữ, Mạnh Tử, Lão Tử, cùng nhiều tác phẩm nổi tiếng khác từ thời Tiên Tần đến Minh Thanh, bao gồm cả các lý luận của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và tư tưởng Ba đại biểu của Giang Trạch Dân Hàng trăm tác phẩm văn học nghệ thuật cũng được dịch và nghiên cứu, thể hiện sự giao thoa văn hóa sâu sắc giữa hai nước.

Trong thời gian qua, Việt Nam và Trung Quốc đã tích cực thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao và du lịch Hai nước đã tổ chức nhiều đoàn giao lưu học tập, trao đổi học thuật và nghiên cứu lý luận Đồng thời, việc đào tạo cán bộ và tiếp nhận lưu học sinh cũng được chú trọng, cùng với việc tăng cường hợp tác văn hóa Đặc biệt, hai bên đã hợp tác trong lĩnh vực y tế, bao gồm phân phối thuốc và chăm sóc sức khỏe, mở ra các phòng khám Trung Quốc tại Việt Nam.

Mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng được mở rộng và sâu sắc hơn Kể từ khi ký kết Hiệp định Văn hóa vào năm 1992, hai nước đã tăng cường giao lưu văn hóa thông qua việc trao đổi nhiều đoàn nghệ thuật đa dạng Ngoài ra, các đơn vị nghệ thuật còn chia sẻ kinh nghiệm trong công tác, báo chí và đào tạo cán bộ văn hóa, góp phần thúc đẩy sự hiểu biết và gắn kết giữa hai quốc gia.

Năm 2006, Tuần lễ Văn hoá Trung Quốc đã được tổ chức tại Việt Nam, bao gồm các chương trình biểu diễn nghệ thuật, triển lãm ảnh và tọa đàm Sự kiện này là một phần của hoạt động giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc, theo thoả thuận của Bộ Văn Hoá hai nước, nhằm thúc đẩy tình đoàn kết, hữu nghị và tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa hai quốc gia.

Các nhà hoạch định chính sách nhận định rằng việc tăng cường giao lưu giáo dục giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả hai nước Dù mối quan hệ giữa hai nước có lúc thăng trầm, nhưng nền giáo dục Việt Nam vẫn luôn chú trọng đến văn hóa, văn học và triết học Trung Quốc qua các chương trình giảng dạy, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn Sự tương đồng giữa hai nền văn hóa là cơ sở để phát triển hợp tác giáo dục sâu rộng hơn trong tương lai.

Đại đa số người Việt Nam đều quen thuộc với những triết gia nổi tiếng thời Tiên Tần như Khổng Tử, Mạnh Tử và Lão Tử, cùng với các nhà thơ lừng danh của thời kỳ cổ đại.

Lý Bạch, Đỗ Phủ, và Bạch Cư Dị là những nhà thơ nổi tiếng của thời Đường, góp phần làm phong phú nền văn học cổ điển Trung Quốc Bên cạnh đó, các tác phẩm văn học kinh điển như "Tam Quốc Diễn Nghĩa," "Tây Du Ký," và "Hồng Lâu Mộng" đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa và lịch sử Trong thời hiện đại, những tác giả như Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạc Nhược và Mạc Ngôn tiếp tục phát triển và đổi mới nền văn học, phản ánh những vấn đề xã hội và nhân sinh qua các tác phẩm của họ.

Việt Nam khuyến khích hợp tác giáo dục với Trung Quốc, đặc biệt là trong việc thúc đẩy sinh viên Việt Nam du học tại đây Hiện tại, có khoảng 10.000 lưu học sinh Việt Nam đang theo học tại các trường đại học Trung Quốc.

Trung Quốc, và có khoảng 3 nghìn lưu học sinh Trung Quốc đang học tập tại Việt Nam.

Năm 2007, Trung Quốc đã tiếp nhận 200 học viên Việt Nam từ 76 khóa học, cho thấy sự hợp tác giáo dục giữa hai nước Hiện tại, có gần 10.000 du học sinh Việt Nam đang học tập tại Trung Quốc, xếp thứ ba về số lượng sinh viên quốc tế tại đây Đồng thời, 20 trường đại học Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ hợp tác với hơn 40 trường đại học và học viện của Trung Quốc, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa và giáo dục.

