Bối cảnh tình hình phát triển kinh tế tỉnh Tây Ninh
Các chỉ tiêu phản ánh mức độ phát triển kinh tế
2.1.1 Tổng sản phẩm quốc nội và thu nhập bình quân đầu người
2.1.1.1 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Nền kinh tế tỉnh Tây Ninh đã có sự tăng trưởng liên tục và mạnh mẽ trong những năm gần đây, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 14.1%/năm trong giai đoạn 2001-2005, vượt xa mức tăng trưởng GDP bình quân của cả nước là 7.56%/năm Tuy nhiên, tốc độ này vẫn thấp hơn so với tỉnh Bình Dương trong Vùng Đông Nam Bộ, nơi có mức tăng trưởng đạt 15.32% So với giai đoạn 1996-2000, Tây Ninh cũng ghi nhận sự cải thiện khi mức tăng trưởng GDP bình quân của giai đoạn này là 13.5%.
Giai đoạn 2006-2010, tỉnh ghi nhận tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 14.2%, vượt xa mức tăng trưởng GDP bình quân của cả nước là 7.01%/năm Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Nam Bộ, theo sau là tỉnh Bình Dương với 14.1%.
Bảng 1 – GDP tỉnh Tây Ninh qua các năm
Năm GDP (Tr.VND) Tốc độ tăng GDP (%)
(Nguồn: Cục thống kê Tây Ninh (2011), NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2010)
Giá thực tế Giá so sánh
Hình 2 - GDP tỉnh Tây Ninh qua các năm
(Nguồn: Cục thống kê Tây Ninh (2011), NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2010)
Bảng 2 - Tốc độ tăng trưởng GDP của các tỉnh Vùng ĐNB (giá so sánh)
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các số liệu trong NGTK các tỉnh năm 2010)
Mặc dù GDP của Tây Ninh đã có sự gia tăng từ 3,838 tỷ đồng vào năm 2001 lên 12,989 tỷ đồng vào năm 2010, nhưng vẫn đứng cuối cùng trong Vùng Đông Nam Bộ, chỉ hơn Bình Phước So với các tỉnh khác như Bình Dương (16,370 tỷ đồng) và Đồng Nai (15,257 tỷ đồng), khoảng cách về GDP giữa Tây Ninh và các tỉnh trong vùng ngày càng rộng Để cải thiện vị thế kinh tế, Tây Ninh cần duy trì tốc độ phát triển ổn định và bền vững trong những năm tới.
Tây Ninh-Giá thực tế Bình Dương-Giá thực tế
Tây Ninh cần đạt mức tăng trưởng GDP cao hơn Bình Dương từ 1-2% để có thể bắt kịp đà phát triển của tỉnh này trong giai đoạn tới.
Bảng 3 - So sánh GDP trong Vùng ĐNB (giá so sánh) – tỷ đồng
(Nguồn: NGTK các tỉnh năm 2010)
Hình 3 - So sánh GDP Tây Ninh và Bình Dương
(Nguồn: NGTK tỉnh Tây Ninh và Bình Dương năm 2010)
2.1.1.2 GDP bình quân đầu người
Trong giai đoạn 2001-2010, GDP bình quân đầu người của Tây Ninh đã tăng mạnh, đạt 27,1 triệu đồng vào năm 2010 Con số này gấp gần 3 lần so với năm 2005 (9,9 triệu đồng) và hơn 6 lần so với năm 2001 (4,5 triệu đồng).
Từ năm 2002 đến 2010, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của tỉnh Tây Ninh đạt 22.3%, vượt trội so với mức tăng trưởng toàn quốc là 13.1% Điều này chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ và nổi bật của Tây Ninh trong bối cảnh kinh tế chung của đất nước.
Bảng 4 - GDP bình quân đầu người tỉnh Tây Ninh
GDP bình quân đầu người (triệu VNĐ)
Năm Giá thực tế Giá so sánh Tốc độ tăng
Giá thực tế Giá so sánh
(Nguồn: Cục Thống kê Tây Ninh (2011), NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2010)
Vào năm 2010, do sự chênh lệch lớn giữa số liệu ước tính trong NGTK Tây Ninh và thực tế, tác giả đã quyết định sử dụng số liệu từ báo cáo của Chủ tịch UBND Tây Ninh, Nguyễn Văn Nên, trong buổi làm việc với Đoàn công tác Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu vào ngày 11/8/2010.
Tác giả đã thực hiện tính toán dựa trên số liệu GDP bình quân đầu người của Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2010, thông tin được lấy từ trang web của Ngân hàng Thế giới.
GDP/đầu người (Triệu VNĐ)
Giá thực tế Giá so sánh
Hình 4 - GDP bình quân đầu người tỉnh Tây Ninh
(Nguồn: Cục Thống kê Tây Ninh (2011), NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2010)
Theo xu hướng tăng trưởng, GDP bình quân đầu người của tỉnh Tây Ninh đã vượt xa mức bình quân cả nước Năm 1995, GDP bình quân đầu người của Tây Ninh chỉ đạt 185.8 USD, thấp hơn 32% so với mức trung bình cả nước là 273.9 USD Đến năm 2005, con số này tăng lên 493 USD, nhưng vẫn thấp hơn 23.2% so với trung bình cả nước (642 USD) Tuy nhiên, đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Tây Ninh đạt 1390 USD, cao hơn 19% so với mức trung bình cả nước là 1168 USD, cho thấy sự phát triển đáng kể của tỉnh trong giai đoạn 2006-2010.
