Nguyên tắc cơ bản
Mục đích của khảo sát toàn diện về tình trạng kỹ thuật của nhà hoặc công trình là xác định tình trạng kỹ thuật thực tế và các thành phần của nó Khảo sát này cung cấp các đánh giá định lượng về chất lượng kết cấu như độ bền và nhiệt trở, đồng thời xem xét những thay đổi theo thời gian Qua đó, khảo sát giúp xác định thành phần và khối lượng công việc sửa chữa lớn hoặc cải tạo cần thiết.
Khi thực hiện khảo sát toàn diện về tình trạng kỹ thuật của nhà hoặc công trình, thông tin thu thập cần phải đầy đủ để phục vụ cho việc thiết kế các phương án cải tạo hoặc sửa chữa lớn.
Khi khảo sát tình trạng kỹ thuật của nhà hay công trình, cần thu thập thông tin đầy đủ để đưa ra quyết định có căn cứ về khả năng tiếp tục sử dụng an toàn Nếu công trình đang trong trạng thái bình thường và còn khả năng sử dụng, thông tin thu thập phải đảm bảo tính chính xác Trong trường hợp công trình gặp hạn chế trong sử dụng hoặc bị hư hỏng, thông tin cần thiết phải đủ để lập kế hoạch thiết kế khôi phục hoặc gia cường kết cấu một cách hiệu quả.
Khi khảo sát tình trạng kỹ thuật của nhà và công trình, cần xác định rõ các đối tượng nghiên cứu dựa trên nhiệm vụ kỹ thuật Các đối tượng này bao gồm đất nền, móng, đài và dầm móng.
Sàn nhà và mái (bao gồm cả dầm, vòm, vì kèo và xà đỡ vì kèo, tấm ) và những cấu kiện khác ;
Ban công, cửa sổ lồi, cầu thang, dầm cầu trục và giàn;
Các kết cấu liên kết và độ cứng của các cấu kiện, khớp và nút, cũng như các liên kết giữa các cấu trúc, đều đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính ổn định và hiệu suất của công trình Việc thiết kế cách liên kết và xác định kích thước của gối tựa là yếu tố then chốt trong quá trình xây dựng, giúp tối ưu hóa khả năng chịu lực và độ bền của các cấu kiện.
Các thành phần kết cấu của nhà, như đã đề cập trong mục 5.3.5, bao gồm sự tương tác đồng thời của các cấu kiện được chế tạo từ những vật liệu khác nhau, điều này thể hiện rõ nét đặc trưng của những ngôi nhà cũ.
Khi xem xét tình trạng của các bộ phận kết cấu như vậy cần theo các yêu cầu tương ứng nêu tại các điều 5.3.1 - 5.3.4.
Khi đánh giá tình trạng kỹ thuật của các kết cấu chịu lực, nhà và công trình, bao gồm cả đất nền, cần dựa trên kết quả khảo sát và các tính toán kiểm tra phù hợp với quy định Các đánh giá này phân loại kết cấu, nhà và công trình, cũng như đất nền thành nhiều tình trạng khác nhau.
Khả năng làm việc đúng theo thiết kế;
Còn khả năng làm việc;
Khả năng làm việc hạn chế;
Hư hỏng và sự cố trong các kết cấu, nhà và công trình, bao gồm cả đất nền, cần được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo chúng vẫn trong tình trạng kỹ thuật theo thiết kế Việc sử dụng các công trình này phải tuân theo tải trọng và tác động thiết kế Cần thiết lập kế hoạch khảo sát định kỳ trong quá trình sử dụng, đặc biệt đối với những công trình có tình trạng làm việc hạn chế Trong trường hợp này, việc kiểm soát tình trạng và đề xuất biện pháp khôi phục hoặc gia cường là rất quan trọng, cùng với việc tiến hành quan trắc tình trạng kỹ thuật khi cần thiết.
Việc sử dụng nhà và công trình, bao gồm cả đất nền, là không được phép khi chúng đang trong tình trạng hư hỏng Trong những trường hợp như vậy, việc thực hiện chế độ quan trắc là bắt buộc.
Trong quá trình khảo sát toàn diện tình trạng kỹ thuật của nhà và công trình, các đối tượng quan trắc bao gồm đất nền, kết cấu cùng các thành phần liên quan, thiết bị kỹ thuật, trang thiết bị và lưới điện.
