1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giáo viên chủ nhiệm trong công tác rèn học sinh tính toán chậm môn Toán lớp 3

49 24 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 6,37 MB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • CHƯƠNG 1

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 2

  • NỘI DUNG

    • 2.1. Thời gian thực hiện:

      • 2.2. Đánh giá thực trạng

      • 2.2.1. Đặc điểm tình hình xã Trà Thanh – huyện Trà Bồng:

    • Xã Trà Thanh - huyện Trà Bồng là một xã cách xã trung tâm huyện miền núi Trà Bồng, nơi đây tập trung các cơ quan Nhà nước như Uỷ ban nhân dân xã, trường Mẫu giáo, Tiểu học, Phổ thông Dân tộc Bán trú trung học cơ sở, Y tế xã và nhiều quán xá của người Kinh buôn bán. Người dân nơi đây hầu hết là đồng bào Co, đời sống nhân dân trong vùng còn nhiều khó khăn, họ sống bằng nhiều ngành nghề như: làm rẫy, trồng rau hoa màu, chăn nuôi các loại gia súc, một số người không có nghề nghiệp ổn định phải đi làm thuê, làm mướn ở các tỉnh khác. Nhận thức con người nơi đây còn quá thấp, dân trí chưa cao. Chính những vấn đề trên một phần đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học của con em đồng bào nơi đây.

      • 2.2.2. Kết quả đạt được:

      • Tổng số học sinh

      • < 5

      • 5 – 6

      • 7 – 8

      • 9 – 10

      • 12

      • 4

      • 5

      • 2

      • 1

        • 2.2.3. Những mặt hạn chế:

        • Tôi nhận thấy sự tính toán chậm của lớp tôi biểu hiện qua:

        • + Nhiều em chưa biết cách thuộc bảng cộng, bảng trừ, bảng nhân, bảng chia. Hay có một số em chưa biết cách thực hiện bài toán.

        • + Đặt tính sai, không ngay hàng, thẳng cột.

        • + Các em chưa chịu đọc kĩ đề đã bắt tay vào làm bài, có em còn làm rất ẩu. Không chịu thử lại khi làm bài, tẩy xóa nhiều trong bài làm.

        • + Trong phép nhân, chia thì không nhớ trình tự làm bài, hay nhầm lẫn.

        • + Thái độ thiếu tự tin, thấy rõ nhất là khi các em làm toán hoặc trả lời các em thường đưa mắt nhìn giáo viên nếu giáo viên cau mày thì lại cho rằng mình đã làm sai.

        • 2.2.4. Nguyên nhận đạt được và nguyên nhân hạn chế:

        • 2.2.4.1. Nguyên nhân đạt được:

        • * Về phía giáo viên:

        • - Bản thân tôi may mắn được nhận công tác về Trường Tiểu học Trà Thanh, Trà Bồng – Quảng ngãi. Từ khi thành lập đến nay trường luôn đạt thành tích cao trong nhiều mặt hoạt động và luôn dẫn đầu trong các phong trào thi đua.

        • - Được sự quan tâm sâu sát của Ban Giám hiệu nhà trường trong việc phối hợp với giáo viên trong qua trình giáo dục học sinh.

        • - Giáo viên chủ nhiệm có trình độ đào tạo đạt chuẩn, tuổi đời còn trẻ, nhiệt tình có trách nhiệm luôn luôn học hỏi kinh nghiệm.

        • - Giáo viên mạnh dạn thay đổi phương pháp dạy học phù hợp với tình hình thực tế của lớp, của từng học sinh.

        • - Giáo viên luôn làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục vì mục tiêu chung cùng nhau giúp đỡ học sinh tiến bộ.

        • * Về phía học sinh:

        • - Được sự quan tâm của chính quyền địa phương cũng như các cấp, nhà trường luôn tạo mọi điều kiện để các em được hưởng các quyền lợi chính đáng.

        • - Đa số học sinh ngoan, tích cực tham gia các hoạt động của lớp, của nhà trường. Học sinh biết lắng nghe thầy cô giáo, biết phấn đấu trong học tập.

        • 2.2.4.2 Nguyên nhân hạn chế:

        • * Về phía giáo viên:

        • - Nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp tôi nhận thấy đâu đó trong đội ngũ giáo viên vẫn có một vài thầy cô vẫn chưa làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, thường hay than phiền về học sinh, về phụ huynh mà chưa tìm được biện pháp giáo dục học sinh phù hợp.

        • - Giáo viên nhận thức về công tác chủ nhiệm còn hạn chế.

        • - Trong quá trình chủ nhiệm lớp, giáo viên ít quan tâm đến điều kiện gia đình của từng em, ít gần gũi ân cần với các em.

        • - Ít đầu tư vào việc soạn giảng để gây hứng thú học tập cho học sinh.

        • - Mặt khác, do sức ép của sự đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học, hồ sơ sổ sách, các cuộc thi của ngành,... mà giáo viên thiếu quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp.

        • * Về phía học sinh:

        • - Tất cả các em đều là con em đồng bào Co và hầu hết đều thuộc diện hộ nghèo, có nhà ở xa điểm trường nên việc đi lại hết sức khó khăn.

        • - Các em chưa nắm vững tiếng phổ thông, hầu hết các em đều giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu bài của học sinh.

        • - Học sinh thấy qua mỗi bài học, nội dung kiến thức quá dài, khó nhớ nên các em rất mệt mỏi và ngán ngẫm.

        • - Một số em chưa tự giác trong học tập, còn ham chơi.

        • Học sinh lười suy nghĩ, trông chờ vào thầy, cô giải để chép

        • Mất kiến thức cơ bản ở lớp dưới.

        • Không tập trung chú ý trong giờ học, học vẹt, không có khả năng áp dụng kiến thức.