Trong giai đoạn 2006-2009, tỉnh Tây Ninh luôn có GDP bình quân đầu người thấp nhất trong khu vực Đông Nam Bộ, ngoại trừ tỉnh Bình Phước, mặc dù tốc độ tăng trưởng của Tây Ninh khá cao Đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Tây Ninh đạt 27,1 triệu đồng, cải thiện khoảng cách so với Bình Dương (30,1 triệu đồng) và Đồng Nai (29,5 triệu đồng), đồng thời tiến gần hơn đến mức bình quân của khu vực.
8 Viện Chiến lược phát triển (2011)
Năm 2011, Diễn đàn kinh tế Việt Nam ghi nhận mức thu nhập bình quân của ĐNB đạt 33 triệu đồng, không bao gồm tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do ảnh hưởng của ngành dầu khí Trong khi đó, mức thu nhập bình quân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ước đạt 31,4 triệu đồng.
Mặc dù GDP bình quân đầu người của Tây Ninh không thấp hơn nhiều so với các tỉnh lân cận, nhưng giá trị tuyệt đối của GDP theo giá thực tế lại có sự chênh lệch lớn Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ tăng dân số của Tây Ninh thấp nhất trong khu vực, chỉ khoảng 0.7% trong giai đoạn 2007-2010, trong khi các tỉnh như Bình Dương và Đồng Nai có tốc độ tăng dân số lần lượt là 7.7% và 2.6%.
Bảng 5 – GDP bình quân đầu người với các tỉnh khu vực ĐNB
GDP/đầu người (triệu VND/người) - theo giá thực tế
(Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu NGTK các tỉnh)
Bảng 6 – Tốc độ tăng dân số các tỉnh khu vực ĐNB
Tốc độ tăng dân số
(Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu NGTK các tỉnh)
11 Tác giả tính bình quân từ GDP bình quân đầu người năm 2010 của 5 tỉnh trong khu vực ĐNB (không kể BR- VT)
12 Tác giả tính toán từ số liệu NGTK các tỉnh và tính bình quân cho vùng Đông Nam bộ
Trong giai đoạn 2001-2010, tỉnh Tây Ninh đã đạt được những bước tiến đáng kể về GDP và GDP bình quân đầu người Tuy nhiên, khoảng cách phát triển so với các tỉnh, thành phố năng động trong khu vực Đông Nam Bộ như TPHCM, Đồng Nai và Bình Dương vẫn còn rất lớn.
So với Bình Dương, khoảng cách chênh lệch về GDP giữa Tây Ninh và Bình Dương đã gia tăng sau 10 năm phát triển Nếu Tây Ninh duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn Bình Dương 1% mỗi năm, thì phải mất hơn 20 năm nữa Tây Ninh mới có thể theo kịp sự phát triển của Bình Dương.
2.1.2.1 Cơ cấu kinh tế theo khu vực kinh tế
Cơ cấu kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch đúng hướng, tuy nhiên vẫn chưa đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra Đặc biệt, tỷ trọng ngành nông nghiệp vẫn chiếm ưu thế lớn trong tổng thể cơ cấu kinh tế.
Thực trạng năng lực cạnh tranh tỉnh Tây Ninh
Các yếu tố lợi thế tự nhiên của địa phương
3.1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Tây Ninh, nằm ở biên giới Việt Nam - Campuchia với chiều dài 240 km, có hai cửa khẩu quốc tế là Mộc Bài và Xa Mát cùng với bốn cửa khẩu chính và nhiều cửa khẩu phụ Tỉnh này giáp ranh với Bình Dương, Bình Phước, TP.HCM và Long An Thị xã Tây Ninh cách TP.HCM khoảng 99 km về phía Tây Bắc theo quốc lộ 22.
Tây Ninh đóng vai trò quan trọng như một cửa ngõ giao lưu quốc tế giữa Việt Nam và các nước láng giềng như Campuchia, Thái Lan Tỉnh này cũng là điểm kết nối thiết yếu trong việc trao đổi hàng hóa giữa các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh kinh tế trọng điểm phía Nam.
Khí hậu Tây Ninh ôn hòa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô Nơi đây có chế độ bức xạ phong phú, nhiệt độ cao và ổn định, đồng thời nằm sâu trong lục địa, ít bị ảnh hưởng bởi bão và các yếu tố thiên nhiên bất lợi khác.
Có 05 loại đất chính với tổng diện tích 402,817 ha; trong đó nhóm đất xám chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 85.63%, phân bố ở địa hình cao; đặc điểm chung là thành phần cơ giới nhẹ, dễ thoát nước, phù hợp với nhiều loại cây trồng ngắn ngày, dài ngày, lâu năm Đây là một lợi thế để phát triển vùng nguyên liệu cây công nghiệp như cao su, mía, mì, điều…Nhóm đất đỏ vàng cũng đặc biệt phù hợp với cây công nghiệp, trồng rừng nhưng chiếm tỷ trọng không lớn, khoảng 6,850 ha, hay 1.7%, được phân bố vùng đồi núi ở huyện Tân Biên, Tân Châu.
