Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”Tiểu luận tài chính chứng khoán: “ Tác động của chính sách tiền tệ mới ban hành ngày 25/11/2009 tới nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu”
Khái niệm
Chính sách lưu thông tiền tệ là quá trình quản lý đồng tiền của chính phủ hoặc ngân hàng trung ương nhằm đạt được các mục tiêu như kiểm soát lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt toàn dụng lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Các biện pháp trong chính sách này bao gồm thay đổi lãi suất, điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc và thực hiện các giao dịch trên thị trường ngoại hối.
Các công cụ của chính sách tiền tệ
Nghiệp vụ thị trường mở
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện mua bán giấy tờ có giá trên thị trường, chủ yếu là tín phiếu kho bạc, nhằm điều chỉnh cơ số tiền và ảnh hưởng đến lượng cung tiền Việc NHNN tập trung vào tín phiếu kho bạc là do loại chứng khoán này có khối lượng lớn, tính an toàn cao và thời hạn thanh toán ngắn.
Việc mua bán chứng khoán của NHNN là yếu tố chủ yếu gây nên những biến động về lượng tiền cung ứng.
Nếu NHNN mua vào các loại chứng khoán sẽ làm tăng cơ số tiền do đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bán ra các loại chứng khoán sẽ dẫn đến sự giảm sút trong cơ số tiền, từ đó làm giảm lượng tiền cung ứng Đây được xem là một trong những công cụ quan trọng nhất trong chính sách tiền tệ của NHNN nhờ vào những ưu điểm vốn có của nó.
Công cụ này cho phép NHNN kiểm soát toàn bộ các nghiệp vụ tự do trên thị trường, đồng thời nhanh chóng và chính xác điều chỉnh lượng tiền thông qua việc mua bán chứng khoán.
-Với công cụ này,NHNN có thể dễ dàng đảo ngược tình thế của mình.-Tiết kiệm được nhiều loại chi phí.
Chính sách chiết khấu
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực hiện tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế Việc NHNN cho vay sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, trong khi kiểm soát thông qua lãi suất tái chiết khấu Nếu lãi suất tái chiết khấu tăng, sẽ dẫn đến việc mở rộng cơ số tiền và tăng cung ứng tiền, ngược lại nếu giảm sẽ thu hẹp cơ số tiền và giảm lượng tiền cung ứng Các khoản vay từ NHNN được gọi là cửa sổ chiết khấu, và ngân hàng thương mại sẽ phải chịu ba khoản phí: lãi suất chiết khấu, phí tuân thủ điều tra khả năng thanh toán và phí có thể bị từ chối vay do NHNN theo đuổi mục tiêu thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát.
Chính sách chiết khấu giúp ứng phó hiệu quả với các cơn hoảng loạn tài chính và sự sụp đổ ngân hàng Trong những tình huống này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đóng vai trò là người cho vay cuối cùng, cung cấp hỗ trợ ngay lập tức cho các ngân hàng bằng cách sử dụng tiền dự trữ bắt buộc.
Chính sách chiết khấu là công cụ quan trọng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng và giúp đối phó với hoảng loạn tài chính Tuy nhiên, khi áp dụng chính sách này, Ngân hàng Trung ương thường trở nên bị động, chỉ có khả năng tăng lãi suất mà không thể ép buộc các ngân hàng vay tại Ngân hàng Trung ương.
Dự trữ bắt buộc
Khoản tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng thương mại phải mở tài khoản và gửi vào Ngân hàng Trung ương (NHTW) Số tiền này được quy định bởi NHTW và xác định dựa trên tỷ lệ nhất định của tổng lượng tiền gửi tại các ngân hàng Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể khác nhau giữa các quốc gia và theo từng thời kỳ Quan trọng là những khoản tiền này không được hưởng lãi suất.
Việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Trung ương (NHTW) ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế Với một mức dự trữ ban đầu nhất định, các ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra một lượng tiền gửi mới lớn gấp nhiều lần thông qua công thức: Tiền gửi mới được tạo thành = tiền dự trữ ban đầu * 1/tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
-Các ngân hàng ko có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc đươc qui định.
Tiền gửi mới được tạo ra chủ yếu trong hệ thống ngân hàng, và sự thay đổi trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng đến lượng tiền gửi mới cũng như lượng tiền cung ứng Chẳng hạn, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, thì lượng tiền gửi mới có thể tăng gấp 10 lần so với lượng tiền dự trữ ban đầu Tương tự, với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 5%, lượng tiền gửi mới được tạo ra sẽ tăng gấp 20 lần so với số tiền dự trữ ban đầu.
Dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng lớn đến lãi suất cho vay của ngân hàng Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các ngân hàng thương mại thường tăng lãi suất cho vay, dẫn đến khả năng cho vay giảm và lượng tiền cung ứng cũng giảm theo Ngược lại, khi dự trữ bắt buộc giảm, lượng tiền cung ứng sẽ tăng lên Trong chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương, công cụ dự trữ bắt buộc thường không được coi là quan trọng Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể hạn chế đầu tư của doanh nghiệp, làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của họ.
Các nước phát triển đã sử dụng hiệu quả hai công cụ quan trọng, trong khi đó, các nước kém hoặc đang phát triển vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của chúng và gặp nhiều hạn chế Để cải thiện tình hình, các quốc gia này có thể áp dụng thêm các biện pháp như kiểm soát hạn mức tín dụng và quản lý lãi suất ngân hàng.
Kiểm soát hạn mức tín dụng
Kiểm soát hạn mức tín dụng dựa trên tỷ lệ tăng trưởng và lạm phát của quốc gia, cùng với các yếu tố như tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ lưu thông tiền tệ NHNN quy định hạn mức tín dụng cụ thể cho từng ngân hàng nhằm đảm bảo phù hợp với chính sách tiền tệ và tình hình kinh tế Để hạn chế việc tạo tiền quá mức, các hạn mức này thường dựa vào tỷ lệ cho vay trong quá khứ của ngân hàng so với tổng lượng tiền cho vay của toàn hệ thống Các ngân hàng thương mại phải tuân thủ hạn mức tín dụng đã được quy định.
Hạn mức tín dụng là công cụ quan trọng mà NHNN áp dụng khi các phương pháp khác không đạt hiệu quả Tuy nhiên, việc quy định hạn mức tín dụng có thể dẫn đến việc tăng lãi suất thị trường, làm giảm tính cạnh tranh giữa các ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư của doanh nghiệp Hơn nữa, điều này còn tạo ra các thị trường tài chính ngầm, nằm ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng Trung ương.
Quản lý lãi suất của các ngân hàng
Chính sách tiền tệ tác động trực tiếp đến lãi suất cho vay của các ngân hàng, đặc biệt qua công cụ chiết khấu Khi các công cụ này chưa hiệu quả, Ngân hàng Trung ương (NHTW) áp dụng quản lý lãi suất để điều tiết lượng tiền cung ứng Để bảo vệ lợi ích ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định mức lãi suất huy động tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu, trong khi đó để bảo vệ người dân, họ quy định lãi suất cho vay tối đa và lãi suất huy động tối thiểu NHNN kiểm soát lãi suất như một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng, ảnh hưởng đến lạm phát và tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, việc này có thể làm giảm tính cạnh tranh của các ngân hàng, trong khi các nước phát triển đang dần chuyển sang cơ chế tự do hóa lãi suất.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ tập trung vào hai mục tiêu chính là lãi suất và lượng cung tiền, nhưng thường không thể đạt được cả hai mục tiêu cùng một lúc Trong điều kiện kinh tế bình thường, mục tiêu lãi suất thường được ưu tiên Tuy nhiên, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng quá nóng hoặc quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ chuyển hướng để điều chỉnh trực tiếp lượng cung tiền.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán trái phiếu chính phủ, có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cung tiền Khi NHTW mua trái phiếu, lượng tiền cơ sở tăng lên, dẫn đến sự gia tăng cung tiền Ngược lại, khi NHTW bán trái phiếu, tiền thu được sẽ làm giảm tiền cơ sở và giảm cung tiền Đây là công cụ chính sách mà Fed thường xuyên sử dụng để quản lý nền kinh tế Thực tế, NHTW thực hiện nghiệp vụ này trực tiếp trên thị trường.