        • Trình độ tiếp thu kiến thức toán học của các em còn chưa đồng đều. Riêng về kĩ năng thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia trong phạm vi 100000.

        • * Về phía phụ huynh:

        • Người dân nơi đây hầu hết là đồng bào Co, đời sống nhân dân trong vùng còn nhiều khó khăn, họ sống bằng nhiều ngành nghề như: Làm rẫy, trồng rau hoa màu, chăn nuôi các loại gia súc, đãi vàng, một số người không có nghề nghiệp ổn định phải đi làm thuê ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, các em phải ở nhà với ông bà nhiều em thậm chí là ở với anh chị hoặc em.

        • Phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của các em, còn khoán trắng cho nhà trường, chưa tạo điều kiện cho các em học tập như: dụng cụ học tập không đầy đủ, góc học tập ở nhà chưa hợp lý. Họ coi việc giáo dục học sinh là trách nhiệm của nhà trường, của các thầy các cô chứ bản thân không hề nghĩ cho tương lai của con em mình.

        • Phụ huynh ngại gọi điện để hỏi thăm tình hình học tập và trao đổi về cách dạy con em lúc ở nhà. Đa số phụ huynh chưa biết cách hướng dẫn con em làm toán đúng phương pháp.

        • Chính những yếu tố trên đã làm ảnh hưởng đến kết quả học tập nói chung và đặc biệt là kết quả học tập môn Toán nói riêng của học sinh trong suốt thời gian học tập của mình.

  • Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập môn toán cho học sinh Tiểu học nói chung mà đặc biệt là vai trò của người "Giáo viên chủ nhiệm trong công tác rèn học sinh tính toán chậm môn Toán lớp 3” Cho học sinh miền núi nơi tôi đang công tác, chính điều đó đã thôi thúc tôi suy nghĩ tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề.

  • CHƯƠNG 3

  • GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

    • 3.1. Căn cứ thực hiện:

    • 3.2. Nội dung giải pháp và cách thực hiện:

      • 3.2.1. Nội dung phương pháp.

      • 3.2.2 Giải pháp thực hiện.

      • Lớp tôi có sỉ số là 12 em trong đó có 3 nữ, 3 em hoàn thành chậm, 1em lưu ban , 8 học sinh thuộc hộ nghèo, 12 em nhà xa trường.

      • Sau khi nhận lớp và qua mấy tuần đầu dạy học tôi ra bài tập khảo sát để nắm chắc số lượng học sinh tính toán chậm

        • 3.2.2.1 Dạy học phân hóa đối tượng, quan tâm đến học sinh chậm:

        • Khi soạn bài tôi luôn nghiên cứu kĩ về chuẩn kiến thức, kĩ năng của mỗi bài học để điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, trong từng bài học cụ thể.

        • Trong quá trình dạy học, đối với những bài có khối lượng kiến thức ít hơn hoặc những bài có nội dung ôn tập, sau khi các em học sinh hoàn thành, hoàn thành tốt làm xong tôi giao thêm bài tập nâng cao để mở rộng thêm kiến thức cho học sinh. Tôi phân hóa đối tượng theo nhiều hình thức: giao bài tập, đặt hệ thống câu hỏi, đánh giá nhận xét bạn hay thông qua các trò chơi học tập...

        • Học sinh ở mức độ hoàn thành, hoàn thành tốt thì tôi làm cho các em hứng thú, đam mê với việc học, đối với hs chậm tiến thì tôi bù đắp được chỗ hỏng kiến thức để các em lĩnh hội được kiến thức cơ bản

        • Ví dụ: Trong tiết học giao bài tập cho học sinh, tôi sẽ thiết kế phiếu bài tập theo các mức độ học lực khác nhau thể hiện qua các phiếu màu khác nhau.

        • 3.2.2.2 Xây dựng nề nếp lớp học:

        • Lớp tôi có 12 em nên việc kèm cặp và quan sát cũng dể dàng. Tôi xây dựng đội ngũ quản lý tốt, năng nổ, nhiệt tình, thường xuyên kiểm tra các bạn chậm tiến vào 15 phút đầu giờ.

        • Hình 5: Học sinh thực hiện tốt giờ truy bài 15 phút đầu giờ

        • Tôi sắp xếp chỗ ngồi cho các em tính toán chậm, phân công đôi bạn cùng tiến. Mục đích là đề kiểm tra việc thực hiện các bài tập tôi giao và chỉ cho bạn thấy lỗi sai của mình.

        • Hình 6, 7: Học sinh thực hiện đôi bạn cùng tiến

        • Các bài tập tôi đưa ra là từ dễ đến khó, thực hiện các phép tính cộng, trừ các số trong phạm vi 10000, 100000, phép nhân, phép chia các số có bốn, năm chữ số cho số có một chữ số.

        • 3.2.2.3. Rèn kĩ năng tính nhẩm qua trò chơi:

        • Để rèn luyện cho học sinh làm tốt bốn phép tính cơ bản đầu tiên tôi rèn cho học sinh kĩ năng tính nhẩm thông qua trò chơi:

        • Trong những tiết dạy tăng cường Toán tôi dành ra năm đến mười phút để tổ chức cho các em chơi trò chơi.

        • Trò chơi: “ Tiếp sức”

        • Luật chơi: GV chia lớp thành 3 nhóm lớn, mỗi nhóm cử 5 bạn( chú ý khi chọn thành viên trong nhóm phải có bạn tính toán chậm). GV đính các phép tính nhẩm lên bảng nêu yêu cầu bài toán và phổ biến luật chơi rõ ràng cho học sinh:

        • 27 : 3 = 54 : 9 = 10 × 10 = 9+ 9 =

        • 8+ 4 = 9 × 9 = 6000 + 500 =

        • Cách chơi: Người thứ nhất lên viết nhanh kết quả vào phép tính đầu chạy về đứng cuối hàng, người thứ hai tiếp tục cho đến hết. Nhóm nào điền kết quả đúng và nhanh nhất là nhóm chiến thắng.