Tây Ninh sở hữu tiềm năng đất đai phong phú, có khả năng cung cấp nguyên liệu bền vững cho ngành công nghiệp chế biến nông sản Tuy nhiên, nhiều khu vực đất phù hợp cho trồng cây công nghiệp giá trị cao vẫn đang bị hoang hóa và lãng phí, chưa được khai thác hoặc quy hoạch một cách hợp lý.
Nguồn nước mặt chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động của hai con sông lớn là Sông Sài Gòn và Sông Vàm Cỏ Với độ dốc lòng sông nhỏ, cả hai sông này có khả năng gây lũ chậm.
Hồ chứa nước Dầu Tiếng, nằm trên thượng nguồn sông Sài Gòn, là công trình thủy lợi lớn nhất Việt Nam với dung tích 1,5 tỷ m³ và diện tích 27.000 ha, trong đó 20.000 ha thuộc huyện Dương Minh Châu, Tây Ninh Hồ Dầu Tiếng không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước mặt và nước ngầm mà còn tác động đến môi trường sinh thái trong khu vực Bên cạnh đó, khu vực này còn có nhiều ao, hồ, sông, rạch tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành thủy sản, một lĩnh vực chưa được khai thác đầy đủ.
Nguồn nước ngầm trên địa bàn được phân bố rộng rãi, với lưu lượng lớn và chất lượng tốt Ngay cả trong mùa khô, nước ngầm vẫn có thể được khai thác để đảm bảo cung cấp đủ cho sinh hoạt và sản xuất.
Tây Ninh sở hữu nguồn nước mặt và nước ngầm phong phú với chất lượng tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, đặc biệt là ngành thủy sản Bên cạnh đó, nguồn nước tại Tây Ninh cũng đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất công nghiệp và sinh hoạt Hệ thống cấp nước hiện tại có tổng công suất thiết kế khoảng 12,000 m3/ngày đêm.
Tây Ninh sở hữu nhiều khoáng sản phi kim loại như than bùn, đá vôi, cuội, sỏi, cát, sét và đá xây dựng Trong đó, than bùn có trữ lượng 16 triệu tấn, phân bố dọc sông Vàm Cỏ Đông, chất lượng cao, phục vụ sản xuất phân vi sinh cho nông nghiệp Đá vôi có trữ lượng khoảng 100 triệu tấn, trong khi cuội, sỏi và cát có khoảng 10 triệu m3 Đất sét để sản xuất gạch ngói có trữ lượng 16 triệu m3, phân bố rộng rãi trong tỉnh Đá laterit và đá xây dựng có trữ lượng lần lượt khoảng 4 triệu m3 và 1.3 – 1.4 triệu m3, chủ yếu tập trung ở núi Phụng và núi Bà Đen Với đặc điểm tự nhiên thuận lợi, Tây Ninh có tiềm năng phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, nhưng cần khai thác hiệu quả lợi thế này để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh ở cấp độ địa phương
3.2.1 Cơ sở hạ tầng xã hội
3.2.1.1 Lao động và chất lượng nguồn lao động
Dân số tỉnh Tây Ninh năm 2010 đạt 1,075,341 người, với cơ cấu dân số trẻ Nhóm tuổi từ 0-14 chiếm 23.8%, trong khi tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ngày càng tăng, từ 59.8% vào năm 2001 lên 62.3% vào năm 2005.
Năm 2010, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động đạt 68.1%, trong khi Bình Dương là 77%, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực Tuy nhiên, cơ cấu dân số trẻ cũng đặt ra thách thức lớn do số lượng người bước vào độ tuổi lao động hàng năm cao Tỉnh Tây Ninh cần chú trọng giải quyết vấn đề việc làm, xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là đào tạo nghề.
Bảng 10 - Quy mô dân số và lực lượng LĐ tỉnh Tây Ninh (giai đoạn 2005-2010)
I Dân số từ 15 tuổi trở lên 79.1% 79.4% 80.0% 76.2% 76.1% -0.08%
1 Số người hoạt động kinh tế 58.2% 58.6% 58.3% 57.7% 57.6% 0.13%
Có việc làm thường xuyên 57.3% 57.3% 57.5% 56.9% 56.8% 0.20%
1.2 Không có việc làm thường xuyên 0.9% 1.3% 0.8% 0.8% 0.9% -0.07%
2 Số người không hoạt động kinh tế 20.9% 20.9% 21.7% 18.5% 18.5% -0.22%
II Lực lượng trong độ tuổi
III Lực lượng LĐ đang LV 57.3% 57.3% 57.5% 56.9% 56.8% 0.20%
(Nguồn: Cục Thống kê Tây Ninh (2011), NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2010)
Từ năm 1999 đến nay, chất lượng nguồn nhân lực tại Tây Ninh đã được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp Cụ thể, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo và dạy nghề giảm từ 73,2% vào năm 1999 xuống còn 55% vào năm 2010 Ngành nông nghiệp vẫn giữ tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo cao.
44% qua đào tạo cao nhất (63.04%); tiếp đến là công nghiệp (50.02%); thấp nhất là ngành dịch vụ (45.85%).
