1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam.

228 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 228
Dung lượng 5,28 MB

Cấu trúc

  • Người hướng dẫn khoa học:

  • LỜI CAM ĐOAN

  • LỜI CẢM ƠN

  • MỤC LỤC

  • CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 25

  • CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 61

  • CHƯƠNG 4: MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 88

  • CHƯƠNG 5: HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM 130

  • DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 150

  • Từ tiếng Anh

  • DANH MỤC HÌNH

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • 2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

    • 2.1 Mục tiêu nghiên cứu

    • 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 3.1 Đối tượng nghiên cứu

    • 3.2 Phạm vi nghiên cứu

  • 4. Câu hỏi nghiên cứu

  • 5. Những đóng góp mới của luận án

  • 6. Kết cấu của luận án

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

  • 1.2 Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế

    • 1.2.1 Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế tác động đến nợ công bền vững

    • 1.2.2 Nghiên cứu về nợ công bền vững tác động đến tăng trưởng kinh tế

  • Bảng 1.1: Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm giữa nợ công và TTKT

  • 1.3 Khoảng trống nghiên cứu

  • CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

    • 2.1.1 Khái niệm về nợ công và nợ công bền vững

  • Hình 2.1: Mối quan hệ giữa ngưỡng nợ công và tăng trưởng GDP

    • 2.1.2 Các tiêu chí đánh giá nợ công bền vững

    • 2.1.3 Phương pháp đánh giá nợ công bền vững

  • Hình 2.2: Mô hình cây nhị phân

  • Bảng 2.1: Ngưỡng nợ chuẩn được áp dụng trong phân tích DSF

  • Bảng 2.2: Ưu nhược điểm của các phương pháp đánh giá NCBV

  • 2.2 Tổng quan về tăng trưởng kinh tế

    • 2.2.1 Khái niệm

    • 2.2.2 Phương pháp đo lường

    • 2.2.3 Phân loại

  • 2.3 Lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế

    • 2.3.1 Tăng trưởng kinh tế tác động đến nợ công bền vững

    • 2.3.2 Nợ công bền vững tác động đến tăng trưởng kinh tế

  • Hình 2.3: Tác động của nợ công tới TTKT

  • CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 3.1.1 Giới thiệu chung về phương pháp chỉ số

  • Hình 3.1: Các bước tính chỉ số tổng hợp

    • 3.1.2 Lựa chọn cách thức chuẩn hóa số liệu để đo lường nợ công bền vững

    • 3.1.3 Xây dựng chỉ số nợ công bền vững (DSI) dựa trên chuẩn hóa min - max

  • Bảng 3.1: Tổng hợp các ngưỡng nợ cho các nhóm nước giai đoạn 2000 - 2018

  • Bảng 3.2: Số liệu giả định cho 3 quốc gia X, Y, Z trong vòng 3 năm

  • Bảng 3.3: Kết quả DSI của quốc gia X, Y, Z trong vòng 3 năm

  • 3.2 Mô hình ước lượng mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế

    • 3.2.1 Mô hình VAR

    • 3.2.2 Mô hình VECM

    • 3.2.3 Quy trình ước lượng

  • Hình 3.2: Quy trình ước lượng VAR/VECM mối quan hệ giữa các biến

  • CHƯƠNG 4 MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

    • 4.1.1 Kết quả tính toán chỉ số nợ công bền vững (DSI)

  • Bảng 4.1: Top 10 quốc gia có DSI tốt nhất trên thế giới giai đoạn 2000 - 2018

  • Hình 4.1: DSI bình quân của thế giới và các nhóm nước theo thu nhập thời kỳ 2000 - 2018

  • Bảng 4.2: Đóng góp của các chỉ số thành phần trong chỉ số tổng hợp DSI bình quân của thế giới thời kỳ 2000 - 2018

    • 4.1.2. Mối quan hệ tổng thể giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế

  • Hình 4.3: Biểu đồ điểm TTKT và DSI của các nước thời kỳ 2000 - 2018

    • 4.1.3 Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế theo từng nhóm nước