        • Việc làm này sẽ giúp các em thay đổi không khí lớp học, kích thích học sinh tính nhẩm nhanh và chính xác để trả lời. Những học sinh trả lời sai hoặc trả lời còn chậm sẽ cố gắng về nhà học bảng cộng, bảng trừ, bảng nhân, chia cho thuộc để hôm sau trả lời đúng hơn nhanh hơn.

        • 3.2.2.4. Rèn kĩ năng thực hiện phép cộng, trừ, nhân, chia.

        • Phép cộng:

        • Khi thực hiện các phép tính cộng trừ có nhớ các em còn nhầm lẫn, tính sai. Tôi thấy các em chưa thuộc bảng cộng đã học ở các lớp 1,2 để vận dụng vào tính toán. Có em phải dùng tay hoặc dùng que tính để tính toán. Có em thì đặt tính không ngay hàng thẳng cột dẫn đến làm tính sai. Thường gặp nhất là các em thực hiện cộng có nhớ thì quên nhớ.

        • Để giúp các em rèn kĩ năng tính cộng có nhớ thành thạo một mặt tôi hướng dẫn các em ôn lại bảng cộng mặt khác tôi hướng dẫn các em thuật nhớ bảng cộng bằng cách:

        • Với bảng cộng 9, 9 cộng với một số tôi hướng dẫn các em nhẩm nhanh bằng cách lấy bớt 1 ở số hạng thứ 2 để bù vào 9 số hạng thứ nhất cho đủ chục (mười)

        • Vd : 9 + 5 = 9 + 1+ 4 ( ta lấy 5 bớt 1 để bù vào 9 cho đủ chục, 5 bớt 1 còn 4 vậy 9 + 5 = 14

        • Giáo viên cần chỉ cho học sinh thấy như vậy khi cộng 9 với một số ( có 1 chữ số) nào đó thì kết quả hàng chục sẽ bằng một và hàng đơn vị sẽ bằng số đó trừ đi 1. Sau đó áp dụng thành kĩ năng là chỉ cần nêu đúng kết quả phép tính là được.

        • Vd: 9 + 7 = 16 ( 7 trừ 1 bằng 6 nên 9 + 7 = 16)

        • 9 + 8 = 17 ( 8 trừ 1 bằng 7 nên 9 + 8 = 17)

        • Tương tự với bảng cộng 8, 8 cộng với một số thì ta lại bớt số đó đi hai để nêu nhanh kết quả.

        • Vd: 8 + 7 = 15 (7 trừ 2 bằng 5, vậy 8 + 7 = 15)

        • 8 + 4 = 12 ( 4 trừ 2 bằng 2, vậy 8 + 4 = 12)

        • 7 công với một số thì lại bớt số đó đi 3 để nhẩm, 6 cộng với một số thì lại bớt số đó đi 4 để nhẩm.

        • Bằng cách biết vận dụng như vậy các em sẽ tính toán nhanh hơn thay vì dùng tay hoặc dùng que tính để tính khi cộng có nhớ.

        • (đặt tính chưa ngay hàng, thẳng cột dẫn đến kết quả sai)

        • ( thực hiện cộng mà quên nhớ)

        • Khi học sinh đặt chưa ngay hàng, thẳng cột tôi giúp các em nắm vững về số tự nhiên, về hàng, về giá trị các chữ số từ đó giúp các em nắm vững cách đặt phép tính đúng, thẳng hàng. Tôi luôn lưu ý học sinh phải cộng từ phải sang trái, cộng từ hàng đơn vị rồi mới đến hàng tiếp theo lần lượt từ phải qua trái. Đối với những học sinh hay quên nhớ tôi thường lưu ý các em mỗi lần cộng có nhớ các em cần đánh số lần nhớ hoặc dùng dấu chấm để đánh dấu số mình đang nhớ vào bên trái số mình đang cộng. Sau khi làm bài xong thì tôi yêu cầu các em thử lại để xem kết quả thực hiện của mình có đúng không.

        • Đối với những em đặt tính chưa đúng tôi yêu cầu học sinh nhận xét cách đặt tính của bạn xem thử chỗ nào được, chỗ nào chưa được để bạn sửa. Tôi thấy làm như thế học sinh sẽ nhớ rằng mình đã làm sai chỗ nào và biết cách sửa.

        • Lúc đầu tôi đặt tính cho học sinh thực hiện, học sinh thực hiện sai chỗ nào thì phải kịp thời chỉ rõ. Tiếp theo tôi cho bài toán rồi học sinh tự đặt tính. Sau đó cho các em nhiều phép tính đã đặt có kết quả, có bài làm đúng có bài làm sai, học sinh chỉ ra đâu là phép tính đúng, đâu là phép tính sai và yêu cầu học sinh sửa lại cho đúng.

        • Phép trừ:

        • Dạy phép trừ là ngược lại với phép cộng.

        • Để thực hiện đúng bài toán thì các em phải cần học thuộc bảng trừ, biết đặt tính. Cách thực hiện phép tính. khi thực hiện phép trừ thì chúng ta cũng thực hiện giống như thực hiện phép cộng.