Cơ cấu giữa các cấp đào tạo hiện nay còn bất hợp lý, dẫn đến trình độ kỹ năng của lao động chưa đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp của tỉnh Cụ thể, năm 2010, tỷ lệ người tốt nghiệp cao đẳng và đại học chỉ đạt 6.74%, trong khi tỷ lệ tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp là 3.63% Bên cạnh đó, 5.07% người tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng nghề và 17.89% có trình độ sơ cấp nghề.
Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn đã có sự cải thiện rõ rệt, với tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học cơ sở và trung tâm giáo dục thường xuyên ngày càng tăng Đồng thời, tỷ lệ người không biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học cũng giảm dần qua các năm Cụ thể, vào năm 1999, tỷ lệ lao động có trình độ tốt nghiệp tiểu học chiếm 31.4%.
Tính đến năm 2010, tỷ lệ dân số có trình độ học vấn tại Tây Ninh cho thấy sự gia tăng đáng kể: trình độ tiểu học chiếm 23.8%, trình độ THCS đạt 33.21% (tăng từ 2010 là 43.87%), và trình độ THPT chiếm 15.91% (tăng từ 2010 là 27.64%) Tuy nhiên, tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên tại tỉnh Tây Ninh chỉ đạt 92.81%, thấp hơn mức trung bình của vùng Đông Nam Bộ là 96.3%.
Hình 10 - Trình độ học vấn của nhân lực Tây Ninh năm 2010
(Nguồn: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Tây Ninh (2011), Đề án Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh Tây Ninh thời kỳ 2011-2020)
Chất lượng đội ngũ lao động ngày càng được cải thiện, nhưng tốc độ phát triển vẫn chậm so với các nước trong khu vực Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo vẫn còn cao, đặc biệt là đối với công nhân kỹ thuật.
Chưa biết chữ Chưa tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp tiểu học Tốt nghiệp trung học cơ sở Tốt nghiệp trung học phổ thông
Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam còn rất thấp, chỉ đạt 4% vào năm 2010, với sự gia tăng chủ yếu ở trình độ sơ cấp nghề Cụ thể, tỷ lệ lao động sơ cấp nghề tăng từ 8.67% năm 2005 lên 17.89% năm 2010, trong đó khu vực công nghiệp và dịch vụ có sự gia tăng đáng kể Tuy nhiên, lao động có trình độ trung cấp, cao đẳng nghề, cao đẳng, đại học và trên đại học lại có mức tăng trưởng rất hạn chế Thực trạng này phản ánh trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn yếu kém, chủ yếu tập trung vào các dự án sử dụng lao động phổ thông.
Nếu không kịp thời khắc phục xu hướng này, tỉnh Tây Ninh sẽ gặp khó khăn trong phát triển kinh tế trong tương lai, dẫn đến tình trạng “thừa nhưng vẫn thiếu lao động” kéo dài Điều này sẽ khiến các dự án đầu tư lạc hậu tồn tại, hạn chế giá trị gia tăng cho nền kinh tế Với chất lượng và trình độ hiện tại, việc làm chủ công nghệ tiên tiến và phương tiện kỹ thuật sẽ trở nên rất khó khăn.
3.2.1.2 Đào tạo và dạy nghề
Tỉnh hiện chỉ có một trường Cao đẳng Sư phạm và chưa có trường đại học, trong khi các chương trình đại học tại chức, từ xa và liên kết đều có chất lượng kém, dẫn đến đầu ra không đáp ứng được yêu cầu nhân lực cho nền kinh tế Ngoài ra, tỉnh có hai trường Trung cấp chuyên nghiệp (Kỹ thuật và Y tế) và mạng lưới dạy nghề tính đến năm 2010 có 198 cơ sở, chủ yếu quy mô nhỏ và không chuyên nghiệp Trong số này, có 03 trường trung cấp nghề và 03 trung tâm dạy nghề, trong đó một trung tâm chưa hoạt động do thiếu đầu tư trang thiết bị Mặc dù cơ sở công lập chỉ chiếm 8.58%, nhưng vẫn đóng vai trò chủ lực trong dạy nghề chính quy Với tình hình hiện tại, việc đào tạo nghề khó có thể đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.
Trong giai đoạn 2006-2010, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo và dạy nghề trung bình đạt 831 tỷ đồng mỗi năm, tuy nhiên, tỷ lệ chi cho đầu tư cơ sở vật chất và đào tạo chuyên nghiệp chỉ chiếm 2.8% tổng vốn đầu tư.
19 Sở Lao động - Thương Binh và Xã hội tỉnh Tây Ninh (2011, tr 18-30)
Chất lượng đội ngũ giáo viên tại các trường Trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề trong tỉnh hiện có 129 giáo viên chính thức, bên cạnh đó còn có giáo viên thỉnh giảng và hợp đồng ngắn hạn Tỷ lệ học sinh/giáo viên khoảng 33, dẫn đến tình trạng thiếu hụt và không ổn định về số lượng giáo viên, đồng thời kỹ năng thực hành của giáo viên cũng yếu kém và ít có cơ hội nâng cao trình độ Về trình độ chuyên môn, chỉ có 3.1% giáo viên có trình độ thạc sĩ, 90.7% có trình độ đại học, và 6.2% có trình độ cao đẳng trở xuống.
Cơ cấu lao động và chất lượng nguồn lao động là vấn đề quan trọng đối với sự phát triển của các tỉnh thành trên toàn quốc Tỉnh Tây Ninh hiện đang đối mặt với thách thức về cơ cấu lao động, cần có những giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương.