  • Hình 4.4: TTKT bình quân và DSI bình quân của nhóm nước HI thời kỳ 2000

  • Hình 4.5: Biểu đồ điểm TTKT và DSI của nhóm nước HI thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.6: TTKT bình quân và DSI bình quân của nhóm nước UMI thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.7: Biểu đồ điểm TTKT và DSI của nhóm nước UMI thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.8: TTKT bình quân và DSI bình quân của nhóm nước LMI thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.9: Biểu đồ điểm TTKT và DSI của nhóm nước LMI thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.10: TTKT bình quân và DSI bình quân của nhóm nước LI thời kỳ 2000

  • Hình 4.11: Biểu đồ điểm TTKT và DSI của nhóm nước LI thời kỳ 2000 - 2018

    • 4.1.4 Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia

  • Hình 4.12: TTKT và DSI của Trung Quốc thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.13: TTKT và DSI của Mỹ thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.14: TTKT và DSI của Anh thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.15: TTKT và DSI của Ấn Độ thời kỳ 2000 - 2018

  • Hình 4.16: TTKT và DSI của Campuchia thời kỳ 2000 - 2018

  • 4.2 Phân tích lượng hóa mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế

    • 4.2.1 Mô hình ước lượng và giả thuyết nghiên cứu

    • 4.2.2 Dữ liệu nghiên cứu và mô tả thống kê các biến

  • Bảng 4.3: Mô tả thống kê hai biến TTKT (g) và chỉ số nợ công bền vững (DSI)

    • 4.2.3 Kết quả ước lượng

  • Bảng 4.4: Kết quả ước lượng VAR cho mẫu tổng thể

  • Hình 4.17: Đồ thị hàm phản ứng của DSI và g trước các cú sốc trong mẫu tổng thể

  • Bảng 4.5: Bảng phân rã phương sai trong mẫu tổng thể

  • Bảng 4.6: Kết quả ước lượng VAR 1 chiều cho nhóm nước HI Biến số DSI

  • Hình 4.18: Đồ thị hàm phản ứng của DSI trước cú sốc của chính mình trong nhóm nước HI

  • Bảng 4.7: Kết quả ước lượng VAR 1 chiều cho nhóm nước UMI

  • Hình 4.19: Đồ thị hàm phản ứng của g trước cú sốc của chính mình trong nhóm nước UMI

  • Bảng 4.8: Kết quả ước lượng VAR 1 chiều cho nhóm nước LMI Biến số g

  • Hình 4.20: Đồ thị hàm phản ứng của g trước cú sốc của chính mình trong nhóm nước LMI

  • Bảng 4.9: Kết quả ước lượng VAR 1 chiều cho nhóm nước LI Biến số DSI

  • Hình 4.21: Đồ thị hàm phản ứng của DSI trước cú sốc của chính mình trong nhóm nước LI

  • Bảng 4.10: Tổng kết kết quả chạy mô hình cho mẫu tổng thể và từng nhóm nước

    • 4.2.4 Thảo luận kết quả

  • CHƯƠNG 5 HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

    • 5.1.1 Thực trạng nợ công Việt Nam

  • Bảng 5.1: Nợ công Việt Nam từ 2011 - 2018

  • Bảng 5.2: Nợ công/người và GDP/người của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018

  • Bảng 5.3: Cơ cấu nợ công theo các cấp giai đoạn 2011 - 2018

  • Bảng 5.4: Cơ cấu giữa nợ trong nước và nợ nước ngoài của Chính phủ giai đoạn 2011 - 2018

  • Bảng 5.5: Kỳ hạn và lãi suất bình quân của trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011 - 2018

  • Hình 5.1: Mô hình quản lý nợ công ở Việt Nam

  • Hình 5.2: Các mô hình quản lý nợ công phù hợp theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế

    • 5.1.2 Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

  • Hình 5.3: TTKT và DSI của Việt Nam thời kỳ 2000 - 2018

  • 5.2 Một số hàm ý chính sách liên quan đến mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam

    • 5.2.1 Mở rộng, nâng cấp các chỉ số được sử dụng trong quản lý nợ công

    • 5.2.2 Điều chỉnh nợ công bền vững một cách hợp lý trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế

    • 5.2.3 Cải cách thể chế về quản lý nợ công

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Tiếng Anh

  • PHỤ LỤC

  • PHỤ LỤC 2: QUY TẮC CÂN BẰNG NGÂN SÁCH NHIỀU THỜI KỲ

Nội dung

Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam.Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam.Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam.Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam.Mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam.