        • Vd:

        • Giáo viên phải hướng dẫn học sinh thực hiện bài toán trừ từ phải sang trái bắt đầu từ hàng đơn vị. Đầu tiên lấy 7 trừ 9, 7 < 9 không trừ được thì ta mượn 10, ở đây giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh thấy được là ta mượn 10 ở đâu? Ở hàng chục của số bị trừ tức là 5 chục mượn 1 chục, 1 chục bằng 10 đơn vị , 10 + 7 = 17, 17 trừ 9 bằng 8 viết 8 nhớ 1 , tiếp theo 1 thêm 1 nhớ lúc đầu bằng 2, 5 trừ 2 bằng 3 viết 3 ghi thẳng hàng với hàng chục. Tiếp tục ở hàng trăm, 2 trừ 1 bằng 1 viết 1 vào kết quả ở hàng trăm.

        • Phép nhân:

        • Khi thực hiện phép nhân học sinh thường gặp một số khó khăn sai lầm như:

        • Khi nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ 2,3 liên tiếp học sinh chỉ thường nhớ lần đầu tiên mà quên không nhớ các lần tiếp theo.

        • Trong phép nhân có nhớ nhiều hơn 1 ( nhớ 2,3,4..) học sinh thường chỉ nhớ 1

        • Vd :

        • - Đối với hai lỗi trên, giáo viên cần khắc phục cho học sinh bằng cách yêu cầu các em nhẩm thầm trong khi tính (vừa tính vừa nhẩm: 4 nhân 3 bằng 12 viết 2 nhớ 1 , 4 nhân 1 bằng 4 thêm 1 bằng 5 viết 5, 4 nhân 9 bằng 36 viết 6 nhớ 3, 4 nhân 2 bằng 8 thêm 3 bằng 11 viết 11 và nhớ viết số cần nhớ ra lề phép tính.

        • -Lúc đầu khi mới học nhân số có nhiều chữ số với số có 1 chữ số học sinh còn hay sai trong cách ghi kết quả.

        • Ví dụ:

        • Nếu làm như vậy thì tích tới 61 chục nhưng thực ra chỉ có 7 chục thôi. Vì ở lượt nhân thứ nhất 3 nhân 6 đơn vị được 18 đơn vị, tức là 1 chục và 8 đơn vị, viết 8 ở cột đơn vị còn 1 chục nhớ lại ( bên lề phép tính) để thêm vào kết quả ở lượt nhân thứ 2 – nhân hàng chục.

        • Ở lượt nhân thứ hai, 3 nhân 2 chục được 6 chục, thêm 1 chục đã nhớ là 7 chục, viết 7 ở cột chục. Để kích thích các em làm nhanh và đúng tôi thường cho các em làm các phép tính đơn lẻ rồi yêu cầu học sinh mang lên chấm. Việc làm này giúp giáo viên đánh giá được kết quả thực hiện của từng em, qua đó nhận biết được kĩ năng nhân củ từng em, nắm bắt được chỗ sai của từng em để khắc sâu cho các em.

        • Phép chia:

        • *Phép chia hết:

        • Ví dụ : 18 : 3

        • Hướng dẫn học sinh nhẩm xem số nào nhân với 3 để được 18

        • Nếu như có học sinh trả lời là 5 thì phải hướng dẫn 5 × 3= 15, mà số bị chia là 18 và 18 - 15 = 3 mà 3 vẫn chia được 3 ( 3 : 3 =1 ), vậy cần hướng dẫn học sinh “thêm” bằng cách gợi ý “ Lớn hơn 5 một đơn vị là mấy ?” các em sẽ biết là 6 vậy 6 × 3 bằng bao nhiêu (6×3= 18). Vậy 18 – 18 = 0, ta thực hiện được phép chia 18 : 3 = 6 ta được phép chia hết thử lại bằng cách lấy thương nhân với số chia được tích là số bị chia. Ta đã thực hiện thành công phép chia hết.

        • Cách khác ví dụ ta có phép chia 32 : 4 trong trường hợp học sinh không thực hiện được phép chia đúng, có học sinh làm ra kết quả 32 : 4 = 9, cần hướng dẫn cho học sinh tìm kết quả đúng. GV đặt câu hỏi : “9 nhân 4 bằng bao nhiêu ?” (học sinh trả lời 9× 4= 36. Vậy số nhỏ hơn 9 một đơn vị là số mấy ? ( học sinh sẽ trả lời ngay là 8). Hỏi tiếp 8 × 4 bằng mấy (bằng 32). Vậy 32 : 4 = 8 là phép chia hết.

        • *Phép chia có dư:

        • Vd 23 : 3

        • Cần hướng dẫn học sinh cách chia. Yêu cầu học sinh nêu tên gọi của các số trong phép chia ( 23 goi là số bị chia, 3 là số chia) ta thực hiện phép chia bằng cách tìm số nào khi nhân với 3 được 23. Hướng dẫn học sinh ước lượng 8 × 3 được bao nhiêu ? ( được 24). Vậy 23 có trừ hết cho 24 không ? (hs trả lời không). Vậy số nhỏ hơn 8 một đơn vị là mấy ? 7 × 3 bằng bao nhiêu ? ( bằng 21). 23 -21 bằng bao nhiêu ? ( bằng 2). Số dư 2 lớn hay nhỏ hơn số chia 3 ?( nhỏ hơn). Giáo viên nhắc cho học sinh nhớ : khi thực hiện phép chia có dư, số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia.

        • Học sinh thường ước lượng sai trong phép chia có dư nên dẫn đến việc tìm được số dư lớn hơn số chia và thực hiện chia số dư đó cho số chia. Cuối cùng tìm được thương lớn hơn số chia.

        • Vd : 89 2

        • 09 431 (sai)

        • 3

        • 1

        • Nguyên nhân của lỗi sai này là :

        • + Do học sinh chưa nắm được quy tắc : “Số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia”

        • + Học sinh không thuộc bảng nhân, bảng chia, kĩ năng trừ nhẩm để tìm số dư còn chưa tốt.