Giao lưu du lịch giữa nhân dân hai nước cũng ngày được tăng cường Năm

2015 và năm 2016, mỗi năm có khoảng 1,7 triệu lượt khách Trung Quốc tới Việt Nam du lịch và 1,5 triệu lượt khách Việt Nam đi du lịch Trung Quốc.

Sau khi ký Hiệp định hợp tác du lịch vào ngày 8/4/1994, mối quan hệ du lịch giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ Số lượng du khách Trung Quốc đến Việt Nam ngày càng gia tăng, từ khoảng 17 nghìn lượt người vào năm 1993.

Số lượng khách du lịch giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đạt 600 nghìn lượt, tăng hơn 35 lần so với trước đây Hai quốc gia đang hợp tác phát triển để thực hiện hiệu quả khẩu hiệu “Một điểm đến hai quốc gia”, nhằm thu hút du khách đến các địa danh biên giới Việt - Trung.

Vào tháng 3/2009, lãnh đạo ngành du lịch của Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lào Cai (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) đã tổ chức cuộc họp để thống nhất các giải pháp nhằm tăng cường hợp tác trong quản lý kinh doanh du lịch Cuộc họp cũng nhằm tháo gỡ những khó khăn và vướng mắc về cơ chế chính sách liên quan đến phát triển du lịch của hai bên, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang gặp khủng hoảng.

Vấn đề biên giới đất liền giữa Việt Nam – Trung Quốc

Biên giới Việt – Trung, một trong những tuyến biên giới lâu đời nhất thế giới, đã được xác định pháp lý vào cuối thế kỷ XIX qua Hiệp ước giữa Pháp và triều đình Mãn Thanh Tuy nhiên, lịch sử biến động và cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 đã làm cho vấn đề biên giới trở nên phức tạp hơn Sau hơn 100 năm, đường biên giới thực địa đã có một số thay đổi do điều kiện thời gian và kỹ thuật, yêu cầu phải được xác định rõ ràng Việc giải quyết vấn đề biên giới trên bộ là kết quả của quá trình đàm phán lâu dài, thể hiện nỗ lực chung của cả hai bên, với sự vận dụng luật pháp và thông lệ quốc tế, trong đó cả hai bên đều đã có sự nhượng bộ Trên tuyến biên giới dài 1347km, khoảng 900km không có tranh chấp, trong khi phần còn lại vẫn chưa được xác định do tranh chấp hoặc lý do kỹ thuật.

Vào cuối năm 2001, cột mốc số 1 trên biên giới Việt – Trung đã được xác định và dựng lên tại cửa khẩu Móng Cái – Đông Hưng, đánh dấu khởi đầu cho quá trình xây dựng biên giới Trên thực tế, có 164 điểm tranh chấp với tổng diện tích khoảng 227km2 cần được giải quyết.

1971 cột mốc trên toàn tuyến biên giới Việt Trung đầy khó khăn và phức tạp b Tiến hành kí kết Hiệp ước.

Ngày 30 tháng 12 năm 1999, Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được bộ ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, đại diện chính phủ Việt Nam và Bộ trưởng Bộ ngoại giao Đường Gia Triền, đại diện Chính phủ Trung Quốc cùng nhau ký kết tại Hà Nội Như vậy, cho đến năm 1999, trong hai phần công việc liên quan đến xác lập lại đường biên giới là hoạch định biên giới và phân giới, cắm mốc, hai bên mới giải quyết được phần hoạch định biên giới Công tác phân giới cắm mốc cần làm tiếp theo trong 10 năm đầu của thế kỷ XXI.

Về mặt pháp lý: Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung

Hiệp ước quốc tế này là cơ sở pháp lý vững chắc giúp xác định rõ ràng và ổn định đường biên giới giữa hai nước Nó khắc phục những hạn chế của các văn bản trước, cung cấp mô tả chính xác để hỗ trợ phân giới cắm mốc thực địa và giải quyết mâu thuẫn liên quan đến vị trí biên giới Đồng thời, hiệp ước thể hiện sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp biên giới lãnh thổ, nhấn mạnh tầm quan trọng của đàm phán hòa bình và cam kết không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Về mặt an ninh: Các quy định của Hiệp ước hoạch định biên giới trên đất liền