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Nghiên cứu về nợ công bền vững

Nghiên cứu về NCBV (Năng lực cạnh tranh bền vững) tập trung vào ba chủ đề chính: định nghĩa NCBV, phương pháp đánh giá NCBV và tác động của NCBV đến các yếu tố khác trong nền kinh tế.

NCBV là yếu tố quan trọng trong việc các tổ chức tài chính quốc tế cấp vay cho chính phủ, với nợ công được coi là bền vững khi có thể hoàn trả mà không cần điều chỉnh lớn trong ngân sách hoặc tuyên bố vỡ nợ (UNCTAD, 2016; IMF, 2013; ECB, 2012) Tại Việt Nam, theo Luật Quản lý nợ công 2017, nợ công bền vững khi các chỉ tiêu an toàn không bị vi phạm, quan điểm này cũng được các nhà hoạch định chính sách sử dụng (Debrun, 2017) Nợ công càng cao thì khả năng kém bền vững càng lớn Để đánh giá tính bền vững của nợ công, các nghiên cứu thường áp dụng phương pháp cây nhị phân của Manasse và Roubini (2005), khung phân tích nợ bền vững (DSF) của IMF, và phương pháp kiểm định tính dừng của Corsetti và Roubini (1991).

Cây nhị phân, được Manasse và Roubnini (2005) phát triển dựa trên quy tắc kinh nghiệm, là phương pháp phân tích rủi ro nợ của 47 nền kinh tế mới nổi từ 1970 đến 2002 Phương pháp này sử dụng chuỗi tiêu chuẩn với hai kết cục, cho phép xác định khả năng rơi vào khủng hoảng nợ quốc gia dựa trên đặc điểm nợ công của từng quốc gia Lan (2017), Nursechafia và Muthohharoh (2014) đã áp dụng phương pháp này để đánh giá tình trạng nợ công tại Việt Nam và Indonesia TRG (2020) đã sử dụng cây nhị phân để đánh giá nguy cơ vỡ nợ của Argentina, Ecuador và Li-băng Gabriele (2019), Zenios và Panyi (2021) đã nâng cấp phương pháp này thành hệ thống cảnh báo sớm (EWS) nhằm cảnh báo rủi ro khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng, với phân tích chi tiết sẽ được trình bày trong Chương 2.

Khung nợ bền vững (DSF) là phương pháp đánh giá toàn diện nhất về nợ công bền vững (NCBV) tính đến thời điểm hiện tại DSF được phát triển từ kết quả nghiên cứu chung của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) từ năm trước.

Kể từ năm 2000, Khung Đánh giá Nợ Công (DSF) đã được áp dụng không chỉ cho các nước thu nhập thấp mà còn cho các nền kinh tế mới nổi và phát triển Trong DSF, các biến liên quan đến nợ công sẽ được dự báo trong khoảng thời gian 5 năm, với hai kịch bản là bối cảnh tiêu chuẩn và bối cảnh có cú sốc Các giá trị dự báo sẽ được so sánh với một ngưỡng nhất định; nếu vượt quá ngưỡng đó theo hướng tiêu cực, quốc gia đó sẽ không đáp ứng tiêu chuẩn Số lượng tiêu chuẩn không được đáp ứng càng nhiều, mức độ rủi ro càng cao Hàng năm, IMF công bố kết quả đánh giá nợ công của các quốc gia thành viên dựa trên khung DSF, và WB sử dụng kết quả này để phân bổ các khoản vay Các quốc gia có rủi ro thấp sẽ nhận được 100% khoản vay tiêu chuẩn từ WB, với thời hạn 38 năm, 6 năm ân hạn và lãi suất 3,125%/năm.

Phương pháp này, do tính phức tạp của nó, thường chỉ được áp dụng bởi các tổ chức nhằm đánh giá riêng lẻ cho một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia.

Vào năm 2004, Ủy ban nghiên cứu thuộc G24, một nhóm gồm 24 quốc gia đang phát triển trong IMF, đã sử dụng công cụ DSF để đánh giá tình trạng nợ công ở các quốc gia trong nhóm này Nghiên cứu của Mupunga và Ngundu (2020) từ tổ chức AERC cùng với Faure và Guerin cũng đã đóng góp vào việc phân tích vấn đề nợ công.