        • Để khắc phục sai lầm này :

        • + Khi dạy học sinh cách ước lượng thương trong phép chia, cần lưu ý cho học sinh quy tắc trong phép chia có dư : “Số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia”

        • + Khi dạy về nhân, chia giáo viên cần yêu cầu học sinh phải thuộc các bảng nhân, bảng chia trước khi dạy chia hết.

        • + Dạy cho học sinh làm tính chia phải được tiến hành từ dể đến khó, theo từng bước một.

        • Một sai lầm nữa thường thấy ở học sinh khi học sinh chia viết là : “Các em thường quên chữ số 0 trong phép chia có chữ số 0 ở thương”.

        • Nguyên nhân và cách khắc phục:

        • Do học sinh không nắm được quy tắc thực hiên chia viết “Có bao nhiêu lần chia thì có bấy nhiêu chữ số được viết ở thương”.

        • Cần lưu ý học sinh chỉ duy nhất trong lần chia đầu tiên là lấy được nhiều hơn một chữ số ở số bị chia để chia, còn các lần chia tiếp theo lấy từng chữ số để chia và khi lấy một chữ số để chia thì phải viết được một chữ số ở thương. Bên cạnh đó giáo viên cũng lưu ý học sinh nên viết đủ phép trừ ở các lượt chia.

        • Hướng dẫn học sinh cách nhân khi thực hiện phép chia có dư trong mỗi lượt chia như sau:

        • Vd : 43 : 5 = ?

        • Cách 1: Đếm ngược từ 43 cho đến khi gặp một tích( hoặc số bị chia) trong bảng nhân 5( chia 5) 43,42,41,40

        • 40 : 5 = 8 vậy 43 : 5 = 8 ( dư 3)

        • Cách 2: Tìm số lớn nhất (không vượt quá 43) trong các tích ( số bị chia) của bảng nhân 5 (chia 5) ta được 40. 40 : 5 = 8. Vậy 43 : 5 = 8 ( dư 3 )

        • Để khắc phục những sai lầm khi thực hiện phép chia tôi cho các em làm rất nhiều phép tính.

        • Tôi cho các em làm bài tập xác định đúng, sai. Nếu sai thì phải giải thích, chỉ ra nguyên nhân sai và nêu cách sửa. khi các em đã làm được điều này nghĩa là các em không mắc sai lầm nữa.

        • Ví dụ:

        • 185 6 283 7

        • 18 30 28 4

        • 0 5 03

        • 0

        • 5

        • 185 : 6 = 30 (dư 5) 283 : 7 = 4 (dư 3)

        • Với tất cả các dạng bài trên để khắc sâu kiến thức tôi cho học sinh làm đi làm lại nhiều lần. bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy, cung cấp kiến thức, nếu liên quan đến kiến thức cũ hoặc công thức, quy tắc tôi đều dừng lại 5 phút đến 10 phút để củng cố ôn tập. Khi dạy tôi cố gắng đưa ra câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh lớp mình làm sao cho tất cả các em được yêu cầu cơ bản của bài học. Trong từng tiết học, tôi chịu khó chấm bài để kiểm tra trình độ học sinh, phát hiện những sai lầm của các em để kịp thời uốn nắn sửa chữa.

        • 3.2.2.5. Công tác phối hợp:

        • * Phối hợp với giáo viên bộ môn:

        • Tôi luôn lắng nghe và tiếp thu ý kiến từ giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm năm học trước về tình hình của lớp, đặt biệt là những học sinh còn chậm, nhút nhát trong học tập

        • Ví dụ: Đối với những em còn rụt rè thì trong giờ ra chơi tôi thường xuyên nói chuyện, hỏi thăm tình hình gia đình để tạo cảm giác gần gũi, giúp các em mạnh dạn hơn, cởi mở hơn khi giao tiếp với cô giáo.

        • * Phối hợp với gia đình học sinh:

        • Tôi thường xuyên liên lạc với phụ huynh nhắc nhở các em phải tự làm bài, ôn lại các bài tập mà tôi đã sửa trên lớp để nắm chắc. Nhắc nhở phụ huynh phải thường xuyên kiểm tra việc học hành của các em, phải có góc học tập riêng.

        • Hình 8: Phụ huynh kèm cho con em mình học ở nhà

        • Một số phụ huynh làm ăn xa, tôi đã hướng cho phụ huynh thường xuyên gọi điện cho con vào mỗi tối, nhắc nhở con học bài, để các em có động lực có ý thức hơn trong việc học.

  • CHƯƠNG 4

  • KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

    • 4.1. Kết quả đạt được:

    • 4.2. Phạm vi áp dụng:

    • Được áp dụng tại lớp tôi chủ nhiệm, có thể áp dụng toàn khối 3 và tôi có thể chỉnh sửa nội dụng sao cho phù hợp với tình hình của lớp chủ nhiệm để áp dụng cho những năm học sau.

    • 4.3 Bài học kinh nghiệm:

    • Rèn kĩ năng tính toán cho học sinh Tiểu học nói chung và cho học sinh lớp 2 nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa đối với mỗi giáo viên Tiểu học. Nếu có biện pháp và kế hoạch dạy học tốt, hợp lý sẽ giúp học sinh tính toán tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng môn Toán của học sinh trong lớp. Để quá trình rèn kĩ năng tính toán cho học sinh đạt hiệu quả, tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:

    • 4.4. Kiến nghị

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Môn toán là một trong những môn quan trọng nhất ở bậc tiểu học. Qua việc dạy toán không chỉ rèn luyện kĩ năng tính toán để giúp học tốt các môn khác mà Đồng thời còn rèn cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, làm việc khoa học..... Qua những năm giảng dạy, tôi thấy học sinh lớp 3 còn lúng túng trong việc thực hiện bốn phép tính cộng, trừ , nhân, chia với số tự nhiên. Các em thường làm sai ở vài chỗ như: đặt tính đúng mà quên nhớ, đặt tính chưa ngay hàng thẳng cột, chưa thuộc bảng nhân, bảng chia, khả năng tính nhẩm còn hạn chế.....