5.1.7 Khảo sát tình trạng kỹ thuật của nhà và công trình cần thực hiện theo ba bước:
3) Khảo sát chi tiết (bằng thiết bị).
Khi khách hàng giảm khối lượng khảo sát, độ tin cậy của các kết luận về tình trạng kỹ thuật của đối tượng sẽ bị ảnh hưởng Do đó, khách hàng cần tự chịu trách nhiệm về độ tin cậy thấp của các kết quả khảo sát.
Công việc chuẩn bị được thực hiện để tìm hiểu các đối tượng khảo sát, giải pháp kiến trúc và kết cấu, cũng như tài liệu khảo sát địa chất công trình Ngoài ra, chúng tôi thu thập và phân tích các tài liệu thiết kế kỹ thuật, đồng thời thiết lập chương trình làm việc được khách hàng phê duyệt về các vấn đề kỹ thuật.
5.1.8 Kết quả của công tác chuẩn bị là để có được các tài liệu sau đây (hầu như được xác định bằng hình thức khảo sát):
Sự chấp thuận của khách hàng về nhiệm vụ kỹ thuật khảo sát;
Thống kê mặt bằng sàn theo các tầng và hồ sơ kỹ thuật của nhà hoặc công trình;
Hồ sơ kiểm tra nhà hoặc công trình thực hiện bởi người sử dụng, bao gồm bảng liệt kê các khuyết tật;
Hồ sơ và báo cáo của các khảo sát trước đó của nhà hoặc công trình;
Các tài liệu thiết kế nhà hoặc công trình;
Thông tin,bao gồm cả thiết kế, về tái cấu trúc, cải tạo, sửa chữa lớn, v v;
Trắc địa công trình do tổ chức chuyên môn thực hiện;
Các tài liệu khảo sát địa chất công trình trong vòng 5 năm gần đây;
Thông tin về vị trí nhà hoặc công trình nằm gần/ trên khe san lấp, hang karst,vùng sạt lở và các tai biến địa chất khác;
Biên bản chấp thuận của khách hàng về cách tiếp cận kết cấu cần khảo sát, các thiết bị kỹ thuật, v v (khi cần thiết);
Tài liệu từ các cơ quan chức năng thành phố cung cấp thông tin chi tiết về vị trí và công suất của các nguồn năng lượng như điện, nước, năng lượng sưởi, khí đốt và hệ thống thoát nước.
5.1.9 Trên cơ sở các tài liệu nhận được, tiến hành các công việc sau đây:
Năm khởi thảo thiết kế;
Sơ đồ kết cấu nhà hoặc công trình;
Các thông tin đã áp dụng trong thiết kế kết cấu;
Sơ đồ lắp ghép của các cấu kiện đúc sẵn, thời gian chế tạo chúng;
Thời gian xây dựng nhà;
Các kích thước hình học của nhà hoặc công trình, các cấu kiện và kết cấu;
Các đặc trưng của vật liệu xây dựng như bê tông, kim loại và đá rất quan trọng trong việc thiết kế các kết cấu Để đảm bảo chất lượng và an toàn, cần có giấy chứng nhận và hồ sơ kỹ thuật cho từng sản phẩm và vật liệu được sử dụng trong xây dựng nhà.
Các đặc trưng của đất nền;
Các thay đổi xảy ra về vị trí và sai lệch so với thiết kế; Đặc trưng của các tác động bên ngoài lên kết cấu;
Dữ liệu về môi trường xung quanh;
Vị trí và công suất của hệ thống cấp điện, nước, thoát nước, nhiệt, khí đốt và hệ thống thoát nước;
Các biểu hiện khuyết tật, hư hỏng trong sử dụng;
Hao mòn vô hình của công trình thường xuất phát từ các khiếm khuyết trong bố trí và thiết kế không tuân thủ các tiêu chuẩn hiện hành.
2) Thiết lập chương trình khảo sát, trong đó chỉ rõ:
Danh mục cần phải khảo sát về các kết cấu xây dựng và các thành phần của chúng;
Danh sách cần khảo sát về trang thiết bị kỹ thuật, mạng lưới điện và phương tiện thông tin;
Vị trí, phương pháp đo và thử nghiệm bằng thiết bị;
Vị trí lấy mẫu vật liệu để thử nghiệm mẫu trong phòng thí nghiệm;
Sự cần thiết phải tiến hành các khảo sát địa chất công trình;
Danh sách các tính toán kiểm tra cần thiết, v v
Khảo sát tình trạng kỹ thuật nền và móng
Khảo sát tình trạng kỹ thuật của nền và móng được thực hiện theo nhiệm vụ kỹ thuật, bao gồm thành phần, khối lượng, phương pháp và trình tự công việc Chương trình khảo sát sẽ chú trọng đến mức độ nghiên cứu và sự phức tạp của điều kiện tự nhiên.