Cơ cấu vàng hiện tại là một lợi thế lớn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút các dự án FDI có trình độ công nghệ cao Tuy nhiên, với chất lượng lao động còn hạn chế và mạng lưới đào tạo nghề chưa đầy đủ, việc cải thiện chất lượng lao động để đáp ứng nhu cầu trong thời gian tới sẽ gặp nhiều khó khăn Do đó, tỉnh Tây Ninh cần nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn lao động và triển khai các chính sách phù hợp để phát huy lợi thế này, đồng thời thu hút lao động trình độ cao từ các tỉnh lân cận nhằm phá vỡ vòng tròn cung cầu lao động trình độ thấp hiện nay.
Tổng thu ngân sách của tỉnh đã liên tục tăng trưởng qua các năm, với tốc độ tăng trung bình hàng năm đạt 17.5% trong giai đoạn 2007-2010, trong đó thu trên địa bàn tỉnh tăng 24.6%/năm Mặc dù cơ cấu ngân sách vẫn phụ thuộc vào trợ cấp từ Trung ương, tỷ trọng này đã giảm từ 30% vào năm 2007-2008 xuống còn 17% vào năm 2009-2010 Tuy nhiên, thu ngân sách trên địa bàn tỉnh vẫn chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng nguồn thu ngân sách, với tỷ lệ chỉ 57% vào năm 2009, so với 81% của Bình Dương.
Cơ cấu thu ngân sách (tỷ đồng)
Thu trên địa bàn Thu bổ sung từ NS cấp trên Thu khác
Bảng 11 – Cơ cấu thu ngân sách 2007-2010 (tỷ đồng)
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ
Thu bổ sung từ NS cấp trên 939 30% 1,156 31% 645 17% 862 17%
(Nguồn: Cục Thống kê Tây Ninh (2011), NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2010)
Hình 11 – Cơ cấu thu ngân sách
(Nguồn: Cục Thống kê Tây Ninh (2011), NGTK tỉnh Tây Ninh năm 2010)
Bảng 12 – So sánh cơ cấu thu ngân sách 2009 (tỷ đồng)
Năm 2009 Tây Ninh Bình Dương
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Tổng thu ngân sách địa phương (triệu đồng) 3,904 100% 17,673 100%
Thu bổ sung từ ngân sách Trung ương 645 17% 262 1%
Huy động đầu tư theo K3, Đ8 Luật NSNN 210 5% 0 0%
Thu kết dư ngân sách 128 3% 2,508 14%
Thu chuyển nguồn ngân sách năm trước 700 18% 685 4%
(Nguồn: Bộ Tài chính (2011), Quyết toán thu chi ngân sách năm 2009 của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương)
Bảng 13 – Cơ cấu thu ngân sách trên địa bàn Tây Ninh (tỷ đồng)
TỔNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I Thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước 83.8% 59.7% 63.3% 63.5% 66.2%
Thu từ DNNN trung ương 8.2% 4.6% 4.8% 5.0% 6.5%
Thu từ DNNN địa phương 33.8% 7.4% 7.0% 4.5% 6.7%
Thu từ DN có vốn đầu tư nước ngoài 5.3% 4.0% 6.9% 4.7% 4.6% Thu từ khu vực ngoài quốc doanh 13.0% 15.9% 17.1% 16.9% 20.2% Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 3.4% 2.8% 3.8% 5.7% 6.4%
II Thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế TTĐB, VAT hàng NK do Hải quan thu
III Các khoản thu huy động để lại chi quản lý qua NSNN 29.6% 27.6%
Thu xổ số kiến thiết 24.6% 24.2%
(Nguồn: tác giả tổng hợp từ NGTK Tây Ninh năm 2010 và báo cáo Quyết toán ngân sách năm 2009, 2010 của tỉnh Tây Ninh)
Đánh giá và gợi ý chính sách 40
Đánh giá năng lực cạnh tranh tỉnh Tây Ninh
Tỉnh Tây Ninh sở hữu lợi thế lớn về điều kiện tự nhiên, nằm trong vùng Đông Nam Bộ với vị trí địa lý thuận lợi Đây là khu vực có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ, kết nối với các trục giao thông quan trọng quốc tế và khu vực Tỉnh có khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, góp phần vào nhịp độ tăng trưởng cao nhất cả nước Những thành tựu phát triển đã đạt được giúp Tây Ninh có lợi thế cạnh tranh hàng đầu Tây Ninh cũng tiếp giáp với các tỉnh thành phát triển nhanh như Bình Dương và Long An.
Tây Ninh, đặc biệt là huyện Trảng Bàng, chỉ cách trung tâm TPHCM 50km và cách sân bay Tân Sơn Nhất cùng các cảng quốc tế, nội địa từ 40-80km Với 240km đường biên giới giáp Campuchia, Tây Ninh đóng vai trò là cửa ngõ quan trọng kết nối các nền kinh tế xuyên Á.
Khí hậu ôn hòa và ổn định của khu vực này giúp hạn chế tác động của thiên tai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp Tài nguyên đất và nước phong phú rất phù hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp ngắn và dài ngày như cao su, mía, và mì Đây là một lợi thế rõ rệt về tài nguyên thiên nhiên so với các tỉnh lân cận.