Đánh giá thực trạng

2.2.1 Đặc điểm tình hình xã Trà Thanh – huyện Trà Bồng:

Xã Trà Thanh, thuộc huyện Trà Bồng, là một xã miền núi với nhiều cơ quan Nhà nước như Uỷ ban nhân dân, trường học và cơ sở y tế Đời sống của người dân chủ yếu là đồng bào Co, gặp nhiều khó khăn và phụ thuộc vào nông nghiệp, chăn nuôi và làm thuê ở các tỉnh khác Nhận thức và trình độ dân trí tại đây còn thấp, điều này ảnh hưởng đến việc học của trẻ em trong cộng đồng.

Tôi nhận thấy sự tính toán chậm của lớp tôi biểu hiện qua:

+ Nhiều em chưa biết cách thuộc bảng cộng, bảng trừ, bảng nhân, bảng chia Hay có một số em chưa biết cách thực hiện bài toán.

+ Đặt tính sai, không ngay hàng, thẳng cột.

Căn cứ thực hiện

Dựa trên kế hoạch năm học 2020 - 2021 của trường Tiểu học Trà Thanh và tình hình thực tế của học sinh lớp chủ nhiệm, việc thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 29/NQ/TW là rất quan trọng Cần nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực người học, đồng thời áp dụng một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng này để đạt hiệu quả cao nhất.

Nội dung giải pháp và cách thực hiện

Người giáo viên chủ nhiệm tiểu học đóng vai trò quan trọng trong việc dạy dỗ và hướng dẫn học sinh, quản lý toàn diện lớp học và gắn bó với các em Với trình độ hiểu biết và vốn sống còn hạn chế, học sinh tiểu học rất cần sự chỉ bảo và dìu dắt từ giáo viên Tuy nhiên, công tác chủ nhiệm, dù ở đồng bằng hay miền núi, cũng gặp nhiều khó khăn mà giáo viên cần nắm rõ để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

Để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh miền núi, giáo viên chủ nhiệm cần xây dựng một hệ thống giải pháp thiết thực Bên cạnh nỗ lực của học sinh, việc tìm kiếm những giải pháp phù hợp với thực tế lớp học là rất quan trọng Tôi luôn tự hỏi và nghiên cứu để tìm ra những phương pháp hiệu quả nhằm cải thiện kết quả học tập cho học sinh của mình.

Lớp tôi có sỉ số là 12 em trong đó có 3 nữ, 3 em hoàn thành chậm, 1em lưu ban , 8 học sinh thuộc hộ nghèo, 12 em nhà xa trường.

Sau khi nhận lớp và qua mấy tuần đầu dạy học tôi ra bài tập khảo sát để nắm chắc số lượng học sinh tính toán chậm

Hình 1, 2, 3, 4: Phiếu khảo sát nhanh về việc thực hiện 4 phép tính

Sau khi khảo sát thì tôi phát hiện ra bốn em tính toán chậm:

- Chưa thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia (từ bảng nhân (chia) 2 đến bảng nhân (chia) 5).

- Khi thực hiện cộng, trừ có nhớ thì em hay quên nhớ Tính toán còn đếm ngón tay, rất chậm

- Chưa biết cách thực hiện phép nhân, chưa nắm được quy tắc thực hiện phép chia.

- Chưa thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia (từ bảng nhân (chia) 2 đến bảng nhân (chia) 5).

- Khi thực hiện cộng, trừ có nhớ thì em hay quên nhớ Tính toán còn đếm ngón tay, rất chậm

- Chưa biết cách thực hiện phép nhân, chưa nắm được quy tắc thực hiện phép chia.

- Chưa thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia (từ bảng nhân (chia) 2 đến bảng nhân (chia) 5

- Thực hiện đặt tính chưa ngay hàng thẳng cột.

- Chưa nắm được cách thực hiện phép chia

- Chưa thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia (từ bảng nhân (chia) 2 đến bảng nhân (chia) 5).

- Thực hiện đặt tính chưa ngay hàng thẳng cột.

- Chưa nắm được cách thực hiện phép chia

3.2.2.1 Dạy học phân hóa đối tượng, quan tâm đến học sinh chậm:

Khi soạn bài, tôi luôn nghiên cứu kỹ chuẩn kiến thức và kỹ năng của từng bài học, nhằm điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp và từng bài học cụ thể.

Trong quá trình dạy học, sau khi học sinh hoàn thành tốt các bài có khối lượng kiến thức ít hoặc nội dung ôn tập, tôi thường giao thêm bài tập nâng cao để mở rộng kiến thức Tôi áp dụng nhiều hình thức phân hóa đối tượng, bao gồm giao bài tập, đặt hệ thống câu hỏi, và đánh giá qua các trò chơi học tập.

Đối với học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt, tôi tạo ra sự hứng thú và đam mê trong việc học Còn với học sinh chậm tiến, tôi sẽ bổ sung kiến thức còn thiếu để các em có thể nắm vững những kiến thức cơ bản.

Trong quá trình giao bài tập cho học sinh, tôi sẽ thiết kế các phiếu bài tập với nhiều mức độ khó khác nhau, được phân biệt bằng các màu sắc riêng biệt.

3.2.2.2 Xây dựng nề nếp lớp học:

Lớp học của tôi có 12 học sinh, giúp việc kèm cặp và quan sát trở nên dễ dàng hơn Tôi đã xây dựng một đội ngũ quản lý năng động và nhiệt tình, thường xuyên kiểm tra những học sinh chậm tiến trong 15 phút đầu giờ.