5.2.2 Thành phần công việc của khảo sát nền và móng của nhà và công trình bao gồm:
Nghiên cứu tài liệu đã có về địa chất công trình đã làm trước đây tại công trình hoặc tại các vùng lân cận;
Nghiên cứu quy hoạch và các khu vực tiện ích;
Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến việc đặt móng của các nhà và các công trình định điều tra;
Các hố thăm dò cố gắng đào gần các móng;
Khoan lấy mẫu đất, mẫu nước ngầm và xác định mực nước ngầm;
Thí nghiệm nén tĩnh đất nền;
Khảo sát nền đất bằng phương pháp địa vật lý;
Thí nghiệm trong phòng về đất và nước dưới đất;
Khảo sát tình trạng nền nhân tạo và móng, cọc
5.2.3 Khi khảo sát nền và móng cần phải:
Xác định rõ cấu trúc địa chất công trình của khu vực xây dựng công trình;
Lấy mẫu nước ngầm để đánh giá thành phần và tính xâm thực (nếu cần thiết);
Xác định các loại móng, hình dạng trên mặt bằng, kích thước, độ sâu chôn móng, làm rõ việc gia cường nền và móng trước đây;
Xác định các móng bị hư hại và xác định độ bền của vật liệu làm móng;
Lấy mẫu cho thí nghiệm trong phòng về vật liệu móng;
Xác định sự tồn tại và tình trạng của lớp chống thấm.
Các vị trí và tổng số lượng công việc, số điểm xuyên, cũng như sự cần thiết áp dụng các phương pháp địa vật lý, đều được xác định dựa trên khối lượng và thành phần các tính chất vật lý và cơ học của đất.
Việc khảo sát điều kiện đất nền tại các khu vực biến dạng của nhà và công trình phụ thuộc vào kích thước và độ phức tạp của cấu trúc địa chất Cần xem xét các biến dạng đã xảy ra trước đó trong các kết cấu để đánh giá chi tiết tình hình.
Dựa trên kết quả khảo sát đất nền, các số liệu lưu trữ mới sẽ được thiết lập để phân tích sự khác biệt về tình trạng địa chất công trình và địa chất thuỷ văn Những thông tin này giúp xác định nguyên nhân gây ra biến dạng và hư hại của nhà, từ đó tiến hành dự báo và xem xét lựa chọn biện pháp gia cường móng hoặc gia cố nền nếu cần thiết.
Hố đào thăm dò được bố trí dựa vào điều kiện móng, có thể nằm trong hoặc ngoài móng Việc sắp xếp các hố thăm dò này cần tuân theo các yêu cầu cụ thể để đảm bảo hiệu quả trong quá trình khảo sát.
Trong mỗi đơn nguyên móng - kiểm tra một hố với mỗi loại móng trong khu vực chịu tải trọng lớn nhất và khu vực không tải;
Theo cách phân chia gương đào hoặc các đơn nguyên tương tự, mỗi đơn nguyên sẽ được đào với tất cả các hố dự định Trong khi đó, các đơn nguyên còn lại chỉ cần đào một hoặc hai hố tại khu vực chịu tải trọng lớn nhất.
Tại các vị trí đề xuất bổ sung gối tựa trung gian, cần đào một hố kiểm tra cho mỗi phân đoạn Đối với những khu vực có thể đào được, thực hiện việc đào bổ sung cho mỗi hai hoặc ba hố trong khu vực chịu tải trọng lớn nhất đối diện với tường.
Cần thiết phải đặt hố đào khảo sát tại các vị trí có hiện tượng lún lệch ở tường và móng Trong quá trình khảo sát, sẽ chỉ định thêm các hố đào để xác định ranh giới của lớp đất yếu hoặc tình trạng không đạt yêu cầu của móng.
Độ sâu của hố khảo sát gần móng cần đạt từ 0,5 m đến 1 m vượt quá độ sâu đặt móng Chiều dài đào hở của móng phải đủ để xác định loại móng và đánh giá tình trạng kết cấu của nó.