Việt Nam và Trung Quốc hợp tác để quản lý và duy trì ổn định vùng biên giới, đặc biệt là biên giới trên đất liền Điều này tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng nhằm xây dựng một biên giới Việt Nam - Trung Quốc ổn định, hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Hiệp ước trên đất liền giữa hai nước không chỉ tạo ra một môi trường thuận lợi cho hợp tác kinh tế mà còn thiết lập cơ sở pháp lý vững chắc, thúc đẩy quan hệ buôn bán biên giới Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường giao lưu kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực buôn bán và hợp tác giữa nhân dân địa phương ở vùng giáp biên.

Những yếu tố đã tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển mối quan hệ Việt - Trung, đặc biệt là nội dung của Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Công tác phân giới, cắm mốc biên giới quốc gia bao gồm nhiều hoạt động quan trọng như phân giới toàn bộ đường biên giới trên thực địa, xác định sự quy thuộc các cồn bãi trên sông suối biên giới, và đánh dấu đường biên giới bằng hệ thống mốc quốc giới hoặc các dấu hiệu vật chất khác Ngoài ra, cần lập hồ sơ phân giới cắm mốc và soạn thảo văn bản báo cáo kết quả Việc phân giới đường biên giới và xây dựng hệ thống mốc quốc giới có thể được thực hiện đồng thời, tức là phân giới đến đâu thì tổ chức xây dựng mốc đến đó Hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền là mục tiêu quan trọng trong quá trình này.

 Cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý của việc xác lập hệ thống mốc quốc giới

Trước năm 1999, hệ thống mốc quốc giới giữa Việt Nam và Trung Quốc được thiết lập một cách chính quy và tương đối hoàn chỉnh, dựa trên Công ước năm 1887 và Công ước bổ sung, do thực dân Pháp và triều đình nhà Thanh xây dựng.

Năm 1895, Việt Nam đã thiết lập hệ thống mốc quốc giới chính quy đầu tiên, dựa trên các biên bản và bản đồ cắm mốc kèm theo, được hình thành từ các điều ước quốc tế.

Mặc dù hệ thống mốc quốc giới còn một số nhược điểm như vị trí cắm mốc chưa lý tưởng, số lượng mốc ít và chất liệu xây dựng chưa tốt, nhưng qua hơn 100 năm, nó đã giúp người dân hai bên biên giới xác định chính xác vị trí đường biên giới Sự tồn tại của hệ thống mốc này đã hạn chế tham vọng về đất đai của các thế lực bất chính, góp phần ổn định an ninh và gìn giữ hòa bình, hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc Do đó, trong những năm 50 của thế kỷ XX, cả hai nhà nước đều tuyên bố tôn trọng đường biên và mốc giới đã được ký kết trước đó.

Nghiên cứu hệ thống mốc quốc giới giữa Việt Nam và Trung Quốc cho thấy có tổng cộng 341 mốc, bao gồm mốc đơn và mốc kép, nhưng không có cụm mốc ba Trong số này, có mốc chính và mốc phụ (mốc cắm bổ sung), cùng với một số mốc phụ nhỏ, tuy nhiên những mốc phụ này không có giá trị pháp lý do không được ghi vào các biên bản cắm mốc.

Việc thể hiện đường biên giới trên bản đồ bằng những ký hiệu chưa khoa học gây khó khăn trong việc đọc và hiểu chính xác vị trí của chúng, đặc biệt ở những khu vực có địa hình và địa danh phức tạp Để xây dựng một hệ thống mốc quốc giới chính quy, đầy đủ và chính xác, hai bên Việt - Trung đã dựa vào đặc điểm của đường biên giới, kế thừa kinh nghiệm từ giai đoạn Pháp - Thanh, cũng như học hỏi từ một số quốc gia khác Đồng thời, việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong công tác cắm mốc cũng được chú trọng trong giai đoạn mới.

Hiệp ước hoạch định biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 30-12-1999, cùng bộ bản đồ đính kèm, là cơ sở pháp lý cao nhất cho công tác phân giới và cắm mốc biên giới Tính chính xác, cụ thể và rõ ràng của hiệp ước này đóng vai trò quyết định đến tiến độ và hiệu quả của công việc phân giới và cắm mốc.