Hình 5: Học sinh thực hiện tốt giờ truy bài 15 phút đầu giờ

Tôi đã sắp xếp chỗ ngồi cho những học sinh có khả năng tính toán chậm và phân công họ làm việc theo cặp để hỗ trợ nhau Mục tiêu là kiểm tra việc thực hiện các bài tập mà tôi đã giao và giúp các em nhận ra những lỗi sai của mình.

Hình 6, 7: Học sinh thực hiện đôi bạn cùng tiến

Các bài tập được thiết kế từ dễ đến khó, bao gồm các phép tính cộng và trừ với các số trong phạm vi 10.000 và 100.000 Ngoài ra, bài tập còn có phép nhân và phép chia cho các số có bốn hoặc năm chữ số với số có một chữ số.

3.2.2.3 Rèn kĩ năng tính nhẩm qua trò chơi: Để rèn luyện cho học sinh làm tốt bốn phép tính cơ bản đầu tiên tôi rèn cho học sinh kĩ năng tính nhẩm thông qua trò chơi:

Trong những tiết dạy tăng cường Toán tôi dành ra năm đến mười phút để tổ chức cho các em chơi trò chơi.

Trong trò chơi, giáo viên chia lớp thành ba nhóm lớn, mỗi nhóm gồm năm học sinh, lưu ý chọn thành viên có khả năng tính toán chậm Giáo viên sẽ dán các phép tính nhẩm lên bảng, nêu rõ yêu cầu bài toán và phổ biến luật chơi một cách cụ thể cho học sinh.

Trong trò chơi, người chơi sẽ thực hiện các phép tính như 27 : 3 = 54 : 9 = 10 × 10 = 9 + 9 và 8 + 4 = 9 × 9 = 6000 + 500 Người đầu tiên sẽ nhanh chóng ghi kết quả của phép tính đầu tiên và chạy về đứng cuối hàng, sau đó người thứ hai sẽ tiếp tục cho đến khi hoàn thành Nhóm nào điền kết quả đúng và nhanh nhất sẽ là nhóm chiến thắng.

Việc thay đổi không khí lớp học sẽ kích thích học sinh phát triển khả năng tính nhẩm nhanh và chính xác Những em trả lời sai hoặc chậm sẽ có động lực ôn luyện bảng cộng, trừ, nhân, chia tại nhà để cải thiện khả năng trả lời trong những buổi học tiếp theo.

3.2.2.4 Rèn kĩ năng thực hiện phép cộng, trừ, nhân, chia.

Nhiều học sinh gặp khó khăn trong việc thực hiện phép tính cộng trừ có nhớ, thường nhầm lẫn và tính sai Một số em chưa thuộc bảng cộng đã học ở lớp 1, 2, dẫn đến việc phải sử dụng tay hoặc que tính để tính toán Ngoài ra, việc đặt tính không ngay hàng thẳng cột cũng khiến các em dễ mắc lỗi Thường gặp nhất là các em quên nhớ khi thực hiện phép cộng có nhớ Để cải thiện kỹ năng này, tôi hướng dẫn các em ôn lại bảng cộng và áp dụng các phương pháp ghi nhớ hiệu quả.

Để giúp các em nhẩm nhanh bảng cộng 9, tôi hướng dẫn cách lấy bớt 1 ở số hạng thứ 2 và cộng vào 9 ở số hạng thứ nhất, từ đó tạo thành số tròn chục.

Vd : 9 + 5 = 9 + 1+ 4 ( ta lấy 5 bớt 1 để bù vào 9 cho đủ chục, 5 bớt 1 còn 4 vậy 9 + 5 = 14

Giáo viên cần chỉ cho học sinh thấy như vậy khi cộng 9 với một số ( có

Kết quả đạt được

Tôi đã áp dụng các biện pháp giảng dạy hiệu quả cho học sinh lớp 3A và rất vui mừng khi thấy sự đầu tư của mình mang lại kết quả tích cực.

Bài kiểm tra hàng tháng có sự thay đổi rất rõ rệt, em đã nắm được cách thực hiện phép nhân, chia.

Em Hồ Thị Trang đã có sự tiến bộ rõ rệt so với đầu năm học, hiện tại em đã thuộc các bảng nhân và chia Em cũng đã nắm vững cách thực hiện phép nhân và chia.

Hình 12, 13,14 : Bài kiểm tra tháng 10,11,12 của em Hồ Thị Trang

3) Em Hồ Văn Anh Có tiến bộ rất nhiều so với đầu năm học, hầu như em đã thuộc các bảng nhân, bảng chia Đã biết cách thực hiện phép nhân, chia

Hình 15,16,17: Bài kiểm tra tháng 10,11,12 của em Hồ Văn Anh

4 Em Hồ Văn Chiều: Có tiến bộ rất nhiều so với đầu năm học, hầu như em đã thuộc các bảng nhân, bảng chia Đã biết cách thực hiện phép nhân, chia

Hình 18,19, 20: Bài kiểm tra tháng 10,11,12 của em Hồ Văn Chiều Điểm các bài kiểm tra cũng có sự thay đổi rất rõ rệt.

Tên học sinh Điểm cuối học kì 1 Điểm cuối học kì 2

Hình 21,22,23, 24 : Bài kiểm tra cuối học kì 2 của bốn em Vinh, Trang, Anh,

Sau mỗi kì kiểm tra học sinh lớp tôi có tiến bộ rõ rệt, cụ thể như sau:

Hình 24 Điểm Tổng số học sinh

Kết quả cuối năm học lớp tôi như sau:

Hoàn thành chương trình lớp học 12/12 em, đạt tỉ lệ 100%

Học sinh đạt thành tích khen thưởng 3/12 em

Tất cả học sinh trong lớp đều có kĩ năng tính toán tốt, có thể vận dụng bốn phép tính cơ bản vào các bài toán như đặt tính, tính giá trị biểu thức và giải toán có lời văn Các em cũng biết đánh giá bài làm của bạn, phát hiện và sửa chữa sai lầm, đồng thời ý thức rèn luyện kĩ năng tính toán cẩn thận, hạn chế lỗi.