Tỉnh Tây Ninh sở hữu cơ cấu dân số "vàng" với 68% dân số trong độ tuổi lao động vào năm 2010 Đặc biệt, nhóm tuổi từ 0-14 chiếm 23,8%, cho thấy tiềm năng duy trì lực lượng lao động cao trong tương lai.
Hiện tại tỉnh có nhiều điểm yếu cần khắc phục nếu muốn đạt được mục tiêu trong giai đoạn tới, tập trung vào 3 điểm yếu cốt lõi sau:
Chất lượng nguồn lao động tại Tây Ninh tuy dồi dào nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nhanh và mạnh của tỉnh Mặc dù thống kê cho thấy Tây Ninh đang thừa nguồn lao động, nhưng chất lượng lao động vẫn còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng phát triển bền vững của địa phương.
LĐ nhưng hầu hết các DN đều gặp khó khăn khi tuyển dụng LĐ địa phương, nhất là những
Lao động có tay nghề và trình độ đáp ứng yêu cầu công việc đang thiếu hụt, đặc biệt là trong việc thu hút lao động ngoại tỉnh, nhất là lao động trình độ cao do chính sách nhà ở và dịch vụ xã hội chưa phát triển Mạng lưới đào tạo nghề chưa được chú trọng đúng mức, dẫn đến chất lượng đào tạo nghề không đáp ứng yêu cầu do thiếu trang thiết bị và máy móc tiên tiến, cùng với đội ngũ giảng dạy còn hạn chế về số lượng và trình độ Đây là một trong những rào cản lớn trong việc thu hút các dự án quy mô lớn và công nghệ cao vào tỉnh, vì với chất lượng lao động hiện tại, việc làm chủ các phương tiện kỹ thuật và tiếp thu công nghệ tiên tiến trở nên rất khó khăn.
Cơ sở hạ tầng giao thông tại tỉnh Tây Ninh hiện đang gặp nhiều hạn chế do sự đầu tư chưa đồng bộ và không đáp ứng nhu cầu phát triển Hai tuyến quốc lộ 22 và 22B có quy mô nhỏ, không đủ để phục vụ cho nhu cầu vận chuyển ngày càng tăng Các tuyến đường huyện lộ và tỉnh lộ kết nối đến các khu công nghiệp vẫn chưa được nâng cấp, gây khó khăn cho giao thương và thu hút đầu tư Trục đường Hồ Chí Minh đi qua tỉnh đang trong quá trình xây dựng nhưng tiến độ chậm do thiếu vốn Bên cạnh đó, việc xây dựng và nâng cấp các cảng sông và nạo vét sông Vàm Cỏ vẫn chỉ nằm trong quy hoạch, cho thấy đây là một yếu tố cốt lõi cần được cải thiện để thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh.
Tây Ninh có tiềm năng phát triển cụm ngành nhờ vào thổ nhưỡng thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp, phục vụ cho ngành chế biến Tuy nhiên, tỉnh hiện chưa hình thành cụm ngành nào đúng nghĩa, dẫn đến sự phát triển rời rạc và giá trị gia tăng thấp từ sản phẩm sơ chế Việc xây dựng cụm ngành sẽ giúp tận dụng hiệu quả lợi thế tự nhiên, nâng cao năng suất, gia tăng giá trị sản phẩm và góp phần chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu kinh tế tỉnh Tây Ninh.
Tỉnh Tây Ninh còn nhiều tiềm năng phát triển kinh tế mạnh mẽ do chưa khai thác hết lợi thế sẵn có Ngành công nghiệp chế biến chưa phát triển đúng mức, dẫn đến giá trị gia tăng thấp Mặc dù có vị trí địa lý thuận lợi để phát triển khu công nghiệp, nhưng việc thu hút đầu tư vẫn chưa được chú trọng Nguồn lao động trẻ dồi dào nhưng chất lượng còn hạn chế, giao thương với Campuchia chưa đáng kể, và liên kết vùng còn yếu kém.
Kinh tế thế giới và Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó tỉnh Tây Ninh cũng không phải là ngoại lệ Tình trạng giải thể, phá sản và thu hẹp quy mô sản xuất ngày càng gia tăng, dẫn đến tốc độ thu hút đầu tư, đặc biệt là từ các nhà đầu tư FDI, giảm đáng kể Do đó, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa trong giai đoạn 2011 trở đi trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
2020 là một thách thức rất lớn của tỉnh.
Tây Ninh đang đối mặt với thách thức cạnh tranh khốc liệt từ các tỉnh lân cận, nơi có điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu hút các dự án lớn và công nghệ cao Chính sách thu hút đầu tư và sự phát triển nhanh chóng của các khu công nghiệp tại Tây Ninh cần được cải thiện để tạo ra giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế.
Tỉnh cần xây dựng chính sách phù hợp nhằm tận dụng tối đa lợi thế hiện có và khắc phục các hạn chế, rào cản về năng lực cạnh tranh (NLCT) để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững trong giai đoạn tới.
Nhận dạng nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh tỉnh Tây Ninh
Dựa trên kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh (NLCT) và mục tiêu phát triển của tỉnh Tây Ninh, tác giả đã xác định ba nhân tố cốt lõi quyết định đến NLCT hiện tại của tỉnh, bao gồm các yếu tố trọng tâm và nền tảng cho các nhân tố khác.