Trong quá trình cắm mốc biên giới, mọi mâu thuẫn, đặc biệt là những bất đồng liên quan đến đất đai và chủ quyền lãnh thổ, cần được Trung ương quyết định Công tác phân giới và cắm mốc trên thực địa chủ yếu do các Nhóm liên hợp thực hiện, nhằm phân vạch đường biên giới và xây dựng các mốc quốc giới Việc kiểm tra vị trí các mốc quốc giới sẽ được thực hiện theo chương trình, kế hoạch và sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo các tỉnh biên giới, đồng thời tuân thủ sự hướng dẫn và xác nhận của Ủy ban liên hợp phân giới.

Vấn đề phân chia Vịnh Bắc Bộ

Vịnh Bắc Bộ, trước đây được biết đến với tên gọi Vịnh Bắc Phần hay Vịnh Bắc Việt, là một vùng vịnh nước mặn nằm giữa Việt Nam và Trung Quốc Tên tiếng Anh quốc tế của vịnh này là Tonkin Gulf Vịnh Bắc Bộ thuộc nhánh Tây Bắc của Biển Đông và là một phần của Thái Bình Dương, có diện tích lên tới 123.700 km² và chiều ngang rộng nhất khoảng 320 km.

Vịnh Bắc Bộ có chiều dài 176 hải lý và nơi hẹp nhất khoảng 220 km, với bờ biển Việt Nam dài khoảng 763 km và bờ biển Trung Quốc dài khoảng 695 km Vịnh này có khoảng 1.300 hòn đảo ven bờ, trong đó nổi bật là đảo Bạch Long Vĩ, cách đất liền Việt Nam 110 km và cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) 130 km Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng đối với an ninh và quốc phòng của cả Việt Nam và Trung Quốc, nhưng chiều ngang hẹp và chưa được phân định rõ ràng Theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, toàn bộ Vịnh Bắc Bộ được coi là vùng chồng lấn, dẫn đến những tranh chấp ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ hai nước Trước tình hình này, Việt Nam và Trung Quốc đều có nhu cầu tiến hành đàm phán để phân định Vịnh Bắc Bộ nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản và lâu dài.

Để giải quyết vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ, hai nước cần xác định rõ ràng đường phân giới, vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Đồng thời, việc giải quyết các vấn đề lịch sử còn tồn tại sẽ tạo động lực cho việc xây dựng lòng tin và tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai Đảng và hai nước Vịnh Bắc Bộ không chỉ có ý nghĩa về an ninh, quốc phòng mà còn mang lại lợi ích kinh tế từ nguồn hải sản phong phú, với nhu cầu hợp tác trong việc đánh bắt và bảo vệ môi trường Các thỏa thuận trước đây cho phép đánh bắt trong các vùng biển ngoài 3, 6 và 12 hải lý đã hết hiệu lực vào những năm 70 Trung Quốc đề nghị lập vùng đánh cá chung song song với phân định Vịnh Bắc Bộ, nhấn mạnh rằng nếu không đạt được thỏa thuận, việc phân định sẽ gặp khó khăn Việt Nam không muốn gắn vấn đề nghề cá với phân định quốc giới, nhưng cũng nhận thức rằng việc không giải quyết vấn đề này có thể dẫn đến tình trạng chồng lấn và mất ổn định trong khu vực.

Nhiều quốc gia có vịnh hoặc vùng biển chung đã thỏa thuận lập vùng đánh cá chung, điều này hoàn toàn phù hợp với Công ước luật Biển năm 1982 Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vấn đề phân định, chúng ta đã đồng ý thiết lập vùng đánh cá chung tại Vịnh Bắc Bộ, dựa trên sự xem xét kỹ lưỡng các khía cạnh trong quan hệ hai nước và thực tiễn quốc tế Cuộc đàm phán về biên giới lãnh thổ, bao gồm phân định Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đã bắt đầu từ đầu những năm 70, với hai vòng đàm phán vào năm 1974 và 1977 - 1978, nhưng không đạt được kết quả do điều kiện thời điểm đó.