Việc lựa chọn thiết bị, phương pháp tiến hành và cách chống giữ hố đào (khoan) trong khảo sát địa chất công trình cần căn cứ vào các điều kiện địa chất, điều kiện vận chuyển, sự hiện diện của hệ thống thông tin liên lạc, diện tích chật hẹp, tính chất đất nền, cũng như kích thước ngang và chiều sâu của hố.
Để khảo sát đất nền dưới đáy móng, cần khoan từ mặt đáy hố đào Số lượng hố thăm dò sẽ được xác định dựa trên nhiệm vụ và chương trình khảo sát địa chất công trình Độ sâu của hố thăm dò sẽ được chỉ định dựa vào chiều sâu vùng ảnh hưởng của nền, đặc điểm cấu tạo của công trình và độ phức tạp của điều kiện địa chất.
Các đặc trưng cơ lý của đất được xác định thông qua mẫu đất lấy trong quá trình khảo sát và thí nghiệm, tuân theo các tiêu chuẩn như TCVN 5747:1993, TCVN 9350:2012 và TCVN 9153:2012 Để đảm bảo thử nghiệm đất được thực hiện một cách toàn diện, số lượng và kích thước mẫu đất cần phải đáp ứng yêu cầu theo TCVN 9363:2012 hoặc GOST 30416-96 Trong quá trình khảo sát và thí nghiệm hiện trường, cần tuân thủ các tiêu chuẩn TCVN 9351:2012, TCVN 9352:2012 và TCVN 9354:2012.
Khoảng cách lấy mẫu theo độ sâu cần thiết để xác định các đặc trưng và số lượng riêng về biến dạng và độ bền phải đủ để tính toán trị tiêu chuẩn và trị tính toán Việc lấy mẫu đất, đóng gói, vận chuyển và bảo quản phải tuân thủ theo TCVN 2683:1991.
5.2.12 Các kết quả khảo sát địa chất công trình, theo [13] và [14] phải có dữ liệu cần để :
Xác định tính chất của đất nền để có thể cơi thêm tầng hoặc làm tầng hầm, v v;
Xác định nguyên nhân gây ra khuyết tật và hư hại là bước quan trọng trong việc cải thiện chất lượng công trình Để đảm bảo sự ổn định và bền vững, cần áp dụng các biện pháp gia cường nền móng và kết cấu trên móng hiệu quả.
Chọn loại chống thấm các công trình ngầm, tầng hầm;
Xác định loại và số lượng giếng và biện pháp hạ mực nước ngầm tại hiện trường.
Tài liệu điều tra địa chất công trình cần được trình bày dưới dạng mặt cắt địa chất-trầm tích nham thạch, đồng thời phân loại đất theo TCVN 5747:1993 Các lớp đất phải có sự kết nối chặt chẽ với nhau Trong quá trình khảo sát, cần ghi lại tất cả các điều kiện đào/khoan, điều kiện khí quyển, sơ đồ kết cấu móng, kích thước và vị trí của các hố khoan để đảm bảo tính chính xác và đầy đủ của dữ liệu.
Khảo sát tình trạng kỹ thuật kết cấu của nhà
5.3.1 Khảo sát kết cấu bê tông và bê tông cốt thép
5.3.1.1Đánh giá tình trạng kỹ thuật kết cấu bê tông và bê tông cốt thép theo các dấu hiệu bên ngoài (xem Phụ lục G) dựa trên:
Xác định kích thước hình học của kết cấu và các tiết diện của chúng;
So sánh kích thước thực tế của kết cấu với kích thước thiết kế;
Sự phù hợp giữa sơ đồ tĩnh học về sự làm việc thực tế của kết cấu với sơ đồ dùng trong tính toán;
Các vết nứt, bong tách và phá huỷ;
Vị trí, tính chất và bề rộng các vết nứt;
Tình trạng của lớp bảo vệ; Độ võng và biến dạng của kết cấu;
Dấu hiệu phá hỏng lực dính của cốt thép với bê tông;
Có cốt thép bị đứt;
Tình trạng neo cốt thép dọc và ngang; Độ ăn mòn của bê tông và cốt thép.
Đo sự mở rộng của vết nứt trong bê tông tại vị trí có độ mở rộng lớn nhất và khu vực cốt thép chịu kéo của cấu kiện Độ mở rộng của vết nứt được xác định theo tiêu chuẩn [8].