Thực trạng về tác động của chính sách tiền tệ, ban hành ngày 25/11/2009, đến nền kinh tế, lĩnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán và đầu tư cổ phiếu
Khái quát về điều hành chính sách tiền tệ được áp dụng trước ngày 25/11/2009
2.1 Khái quát về điều hành chính sách tiền tệ được áp dụng trước ngày 25/11/2009
2.1.1 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đến Việt Nam:
Thị trường tài chính Việt Nam ít bị ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhờ vào việc các tổ chức tài chính trong nước chưa hội nhập sâu vào hệ thống tài chính thế giới và không nắm giữ nhiều chứng khoán nước ngoài, đặc biệt là chứng khoán có tài sản gốc bất động sản Các tổ chức tài chính nước ngoài gặp khó khăn chủ yếu là ngân hàng đầu tư, công ty tài chính và công ty bảo hiểm, mà không phải là nơi mà các tổ chức tín dụng Việt Nam có quan hệ đại lý hay gửi tiền Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn chịu tác động gián tiếp từ suy thoái kinh tế toàn cầu, do sự phụ thuộc vào hoạt động xuất khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài từ các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Biểu đồ tăng trưởng GDP Việt nam
Thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, do đó, suy thoái kinh tế tại các thị trường này đã ảnh hưởng đáng kể đến nhu cầu hàng hóa xuất khẩu Nhiều sản phẩm chủ lực như may mặc, giày da và thủy sản đã bị hạn chế do hàng rào bảo hộ gia tăng nhằm bảo vệ doanh nghiệp trong nước Kim ngạch xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm 2009 ước đạt 32,35 tỷ USD, giảm 13,4% so với cùng kỳ năm 2008, chủ yếu do sự giảm sút của các nhóm hàng như dầu thô (-44,8%), cà phê (-15,7%), giày dép (-9,7%) và thủy hải sản (-8,9%) Nguyên nhân một phần là do sự sụt giảm giá hàng hóa toàn cầu, đặc biệt là giá dầu thô và cà phê Đầu tư cũng giảm do dòng vốn từ bên ngoài sụt giảm, với FDI đăng ký trong 7 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 10,12 tỷ USD, tương đương 18,8% so với cùng kỳ Lượng vốn FDI giải ngân đạt 4,65 tỷ USD, bằng 77,5% so với năm 2008, trong khi phần lớn dự án FDI dựa vào vốn vay, khiến việc khó khăn của các tổ chức tài chính quốc tế tiếp tục ảnh hưởng đến các hợp đồng vay vốn và kế hoạch giải ngân.
FDI đăng ký 7 tháng đầu năm 2009 (triệu USD) FDI đăng ký và giải ngân 7T/2009 so với cùng kỳ 2008 (tỷ USD)
Mặc dù số lượng dự án cấp mới giảm so với cùng kỳ năm 2008, với 306 dự án và tổng vốn đăng ký mới đạt 4,7 tỷ USD, nhưng vốn đăng ký bổ sung đã tăng 13,8% so với cùng kỳ, đạt 4,1 tỷ USD từ 68 dự án xin tăng vốn Điều này cho thấy môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh có dấu hiệu phục hồi, đặc biệt là đối với các dự án đang triển khai Trong cơ cấu đầu tư, lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống dẫn đầu với gần 50% tổng vốn đăng ký, tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo.