Sau khi bình thường hóa quan hệ, Việt Nam và Trung Quốc đã quyết định thương lượng để giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ, bao gồm phân định Vịnh Bắc Bộ Vào ngày 19-10-1993, hai nước đã ký Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới - lãnh thổ, trong đó nêu rõ rằng việc phân định sẽ dựa trên luật quốc tế và thực tiễn quốc tế, đảm bảo tính công bằng và xem xét mọi hoàn cảnh liên quan Từ 1993 đến 2000, hai bên đã tiến hành 7 vòng đàm phán cấp chính phủ, 3 cuộc gặp giữa các Trưởng đoàn và 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên để thực hiện thỏa thuận này.

Quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa hai nước ngày càng được củng cố và đi vào chiều sâu, với sự quan tâm sát sao từ lãnh đạo hai bên Trong các chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Đỗ Mười vào năm 1997 và Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu vào tháng 2-1999, lãnh đạo hai nước đã thống nhất khẩn trương đàm phán để giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền trước năm 2000 và hoàn tất phân định để ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000 Do đó, trong năm 1998 và 1999, hai bên đã ưu tiên giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền.

Năm 2000, các cuộc đàm phán về phân định Vịnh Bắc Bộ đã được thúc đẩy mạnh mẽ, với một vòng đàm phán cấp chính phủ và ba cuộc gặp liên tiếp giữa các bên liên quan nhằm giải quyết vấn đề một cách thực chất.

2 trưởng đoàn cấp chính phủ và 8 vòng đàm phán cấp chuyên viên).

Trong quá trình đàm phán, hai bên đã vận dụng các nguyên tắc như sau để giải quyết:

Căn cứ vào các quy định của Công ước luật Biển 1982 của Liên hợp quốc và các nguyên tắc luật pháp quốc tế, cũng như tập quán được công nhận rộng rãi, việc áp dụng các quy định này là rất quan trọng để đảm bảo sự tuân thủ và bảo vệ quyền lợi của các quốc gia liên quan.

Hai bên cần xem xét các đặc thù của Vịnh Bắc Bộ, bao gồm sự hiện diện của các đảo và chiều dài bờ biển Việc giải quyết vấn đề phân định phải dựa trên thực trạng và nhu cầu phát triển quan hệ giữa hai nước, đồng thời đảm bảo nguyên tắc công bằng và xem xét lợi ích của nhau Trung Quốc chủ trương chia đôi đại thể, trong khi Việt Nam nhấn mạnh rằng giải pháp công bằng cần phản ánh các yếu tố như sự hiện diện của các đảo và chiều dài bờ biển của Việt Nam Do đó, kết quả phân định cần phù hợp với yêu cầu mà Việt Nam đặt ra.

Diện tích tổng thể của vùng biển được phân định là 53,23% thuộc về ta và 46,77% thuộc về Trung Quốc, với sự chênh lệch 6,46% tương đương khoảng 8205 km2 Đường phân định cách đảo Bạch Long Vĩ 15 hải lý, trong khi đảo Cồn Cỏ được hưởng 50% hiệu lực Giải pháp phân định đảm bảo việc chia sẻ lợi ích một cách công bằng, với việc phân chia rõ ràng phần thềm lục địa, cho phép mỗi bên tiến hành thăm dò và khai thác tài nguyên mà không bị bên kia can thiệp Trong trường hợp có cấu tạo mỏ nằm qua đường phân định, hai bên sẽ thỏa thuận về việc khai thác và chia sẻ lợi ích từ hoạt động đó.

Cuộc đàm phán về nghề cá được khởi động muộn hơn Cho mãi đến tháng 4-

Năm 2000, hai bên đã đồng ý đàm phán về nghề cá, dẫn đến việc thiết lập vùng đánh cá chung tại Vịnh Bắc Bộ từ vĩ độ 20o xuống đường đóng cửa Vịnh Vùng này có diện tích 33.500 km2, chiếm khoảng 27,9% diện tích Vịnh, với khoảng cách cách bờ mỗi nước là 30 hải lý Thời hạn của vùng đánh cá chung là 15 năm, bao gồm 12 năm chính thức và 3 năm gia hạn Hai bên đã thống nhất các điều khoản bảo vệ môi trường và nguồn hải sản, với ba nguyên tắc lớn: quyền kiểm soát tàu cá, sản lượng và số lượng tàu vào vùng đánh cá chung dựa trên nguyên tắc bình đẳng, và quyền hợp tác đánh cá với bên thứ ba Uỷ ban liên hợp nghề cá sẽ được thành lập để xây dựng quy chế cho vùng đánh cá chung Ngoài ra, hai bên cũng thỏa thuận về một dàn xếp quá độ 4 năm cho tàu thuyền đánh bắt ở phía Bắc vĩ tuyến 20, và một vùng đệm nhỏ 10 hải lý tại cửa sông Bắc Luân để tạo thuận lợi cho tàu cá nhỏ ra vào.