Các em đã tích cực chuẩn bị bài ở nhà, luôn sẵn sàng tham gia các yêu cầu của giáo viên đưa ra trong tiết học toán.

Phạm vi áp dụng

Phương pháp này đã được áp dụng thành công tại lớp tôi chủ nhiệm và có thể mở rộng cho toàn bộ khối 3 Tôi cũng có khả năng điều chỉnh nội dung để phù hợp với tình hình thực tế của lớp trong những năm học tiếp theo.

Bài học kinh nghiệm

Rèn kĩ năng tính toán cho học sinh Tiểu học nói chung và cho học sinh lớp

Việc rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh Tiểu học là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với giáo viên Một kế hoạch dạy học hợp lý sẽ giúp học sinh cải thiện khả năng tính toán, từ đó nâng cao chất lượng môn Toán Để đạt được hiệu quả trong quá trình này, tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm quý báu.

- Khi dạy các phép tính, giáo viên nên yêu cầu học sinh phải học thuộc bảng cộng, trừ, nhân, chia.

Hướng dẫn học sinh thực hiện các phép tính một cách tỉ mỉ là rất quan trọng để các em nắm vững kiến thức Việc này giúp các em vận dụng kiến thức một cách chính xác và linh hoạt trong các bài toán.

Để giúp học sinh giải quyết các phép tính phức tạp, cần hướng dẫn họ áp dụng một số phương pháp như nhẩm thầm, ước lượng và suy luận Những phương pháp này sẽ giúp học sinh đưa phép tính về dạng điển hình, từ đó nâng cao khả năng tư duy toán học và sự tự tin trong việc giải quyết bài toán.

GV cần phải chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, làm tốt những công việc sau:

+ Xác định đúng yêu cầu bài toán

+ Tìm các cách tính khác nhau cụ thể hay ngắn gọn đối với từng đối tượng học sinh.

+ Dự kiến những khó khăn sai lầm của học sinh.

- Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần có sự động viên, tuyên dương khuyến khích đúng lúc, kịp thời đối với học sinh.

- Ngoài ra đòi hỏi ở mỗi giáo viên sự kiên trì, linh hoạt và sáng tạo trong mỗi tiết dạy.

- Luôn có sự đổi mới trong các hình thức giảng dạy, giáo dục để tạo hứng thú, mới mẻ đối với học sinh.

- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh; kiên trì vận động phụ huynh tích cực tham gia vào công tác giáo dục học sinh.

Mỗi học sinh đều cần được xem như một đứa con, từ đó giáo dục bằng tình thương và trách nhiệm Những kinh nghiệm này có thể áp dụng cho mọi giáo viên; chỉ cần có lòng yêu nghề, sự say mê và quyết tâm, chắc chắn sẽ đạt được thành công trong sự nghiệp giáo dục.

Kiến nghị

Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã gặp nhiều khó khăn, vì vậy tôi mong muốn cấp trên tạo điều kiện tốt hơn để chúng tôi có thể yên tâm công tác Để hỗ trợ giáo viên trong việc giảng dạy và chủ nhiệm, tôi đề nghị các cấp cần có những hình thức khuyến khích giáo viên hiệu quả hơn.

Các cấp lãnh đạo cần chú trọng đầu tư vào cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên và học sinh trong quá trình học tập.

- Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên môn để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Hỗ trợ giáo viên trong việc giảng dạy học sinh chưa hoàn thành là rất quan trọng Cần đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho nhóm học sinh này Việc áp dụng các phương pháp giảng dạy linh hoạt và cá nhân hóa sẽ giúp cải thiện kết quả học tập, tạo động lực cho học sinh và khuyến khích sự tham gia tích cực của họ trong quá trình học.

Việc giáo dục con em không chỉ là trách nhiệm của giáo viên mà cần sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ từ phía phụ huynh Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ.

Trà Thanh, ngày 20 tháng 03 năm 2021

Tôi xin khẳng định rằng đây là sáng kiến do chính tôi thực hiện, hoàn toàn không sao chép nội dung từ bất kỳ ai khác Nếu có vi phạm, tôi sẵn sàng chịu trách nhiệm theo quy định hiện hành.

Ngày đăng: 14/02/2022, 23:16

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bài tập toán lớp 3 Khác
2. Tạp chí toán hàng kì Khác
3. Tập san giáo dục tiểu học Khác
4. Toán nâng cao Khác
5. Các bài toán hay trên internet Khác
6. Phương pháp dạy học mới lấy học sinh làm trung tâm Khác
7. Tài liệu đổi mới phương pháp dạy học Khác
8. Tài liệu công tác chủ nhiệm lớp giáo viên Tiểu học Khác
9. Thông tư 22/2016-TT BGDĐT về đánh giá học sinh tiểu học Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 5: Học sinh thực hiện tốt giờ truy bài 15 phút đầu giờ - Giáo viên chủ nhiệm trong công tác rèn học sinh tính toán chậm môn Toán lớp 3
Hình 5 Học sinh thực hiện tốt giờ truy bài 15 phút đầu giờ (Trang 15)
Hình 8:  Phụ huynh kèm cho con em mình học ở nhà - Giáo viên chủ nhiệm trong công tác rèn học sinh tính toán chậm môn Toán lớp 3
Hình 8 Phụ huynh kèm cho con em mình học ở nhà (Trang 25)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w