Tính đến cuối năm 2009, tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam dự kiến đạt khoảng 15-20 tỷ USD, trong khi số vốn giải ngân ước đạt 7-8 tỷ USD Kinh doanh bất động sản chiếm 16,5% tổng vốn đầu tư, trong khi ngành chế biến chế tạo dẫn đầu với 17,6% Mặc dù lượng vốn giải ngân đã tăng dần và nhập siêu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm, nhưng dòng vốn vào Việt Nam vẫn chưa cân đối giữa các lĩnh vực Đầu tư gián tiếp (FII) cũng đang hồi phục sau giai đoạn suy giảm, mặc dù dòng chảy vốn vào thị trường cổ phiếu Việt Nam đã chững lại vào cuối năm 2008 sau giai đoạn bùng nổ trong năm 2006.
07 do các nhà đầu tư hướng tới các danh mục đầu tư an toàn hơn
Năm 2009, kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức do suy thoái kinh tế toàn cầu, mặc dù không bị ảnh hưởng trực tiếp từ khủng hoảng tài chính, nhưng các tác động gián tiếp như giá lương thực và nguyên vật liệu biến động lớn đã làm giảm tốc độ tăng trưởng, ảnh hưởng đến thị trường tài chính, tiền tệ và bất động sản Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, khủng hoảng toàn cầu không tác động trực tiếp đến thị trường ngân hàng Việt Nam, nhưng đã dẫn đến sự suy giảm khả năng thanh khoản và chất lượng tài sản do khó khăn của doanh nghiệp Tuy nhiên, nhờ sự điều hành kiên quyết của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), hệ thống tài chính vẫn giữ được sự ổn định NHNN đã linh hoạt điều chỉnh các công cụ chính sách tiền tệ để ngăn chặn suy giảm kinh tế, kiểm soát lạm phát và ổn định thị trường thông qua kiểm soát dư nợ, giảm lãi suất cho vay và điều hành tỷ giá phù hợp với cung cầu, nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập siêu.
Diễn biến giá cả các nguyên liệu cơ bản 2008-2009 2.1.2 Điều hành chính sách tiền tệ 2008- 2009
Theo các chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, cũng như giới ngân hàng và công luận, chính sách tiền tệ trong hai năm qua đã đạt được thành công đáng kể Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có những quyết định nhanh chóng và kịp thời trong việc điều hành lãi suất và tỷ giá, từ đó tạo ra những tác động tích cực rõ rệt đối với thị trường Một số ví dụ cụ thể có thể được nêu ra để minh chứng cho hiệu quả này.
Sau hơn hai năm giữ lãi suất cơ bản (LSCB) ổn định ở mức 8,25%/năm, NHNN đã điều chỉnh tăng lên 8,75% từ 01/02/2008 và tiếp tục nhảy vọt lên 12% từ 19/05/2008 Chỉ sau chưa đầy một tháng, từ 11/06/2008, LSCB đã đạt đỉnh 14% Đồng thời, lãi suất tái chiết khấu (LSTCK) và lãi suất tái cấp vốn (LSTCV) cũng được điều chỉnh tăng, với đỉnh tương ứng là 13% và 15% trong khoảng thời gian từ 11/06/2008 đến 20/10/2008 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng, trong khi lãi suất tiền gửi bình quân (DTBB) bị giảm NHNN đã phát hành hơn 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại.
Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua
Chính sách tiền tệ thắt chặt đã tạo ra lực hút mạnh mẽ đối với tiền lưu thông, đồng thời giảm cấp tín dụng từ các ngân hàng thương mại Kết quả là lạm phát đã được kiểm soát, giảm từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (25,2%/năm) trong tháng 5 xuống mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn 19,89%.