4.2.1 Chất lượng nguồn LĐ (cải thiện cả hai nhóm yếu tố bất lợi lớn về chất lượng môi trường kinh doanh và hạ tầng xã hội)
Cải thiện chất lượng nguồn lao động sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư mới, đặc biệt là các dự án công nghệ cao Điều này không chỉ khuyến khích mở rộng các dự án hiện tại mà còn nâng cao khả năng ứng dụng khoa học công nghệ trong doanh nghiệp Hơn nữa, việc phát triển các khu, cụm công nghiệp sẽ tận dụng lợi thế về vị trí địa lý, tăng năng suất lao động và góp phần vào sự gia tăng GDP cũng như chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu kinh tế.
4.2.2 Cơ sở hạ tầng giao thông (cải thiện yếu tố bất lợi lớn về hạ tầng kỹ thuật và tận dụng lợi thế từ yếu tố vị trí địa lý)
Hiện trạng giao thông hạn chế đang cản trở sự cải thiện năng lực cạnh tranh của tỉnh, vì hạ tầng giao thông là yếu tố then chốt cho sự phát triển địa phương Theo quy hoạch tổng thể giai đoạn 2010-2020, trung ương sẽ đầu tư nâng cấp quốc lộ 22 và mở rộng quốc lộ 14 cùng 14C, kết nối Bình Phước với Tây Ninh, nhằm tăng cường kết nối với khu vực Tây.
Tỉnh Tây Ninh đang tiếp tục phát triển hạ tầng giao thông với việc xây dựng tuyến đường HCM, đoạn qua Tây Ninh, cùng với đầu tư cho tuyến đường sắt nhẹ và cao tốc từ TPHCM đến Mộc Bài Bên cạnh đó, tỉnh cũng ưu tiên nâng cấp các tuyến tỉnh lộ như 782, 784, 786, 787, 794, 795, 799, cũng như các đường vành đai biên giới, đê bao tuyến đường sông Vàm Cỏ Đông và nhiều tuyến đường khác Những dự án này không chỉ cải thiện hệ thống giao thông mà còn giúp Tây Ninh chuyển từ bất lợi thành lợi thế lớn trong phát triển kinh tế - xã hội.
4.2.3 Phát triển cụm ngành sản phẩm từ cây công nghiệp (tận dụng yếu tố lợi thế về vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên)
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Tây Ninh hiện đạt 26.8%, và mục tiêu giảm xuống còn 11-12% vào năm 2020 để trở thành tỉnh công nghiệp là một thách thức lớn Tây Ninh có lợi thế trong phát triển cây công nghiệp, vì vậy việc hình thành các cụm ngành chế biến sản phẩm từ cây công nghiệp không chỉ gia tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm mà còn tận dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu, tăng giá trị sản xuất công nghiệp và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng mục tiêu của tỉnh.
Gợi ý chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh tỉnh Tây Ninh
Bài viết đề xuất các chính sách cho chính quyền tỉnh Tây Ninh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh (NLCT) và duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững trong giai đoạn 2011-2020 Tác giả đã xác định các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức, đồng thời nhận diện những nhân tố cốt lõi quyết định đến NLCT của tỉnh.
4.3.1 Nâng cao chất lượng nguồn lao động
Nguồn lao động được phân chia theo địa phương thành hai loại: lao động địa phương và lao động nhập cư Ngoài ra, theo khu vực làm việc, nguồn lao động cũng được chia thành lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp của nhà nước và lao động trong các doanh nghiệp.
4.3.1.1 Đối với LĐ nhập cư làm việc trong khu vực hành chính sự nghiệp của tỉnh
Mặc dù tỉnh Tây Ninh đã triển khai chính sách thu hút nhân tài nhằm khuyến khích nhân lực có kinh nghiệm và trình độ cao, nhưng hiệu quả không đạt như mong đợi do nguồn nhân lực này có nhiều cơ hội việc làm tốt hơn và e ngại việc chuyển đến sinh sống tại Tây Ninh Do đó, tác giả đề xuất tỉnh nên khai thác nguồn lao động tại địa phương, đặc biệt là các cán bộ, công chức có tiềm năng, thông qua việc hỗ trợ đào tạo sau đại học trong nước hoặc nước ngoài Bên cạnh đó, cần thống kê các học sinh, sinh viên có kết quả học tập tốt và chuyên ngành phù hợp, nhằm hỗ trợ đào tạo và cam kết làm việc tại địa phương Giải pháp này không chỉ nâng cao chất lượng lao động trong các cơ quan nhà nước mà còn giúp giảm tình trạng "chảy máu chất xám" tại Tây Ninh.
4.3.1.2 Đối với LĐ nhập cư làm việc trong các DN Để thu hút những LĐ ngoại tỉnh có trình độ, tay nghề đến làm việc, ngoài mức thu nhập hấp dẫn của DN để cạnh tranh với các tỉnh lân cận, tỉnh cần hỗ trợ về hạ tầng dịch vụ lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, trường học, bệnh viện…gần những nơi tập trung nhiều DN như khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế để tạo môi trường sống ổn định cho LĐ nhập cư và LĐ địa phương ở xa.