Các giải pháp đạt được trong quá trình đàm phán và thể hiện qua hai bản Hiệp định đã đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của cả hai bên, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ Việt - Trung Việc ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, sau Hiệp ước biên giới trên đất liền năm 1999, đã giải quyết hai trong ba vấn đề biên giới - lãnh thổ tồn đọng giữa hai nước Hiệp định này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc quản lý biên giới và lãnh thổ, hướng tới xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, đồng thời thúc đẩy quan hệ hai nước Hiệp định cũng xác định rõ đường biên giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa Việt Nam và Trung Quốc, ghi nhận cam kết tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên Bên cạnh đó, Hiệp định đã đề ra phương án giải quyết khi hai bên có chung mỏ tài nguyên khoáng sản Đây là Hiệp định phân định biển thứ hai của Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc ổn định hòa bình trong khu vực và thể hiện tinh thần hợp tác, nhân nhượng trong quan hệ hai nước, phù hợp với phương châm "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai".

Vấn đề Biển Đông

Biển Đông nằm ở trung tâm Đông Nam Á, được bao bọc bởi nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Brunei,

Biển Đông được xem như "mái nhà chung" của các quốc gia ven biển và các nước khác, phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế, vận tải biển, và bảo vệ môi trường sinh thái Khu vực này không chỉ mang lại lợi ích cho người dân Đông Nam Á và Châu Á, mà còn cho toàn nhân loại trong thế kỷ XXI và tương lai.

Biển Đông chứa đựng một kho tài nguyên phong phú, khiến các quốc gia và lãnh thổ lân cận tìm cách khai thác để làm giàu Tuy nhiên, điều này dẫn đến những tranh chấp về chủ quyền đối với các đảo, đá và rạn san hô, cũng như về việc phân chia các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Mâu thuẫn ở Biển Đông có thể tiềm ẩn nguy cơ xung đột vũ trang, thậm chí là chiến tranh.

Sau khi giải quyết vấn đề phân chia Vịnh Bắc Bộ, tranh chấp chủ quyền Biển Đông, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giữa Việt Nam và Trung Quốc đã trở thành tâm điểm chú ý Tình hình Biển Đông ngày càng trở nên căng thẳng và phức tạp, khiến cho việc tìm ra giải pháp cho vấn đề này đối mặt với nhiều thách thức lớn Yêu sách của Trung Quốc trong khu vực càng làm gia tăng sự căng thẳng và khó khăn trong việc đạt được sự đồng thuận.

Trung Quốc từng khẳng định chính sách “gác tranh chấp cùng khai thác” do Đặng Tiểu Bình đề xuất, tuy nhiên, thực chất của chính sách này là một chiến lược nhằm kiểm soát Biển Đông, phục vụ cho tham vọng chiếm lĩnh tài nguyên của quốc gia này.

Chính sách này có thể được ví như hai nhà hàng xóm tranh cãi về hàng rào phân chia vườn Một ngày, chủ nhà phía Bắc đề xuất tạm gác tranh chấp để cùng trồng cây tại vườn nhà phía Nam, nhằm hưởng lợi chung Tuy nhiên, khi chủ nhà phía Bắc trở nên mạnh mẽ hơn, họ lại đòi hỏi toàn bộ phần đất như là của mình.

Tháng 5 năm 2009, Trung Quốc chính thức công bố ranh giới có hình chữ U hay còn gọi là “Đường lưỡi bò” do chính quyền Quốc dân đảng đưa ra từ năm

Năm 1946 (hoặc 1947), Trung Quốc đã tuyên bố đường biên giới truyền thống trong Biển Nam Hải (Biển Đông), đòi hỏi chủ quyền không chỉ với các quần đảo mà còn cả vùng nước bên trong đường lưỡi bò Điều này diễn ra bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ cộng đồng quốc tế, đặc biệt là từ Việt Nam và các quốc gia liên quan Chủ nghĩa dân tộc cực đoan thể hiện qua các luận điệu và hành vi của truyền thông và quân đội Trung Quốc đã gây ra nhiều trở ngại nghiêm trọng cho việc giải quyết tranh chấp.