Vết nứt trong bê tông được phân tích dựa trên tính năng kết cấu và trạng thái ứng suất biến dạng của bê tông cốt thép Phân loại và nguyên nhân gây ra các khuyết tật, hư hại trong kết cấu bê tông và móng được trình bày chi tiết trong Phụ lục E và F.
5.3.1.4Khi khảo sát kết cấu để xác định độ bền của bê tông thì sử dụng phương pháp kiểm tra không phá hủy theo TCVN 9335:2012, TCVN 9357:2012 , [4].
Kiểm tra và xác định hệ thống bố trí cốt thép trong kết cấu bê tông cốt thép bao gồm việc xác định vị trí, đường kính, chủng loại cốt thép và độ dày lớp bảo vệ bê tông Quy trình này được thực hiện theo tiêu chuẩn TCVN 9356:2012.
5.3.1.6Khi có những vùng bị ẩm và mốc trên bề mặt kết cấu bê tông thì xác định kích thước của vùng này và nguyên nhân gây ẩm mốc.
Để đánh giá mức độ hư hại do ăn mòn bê tông, bao gồm mức độ cacbon hóa, thành phần của các sản phẩm hình thành mới, và sự phá hoại cấu trúc của bê tông, cần áp dụng phương pháp hóa lý một cách phù hợp.
Khi đánh giá tình trạng kỹ thuật của cốt thép và các chi tiết chôn sẵn, cần xác định loại ăn mòn, mức độ hư hại và nguồn tác động đến chúng.
Để xác định tình trạng cốt thép của cấu kiện bê tông cốt thép, cần tẩy bỏ lớp bảo vệ cốt thép tại vị trí kiểm tra nhằm làm lộ cốt thép chịu lực.
Việc lộ cốt thép thường xảy ra ở những khu vực có mức độ ăn mòn cao, nơi mà lớp bê tông bảo vệ bị tách rời, dẫn đến sự hình thành vết nứt và màu gỉ xuất hiện dọc theo các thanh thép.
Mức độ ăn mòn cốt thép được đánh giá thông qua các yếu tố quan trọng như tính chất của ăn mòn, màu sắc và mật độ của sản phẩm ăn mòn, diện tích bề mặt bị hư hại, độ sâu của tổn thương do ăn mòn, cũng như diện tích tiết diện ngang còn lại của cốt thép.
Khi xuất hiện trên các kết cấu có độ hao mòn cao do ăn mòn liên quan đến các tác động của yếu tố xâm thực cục bộ, cần chú ý đặc biệt đến các cấu kiện và nút liên kết của kết cấu.
Tường ngoài dưới cốt không;
Ban công và các bộ phận của lôgia;
Các khu vực của đường dốc ở lối vào gara ngầm và gara nhiều tầng;
Kết cấu chịu lực của sàn nằm trên các lỗ cửa;
Phẩn đỉnh cột nằm bên trong tường gạch;
Phía dưới cột ở sát mặt nền và chân cột nằm dưới mặt nền,đặc biệt là những phòng khi quét dọn có bụi ẩm;
Phần cột đi qua sàn nhà của nhà nhiều tầng, đặc biệt là bụi bị ẩm khi lau phòng;
Phần tấm mái nằm dọc giếng trời,vùng gần phễu thu nước bên trong nhà,cửa kính ngoài nhà, đầu cửa trời và đầu hồi nhà;
Phần kết cấu tại khu vực có độ ẩm cao hoặc tại chỗ có thể bị rò rỉ nước;
Gối tựa của giàn vì kèo hoặc giàn đỡ vì kèo được đặt gần phễu thu nước trong nhà, đảm bảo tính năng thu nước hiệu quả Cánh trên của giàn vì kèo kết nối với cửa trời thông khí và cột đỡ tấm chắn gió, giúp cải thiện lưu thông không khí Ngoài ra, cánh trên của giàn đỡ vì kèo còn được thiết kế có máng xối dọc theo mái, hỗ trợ trong việc thoát nước mưa.
Nút gối đỡ của giàn nằm trong tường gạch.
Khi khảo sát cột, cần xác định giải pháp cấu tạo kết cấu, đo tiết diện ngang và phát hiện biến dạng như độ nghiêng, độ uốn và chuyển vị của các liên kết Đồng thời, ghi lại vị trí và tính chất của các vết nứt cùng các hư hại.