4.3.1.3 Đối với LĐ địa phương làm việc trong các DN: Để nâng cao chất lượng lực lượng này, tỉnh cần có chính sách về đào tạo, dạy nghề gắn với dự báo về nhu cầu LĐ và việc làm từ các DN Chính sách cụ thể gợi ý như sau:
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần mở rộng mạng lưới đào tạo và dạy nghề thông qua các hình thức công lập, tư nhân và hợp tác công tư Đồng thời, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở sản xuất và doanh nghiệp thành lập cơ sở đào tạo nghề, tận dụng máy móc và trang thiết bị hiện có, nhằm đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề và kỹ thuật phù hợp với công nghệ sản xuất cũng như thị trường lao động.
Cải thiện chất lượng đội ngũ giảng dạy là cần thiết, tỉnh cần quy định tỷ lệ cụ thể về trình độ của giảng viên trong cả hệ thống công lập và tư nhân Đồng thời, cần hỗ trợ nâng cao chất lượng giảng viên hoặc thay thế những người không đáp ứng yêu cầu về trình độ.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, tỉnh cần đầu tư nâng cấp trang thiết bị, máy móc và cơ sở hạ tầng cho các cơ sở giáo dục, đồng thời quy định cụ thể về cấp phép và kiểm tra chất lượng đầu ra Bên cạnh đó, việc áp dụng mô hình vừa dạy nghề vừa dạy văn hóa cho học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông cơ sở là cần thiết, giúp học sinh đạt được trình độ trung học và tay nghề phù hợp với yêu cầu công việc Cần có chính sách hỗ trợ cho lao động nông nghiệp, nông thôn dưới 35 tuổi để họ có cơ hội học nghề phi nông nghiệp, từ đó dễ dàng chuyển đổi nghề nghiệp.
Thứ năm, thành lập một "Trung tâm thông tin và dự báo thị trường LĐ” trực thuộc Sở LĐ –
Trung tâm TB và XH có nhiệm vụ chính là cập nhật thông tin và dự báo nhu cầu việc làm, ngành nghề, cùng yêu cầu trình độ và tiêu chuẩn lao động từ các khu vực kinh tế Kế hoạch đào tạo lao động sẽ được xây dựng dựa trên thông tin mà trung tâm cung cấp và phân bổ cho từng cơ sở Đồng thời, trung tâm còn cung cấp thông tin cho các đơn vị kinh tế về nguồn lao động của tỉnh và có thể hoạt động như một sàn giao dịch việc làm, tạo thêm nguồn thu cho hoạt động của mình.
Mở rộng mạng lưới giới thiệu việc làm, đặc biệt tại khu vực nông thôn, là một giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Cần ưu tiên tăng chi ngân sách cho giáo dục, đào tạo và dạy nghề, vì tỷ lệ hiện tại còn rất thấp Đồng thời, tỉnh cần huy động thêm nguồn vốn ngoài ngân sách như ODA, FDI, hợp tác quốc tế, vốn từ doanh nghiệp và sự đóng góp của người dân thông qua xã hội hóa, nhằm đảm bảo đủ vốn cho chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
4.3.2 Nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông
Tỉnh có thể mở rộng kết nối giao thông với các tỉnh lân cận để tận dụng hạ tầng giao thông, bao gồm việc kết nối đến đường vành đai 4 để nhanh chóng tiếp cận các tỉnh trong khu vực Đông Nam Bộ và cảng Hiệp Phước Bên cạnh đó, kết nối đường Mỹ Phước - Tân Vạn (Bình Dương) với đường Vành đai 3, cũng như kết nối đường Thủ Dầu Một – Long Thành sẽ giúp rút ngắn khoảng cách đến sân bay quốc tế Long Thành và cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu Những kết nối này sẽ tạo thuận lợi cho giao thương và phát triển vùng, liên vùng.
Việc nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông đòi hỏi một nguồn vốn lớn, do đó cần thiết lập thứ tự ưu tiên Tác giả đề xuất thứ tự ưu tiên dựa trên mức độ quan trọng và cấp thiết trong từng giai đoạn.
Mở rộng các tuyến đường huyết mạch dẫn đến các khu công nghiệp (KCN) không nằm trên trục quốc lộ 22 và 22B, như KCN Bourbon An Hòa, KCN Phước Đông – Bời Lời và KCN Chà Là, là cần thiết để nâng cao khả năng vận chuyển hàng hóa Hiện tại, các tuyến đường này còn nhỏ hẹp, trong khi tỷ lệ lắp đầy các KCN vẫn thấp Khi tỷ lệ lắp đầy tăng lên, nhu cầu vận chuyển sẽ không được đáp ứng nếu không cải thiện hạ tầng Ngoài ra, việc xây dựng cảng sông gần các KCN và vùng sản xuất hàng hóa tập trung sẽ tận dụng lợi thế giao thông đường thủy của tỉnh, kết nối nhanh chóng với các cảng sông, biển quốc tế và các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư lớn.
Tỉnh có thể huy động nguồn vốn đầu tư cho các công trình hạ tầng khu công nghiệp thông qua hình thức “đổi đất lấy hạ tầng” Phương pháp này cho phép cấn trừ vào tiền thuê đất của nhà đầu tư, từ đó giảm bớt gánh nặng chi tiêu trực tiếp từ ngân sách tỉnh.