Việc củng cố lòng tin và tăng cường hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc là rất quan trọng trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông Trung Quốc đang yêu cầu chiếm khoảng 75% diện tích Biển Đông, để lại chỉ 25% cho các quốc gia như Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt Nam, trung bình mỗi quốc gia chỉ được 5% Yêu sách này đã gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ từ các quốc gia liên quan, đặc biệt là Việt Nam, trước những hành động của Trung Quốc trên vùng biển này.

Năm 1992, Trung Quốc đã ký hợp đồng thăm dò vùng Tư Chính – Vũng Mây với công ty Crestone Đến năm 2007, Trung Quốc quy định rằng tất cả bản đồ của nước này phải thể hiện ranh giới đường lưỡi bò Cũng trong năm 2007, Trung Quốc đã gây áp lực buộc tập đoàn dầu khí BP (British Petroleum) phải ngừng hợp tác với Việt Nam tại hai vùng dầu khí Mộc Tinh và Hải Thạch, thuộc bồn trũng Nam Côn Sơn trên thềm lục địa Việt Nam.

Tháng 7 năm 2008, Trung Quốc gây áp lực đòi ExxonMobil (Exxon Mobil Corporation là một tập đoàn dầu khí đa quốc gia của Hoa Kỳ) không được hợp tác với Việt Nam trong vùng biển của Việt Nam.

Vào ngày 22 tháng 11 năm 2009, Công ty dầu khí Hải Dương Trung Quốc đã công bố dự án trị giá 29 tỷ USD nhằm khảo sát và khai thác tài nguyên tại Biển Đông, bao gồm cả những khu vực đang có tranh chấp.

Tháng 8 năm 2010, tàu lặn của Trung Quốc đã cắm cờ xuống đáy Biển Đông để chứng minh chủ quyền.

Vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, Trung Quốc đã hạ đặt trái phép Giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gây ra căng thẳng nghiêm trọng Vào lúc 5h22 sáng cùng ngày, các tàu kiểm ngư của Việt Nam đã có mặt để phản đối hành động này.

Gần đây, giàn khoan di động HD 981 của Trung Quốc cùng ba tàu dịch vụ đã di chuyển từ Tây Bắc đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam xuống phía nam để hạ đặt khoan thăm dò, vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Hành động này không chỉ xâm phạm luật pháp quốc tế mà còn đe dọa an ninh hàng hải trong khu vực Mặc dù lực lượng kiểm ngư Việt Nam đã kiên quyết ngăn chặn các hành vi xâm phạm của Trung Quốc, nhưng phía Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng lực lượng tàu để bảo vệ giàn khoan, với mục tiêu hạ đặt khoan trong vùng biển của Việt Nam.

Ngày 2-5, giàn khoan HD 981 được thả trôi tại phía nam đảo Tri Tôn, sâu vào trong thềm lục địa của Việt Nam 80 hải lý, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý, cách bờ biển Việt Nam 130 hải lý Để đối đầu với các tàu kiểm ngư và cảnh sát biển của Việt Nam, Trung Quốc huy động 27 tàu các loại bảo vệ giàn khoan, trong số này có cả tàu quân sự.

Chỉ trong vài ngày, số lượng tàu hộ vệ giàn khoan của Trung Quốc đã tăng lên gần 100 chiếc, bao gồm nhiều tàu quân sự luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu Lực lượng này đã có những hành động khiêu khích, như phun vòi rồng và đâm va, khiến 8 tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư của Việt Nam bị hư hại, cùng với 6 kiểm ngư viên bị thương Sau nhiều nỗ lực vận động và trao đổi ngoại giao không đạt kết quả, vào ngày 7/5, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tổ chức họp báo quốc tế để phản đối mạnh mẽ những hành động ngang ngược của Trung Quốc.

Ngày đăng: 17/02/2022, 13:47

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w