Số cột dùng để xác định độ bền của bê tông được lựa chọn dựa trên mục đích của cuộc điều tra Khi tiến hành kiểm tra các kết cấu riêng lẻ, cần xác định vị trí, số lượng điểm cần kiểm tra và số mẫu đo hoặc thử nghiệm theo quy định trong tài liệu tham khảo [4].
Khi khảo sát sàn, cần xác định loại sàn dựa trên vật liệu và thiết kế, đồng thời ghi nhận các khiếm khuyết và hư hại hiện có Đặc biệt, chú ý đến tình trạng các phần sàn đã được sửa chữa hoặc gia cường, cũng như tải trọng tác động lên sàn Cần ghi lại hình ảnh các vết nứt, bao gồm chiều dài và chiều rộng của chúng trong các cấu kiện và liên kết chịu lực Việc quan trắc các vết nứt nên được thực hiện bằng thước kiểm tra hoặc kính lúp để đảm bảo độ chính xác.
5.3.1.15 Độ võng của sàn xác định bằng phương pháp thủy chuẩn hình học và thủy tĩnh.
Khi khảo sát cấu kiện sàn bê tông cốt thép, cần xác định kích thước hình học, biện pháp liên kết, tiết diện tính toán, độ bền của bê tông, chiều dày lớp bê tông bảo vệ, cũng như vị trí và đường kính của cốt thép chủ.
Để khảo sát kết cấu sàn và xác định mức độ hư hại, cần thực hiện việc đục sàn với số lượng chỗ đục được xác định theo tổng diện tích sàn của nhà Cần chú ý đến việc đục sàn ở những vị trí khó khăn như tường ngoài và trong nhà vệ sinh Nếu không có dấu hiệu hư hại và biến dạng, số điểm đục có thể giảm bằng cách sử dụng thiết bị quang học như ống nội soi để khảo sát những khu vực khó tiếp cận thông qua các lỗ khoan trước trên sàn.
5.3.2 Khảo sát kết cấu khối xây
Khảo sát tình trạng kỹ thuật của thiết bị kỹ thuật
Khảo sát tình trạng kỹ thuật của các thiết bị trong hệ thống kỹ thuật được tiến hành đồng thời với việc đánh giá toàn diện tình trạng kỹ thuật của nhà và công trình.
Việc khảo sát thiết bị kỹ thuật và các thành phần của chúng nhằm xác định thực trạng kỹ thuật của hệ thống, phát hiện khiếm khuyết và hư hỏng, cũng như đánh giá sự hao mòn hữu hình và vô hình Đánh giá tình trạng kỹ thuật của hệ thống nhà và công trình được thực hiện theo quy định, xem xét thời gian sử dụng chuẩn trung bình của các thiết bị và bộ phận liên quan.
Hao mòn hữu hình của hệ thống thiết bị kỹ thuật được xác định theo tiêu chuẩn [17] Trong quá trình cải tạo hoặc sử dụng, nếu có sự thay mới, hao mòn hữu hình cần được điều chỉnh và tính toán lại theo công thức: k n i i i i k P.
k - là hao mòn hữu hình của một cấu kiện hoặc của hệ, tính bằng phần trăm (%);
i - là hao mòn hữu hình của một phần cấu kiện hoặc của hệ, xác định theo [17], tính bằng phần trăm(%);
P i - là kích thước (diện tích hoặc chiều dài) của phần bị hư hỏng, tính bằng mét vuông (m 2 ) hoặc mét (m);
P k - là kích thước của toàn bộ kết cấu, tính bằng mét vuông (m 2 ) hoặc mét (m); n - là số phần bị hư hại
Hao mòn hữu hình của hệ được xác định bằng tổng hao mòn trung bình có trọng số của các cấu kiện.
Hao mòn vô hình của hệ trang thiết bị kỹ thuật là sự không phù hợp về chất lượng sử dụng so với tiêu chuẩn hiện đại hoặc thiếu trang thiết bị cần thiết để thay đổi chức năng Để đánh giá định lượng hao mòn vô hình, người ta sử dụng phương pháp xác định quy mô tổn thất, được tính bằng phần trăm mức độ hao mòn so với chi phí khôi phục lại nhà.
Các chỉ số hao mòn vô hình của nhà ở, khi không được trang bị kỹ thuật đặc biệt và không cần thay đổi chức năng hiện tại, được nêu rõ trong Phụ lục I.