Sau khi kiềm chế thành công lạm phát, NHNN đã dần nới lỏng chính sách tiền tệ, trong đó lãi suất đóng vai trò quan trọng Lãi suất cơ bản đã giảm từ 14% xuống 7% trong khoảng thời gian từ tháng 10/2008 đến tháng 2/2009, với nhiều lần điều chỉnh liên tiếp Các lãi suất khác cũng được điều chỉnh giảm, và các ngân hàng thương mại đã được phép bán tín phiếu bắt buộc trước hạn Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được nới lỏng, kèm theo điều chỉnh lãi suất trên thị trường Những biện pháp này đã làm tăng cung tiền cho nền kinh tế, giúp tăng trưởng tín dụng năm 2008 đạt khoảng 23%, và 6 tháng đầu năm 2009 đạt khoảng 17,1%, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Từ đầu năm 2008 đến nay, tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam đã trải qua nhiều biến động phức tạp Trong quý I/2008, tỷ giá USD liên ngân hàng có thời điểm giảm xuống dưới 16.000, trong khi tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn Tuy nhiên, chỉ sau đó vài tháng, vào đầu quý II, tỷ giá đã tăng mạnh, đạt đỉnh 19.500.
NHNN đã quyết định nới biên độ dao động tỷ giá từ +1% lên +2% kể từ ngày 26/06/08, đồng thời thực hiện nhiều biện pháp như kiểm soát chặt chẽ các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông và công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam, điều này chưa từng có tiền lệ Nhờ những nỗ lực này, tỷ giá đã dần ổn định và duy trì ở mức khoảng 16.500 cho đến hết quý III/2008.
Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng đáng kể đến nguồn cung ngoại tệ tại Việt Nam, kết hợp với tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân và các doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ và tỷ giá luôn ở mức cao khoảng 18.000 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá hai lần (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và áp dụng các công cụ can thiệp khác Nhờ đó, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định và nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán hàng hóa thiết yếu đã được đáp ứng cơ bản.
Vào đầu năm 2009, Chính phủ đã triển khai gói kích cầu với các giải pháp cơ bản nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân Đối với doanh nghiệp, gói hỗ trợ bao gồm giảm và giãn thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cùng với lãi suất hỗ trợ ở mức 4% Đối với người dân, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp như trợ cấp cho người nghèo, giãn hoặc miễn thuế thu nhập cá nhân (TNCN), giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) và đào tạo lao động Bên cạnh đó, Chính phủ cũng tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nâng cao chi tiêu công và thúc đẩy xúc tiến thương mại để gia tăng xuất khẩu.
Chính sách hỗ trợ lãi suất đã thể hiện rõ vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ Đến hết tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của toàn hệ thống ngân hàng đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho các doanh nghiệp nhà nước chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Trong bối cảnh suy thoái kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã triển khai gói hỗ trợ trị giá 1 tỷ USD (hơn 17.000 tỷ đồng) với phương pháp sáng tạo và linh hoạt Phần lớn hỗ trợ không được chi trực tiếp mà thông qua việc hỗ trợ lãi suất, giúp kích thích tăng trưởng tín dụng Điều này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn giá rẻ, từ đó giảm giá thành sản phẩm, duy trì ổn định sản xuất và thúc đẩy nhu cầu nội địa So với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với 259.454 tỷ đồng và hộ kinh doanh 68.605 tỷ đồng, gói hỗ trợ này thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ trong việc ứng phó với khó khăn kinh tế.
Nội dung của chính sách tiền tệ mới 25/11/2009
2.2.1 Lãi suất cơ bản tăng lên 8%/năm
Ngày 25/11, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%/năm, lãi suất tái cấp vốn cũng tăng từ 7% lên 8%/năm, và lãi suất chiết khấu tăng từ 5% lên 6%/năm, có hiệu lực từ 01/12/2009 Quyết định này đánh dấu sự gia tăng 1% sau 10 tháng giữ lãi suất ổn định ở mức 7%/năm kể từ tháng 02/2009 Mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước là duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, đồng thời chủ động ứng phó với những biến động phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế toàn cầu.
Báo cáo của Goldman Sachs đã đưa ra ba nhận định chính về các động thái trên.
Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất cơ bản để kiểm soát rủi ro tăng trưởng nóng và lạm phát trong nền kinh tế Bên cạnh đó, việc này cũng nhằm nâng cao sức hấp dẫn của đồng VND, góp phần ổn định tỷ giá hối đoái.
Việc Việt Nam tăng mạnh tỷ giá USD/VND liên ngân hàng được Goldman Sachs nhận định là do thâm hụt cán cân thanh toán và sự sụt giảm dự trữ ngoại hối.
Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua
Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng lớn đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam, cùng với tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân và các thành phần kinh tế, dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ và tỷ giá luôn ở mức cao khoảng 18.000 Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá hai lần (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai nhiều công cụ can thiệp khác Nhờ đó, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, đáp ứng cơ bản đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán các mặt hàng thiết yếu.
Vào giữa quý 4 năm 2009, tỷ giá ngoại tệ trên thị trường chợ đen tăng cao, có lúc gần chạm mức 20.000 VNĐ/USD Để ổn định tỷ giá, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các tập đoàn và tổng công ty có nguồn thu lớn bán ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước Cụ thể, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản cùng các tổng công ty nhà nước được yêu cầu bán ngay ngoại tệ để Ngân hàng Nhà nước có thể chủ động điều tiết thị trường.
Nhằm điều hành tỷ giá phù hợp với lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng và cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng sẽ được điều chỉnh linh hoạt, tăng lên mức 17.961 VND/USD từ ngày 26/11 Từ ngày này, biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng là +/-3%.
Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh biên độ tỷ giá từ 5% xuống 3%, với tỷ giá sàn là 17.422 VND/USD và tỷ giá trần là 18.500 VND/USD.
Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất nhằm duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010 Quyết định này cũng nhằm chủ động ứng phó với những diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế toàn cầu.
Từ ngày 15 tháng Giêng 2009, để kích thích kinh tế, Chính phủ đã triển khai các gói kích thích kinh tế khoảng 150.000 tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD), bao gồm:
• Hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng 17.000 tỷ đồng
• Tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng ứng trước 3.400 tỷ đồng
• Ứng trước NSNN để thực hiện một số dự án cấp bách 37.200 tỷ đồng
• Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 30.200 tỷ đồng
• Phát hành thêm trái phiếu Chính phủ 20.000 tỷ đồng
• Thực hiện chính sách giảm thuế 28.000 tỷ đồng
• Tăng dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp 17.000 tỷ đồng; và các khoản chi kích cầu khác.
Chính sách hỗ trợ lãi suất đã thể hiện rõ vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ Đến tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của toàn hệ thống ngân hàng đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó, dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước là 61.048 tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454 tỷ đồng, và hộ kinh doanh là 68.605 tỷ đồng.
Sau thành công của gói kích cầu thứ nhất, Chính phủ đã thông qua gói kích cầu thứ hai theo Quyết định 443/QĐ-TTg, có hiệu lực từ ngày 1/4/2009 đến 31/12/2011 Gói này hỗ trợ lãi suất 4%/năm cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn bằng đồng Việt Nam nhằm đầu tư mới vào sản xuất kinh doanh và phát triển kết cấu hạ tầng Thời gian hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng cho các khoản vay theo hợp đồng tín dụng ký kết trước và sau ngày 1/4/2009.
Các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và công ty tài chính phải thực hiện hỗ trợ lãi suất theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Thủ tướng nhấn mạnh rằng các tổ chức này không được từ chối hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay đủ điều kiện và cần có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng để đảm bảo quy trình vay diễn ra thuận lợi, an toàn và đúng đối tượng.
Thông tin trên vừa được Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cho biết tại buổi họp báo Chính phủ (30/10/2009)
Vào ngày 25/11/2009, chính phủ thông báo sẽ không triển khai gói kích cầu số 2, điều này dự kiến sẽ ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.