Khi khảo sát hệ thống sưởi ấm và cấp nước, việc đánh giá tình trạng ăn mòn của đường ống và thiết bị đun nước là rất quan trọng Tình trạng ăn mòn được xác định dựa trên độ sâu của hư hại lớn nhất ở thành ống kim loại và trị trung bình của diện tích thu hẹp ống do lắng đọng sản phẩm ăn mòn so với ống mới.
Trong tình huống này, mẫu được thu thập từ các bộ phận của hệ thống như ống đứng và ống nối với thiết bị đun nước Tại các mẫu này, chúng ta xác định độ sâu lớn nhất của tổn thất do ăn mòn cũng như trị số thu hẹp tiết diện.
Khi lấy và vận chuyển mẫu, cần chú ý giữ nguyên cặn lắng ăn mòn trong ống mẫu Đối với các mẫu đã cắt, cần lập hồ sơ kỹ thuật chi tiết và gửi kèm theo mẫu đến phòng thí nghiệm để đảm bảo quy trình phân tích chính xác.
Số lượng đường ống đứng lấy mẫu phải tối thiểu là ba, và khi khảo sát hệ thống đường ống đứng liền, mẫu phân tích được lấy tại vị trí nối với đường trục trong tầng hầm.
Trị số cho phép về độ sâu tương đối lớn nhất của phần tổn hại do ăn mòn của ống được lấy bằng 50
% trị số độ dày của thành ống mới.
Trị số cho phép chỗ thu hẹp tiết diện đường ống do lắng đọng sản phẩm ăn mòn cần dựa trên kết quả tính toán thủy lực của ống đang sử dụng, với trị số độ nhám tuyệt đối là 0,75 mm.
Trong các điều kiện cụ thể, độ thu hẹp cho phép được xác định như sau: Ống có đường kính 15 mm cho phép thu hẹp 20%, ống 20 mm cho phép thu hẹp 15%, ống 25 mm cho phép thu hẹp 12%, ống 32 mm cho phép thu hẹp 10%, ống 40 mm cho phép thu hẹp 8%, và ống 50 mm cho phép thu hẹp 6%.
Trị số thu hẹp tiết diện "sống" cho phép của các bộ trao đổi nhiệt đối lưu có thể giảm sự truyền nhiệt của thiết bị sưởi xuống 10%.
Chiều sâu tương đối của tổn hư do ăn mòn kim loại ống hKOP % được đánh giá theo công thức:
Chiều dày của thành đường ống mới được quy định theo GOST 3262, tương ứng với đường kính và loại ống (nhẹ, bình thường, có gia cường) Trong khi đó, chiều dày tối thiểu còn lại của thành ống sau một thời gian sử dụng nhất định được gọi là hOCT.
Sự thu hẹp tiết diện sống của ống dBH ống,%, do sự lắng đọng các các sản phẩm ăn mòn được đánh giá theo công thức:
BH D d d (3) trong đó: dOTL là đường kính trong trung bình của ống có lắng đọng;
DH là đường kính trong của ống mới, lấy theo GOST 3262, tương ứng với đường kính ngoài.
Trị số cho phép về thu hẹp đường ống do cặn lắng ăn mòn không được vượt quá 30% diện tích tiết diện sống của ống, nhằm đảm bảo áp lực tự do tối thiểu cho các thiết bị vệ sinh theo tiêu chuẩn TCVN 4513:1988 và TCVN 4474:1986.
Thiết bị kỹ thuật trong nhà và công trình cần được hiện đại hóa theo hướng tự động Do đó, việc theo dõi, khảo sát và sửa chữa thiết bị theo lý lịch và thời gian bảo hành của nhà cung cấp là rất quan trọng.
5.4.1 Khảo sát tình trạng kỹ thuật của hệ thống cấp nước nóng
5.4.1.1Khi khảo sát tình trạng kỹ thuật của hệ thống nước nóng được tiến hành theo TCVN 4513:1988 ; TCVN 4474:1986 ; [18] và thực hiện các công việc sau đây:
Mô tả hệ thống (kiểu hệ thống, sơ đồ các đường ống nhánh);
Kiểm tra các máy bơm nước tuần hoàn,các thiết bị đo-kiểm,van chặn và van điều chỉnh tại điểm đấu nối vào nhà hoặc công trình;