Vào năm 2021, BNP Paribas đã tài trợ cho việc sử dụng DSF để đánh giá NCBV tại các nước hạ Sahara, khu vực có nhu cầu vay nợ quốc tế lớn nhất toàn cầu Chương 2 sẽ cung cấp phân tích chi tiết hơn về phương pháp đánh giá NCBV thông qua DSF.

Phương pháp kiểm tra tính bền vững của nợ công dựa trên việc xác định tính dừng của biến nợ công theo chuỗi thời gian, như được đề xuất bởi Corsetti và Roubini (1991) Nếu chuỗi thời gian của nợ công không dừng, tức là tỷ lệ nợ công/GDP liên tục tăng và vượt quá giá trị hiện tại của các khoản thặng dư ngân sách trong tương lai, thì nợ công sẽ không bền vững Để khảo sát tính dừng, có ba phương pháp chính: (1) phân tích đồ thị, (2) giản đồ tự tương quan, và (3) kiểm định nghiệm đơn vị Phân tích đồ thị là phương pháp đơn giản và trực quan, thường được sử dụng để đưa ra dấu hiệu sơ bộ về tính dừng của chuỗi thời gian.

Báo cáo nợ công hàng năm của mỗi quốc gia được thực hiện theo điều khoản IV trong hiệp định thành lập IMF (Báo cáo Nhân viên Điều khoản IV) Đối với Việt Nam, báo cáo này có thể được truy cập tại đường link: https://www.imf.org/en/countries/vnm?selectedfilters=Article%20IV%20Staff%20Reports#whatsnew.

Phương pháp kiểm định nghiệm đơn vị, đặc biệt là kiểm định tính dừng ADF (Augmented Dickey-Fuller), được coi là chính xác nhất trong nghiên cứu kinh tế Corsetti và Roubini (1991) đã áp dụng phương pháp này cho 18 quốc gia OECD từ năm 1960 đến 1989, kết luận rằng các quốc gia lớn như Mỹ, Nhật Bản và Đức có khả năng duy trì mức độ NCBV trong dài hạn, trong khi các quốc gia nhỏ hơn như Ireland, Hy Lạp và Bỉ đối mặt với rủi ro do tỷ lệ nợ công trên GDP cao Tương tự, Trehan và Walsh (1991) đã nghiên cứu số liệu nợ công và thâm hụt ngân sách của Mỹ trong giai đoạn 1960 - 1984, và Caporale (1995) đã áp dụng phương pháp này cho các nước EU trong cùng thời kỳ.

Từ năm 1960 đến 1991, Makrydakis và cộng sự (1999) đã áp dụng phương pháp chuỗi dừng cho Hy Lạp trong giai đoạn 1958 - 1995, trong khi Greiner và Semmler (1999) thực hiện tương tự cho Đức từ năm 1955 đến 1994 Những nghiên cứu này là ví dụ điển hình về việc áp dụng phương pháp này cho từng quốc gia cụ thể.

Chủ đề tác động của nợ công và nợ nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế đã thu hút nhiều nghiên cứu, nhưng do thiếu thước đo tổng hợp về nợ công, các nghiên cứu thường sử dụng tỷ lệ nợ công trên GDP và nợ nước ngoài trên GDP để phân tích Một số nghiên cứu tiêu biểu như Reinhart và Rogoff (2010), Checherita và cộng sự (2010), Imbs và Rancierce (2005) đã đánh giá tác động của quy mô nợ công lên tăng trưởng Ngoài ra, quy mô nợ công cũng được xem xét trong mối quan hệ với các yếu tố như thể chế, phát triển thị trường tài chính và lạm phát, ví dụ như nghiên cứu của Tarek và Ahmed (2017) cho thấy các quốc gia có chất lượng quản trị công tốt thường có quy mô nợ công thấp.

Nghiên cứu từ năm 2021 ở 20 quốc gia đang phát triển cho thấy tham nhũng gia tăng gánh nặng nợ trong dài hạn Hauner (2008) chỉ ra rằng nợ công có tác động tích cực lẫn tiêu cực đến sự phát triển thị trường tài chính, tạo ra tài sản thanh khoản cao như trái phiếu chính phủ, nhưng cũng làm giảm sự chú ý của ngân hàng đối với sản phẩm khu vực tư nhân Về lạm phát, Aimola và Odhiamo (2020) kết luận rằng tác động của nợ công lên lạm phát khác nhau giữa các quốc gia, với phần lớn nghiên cứu cho thấy nợ công có xu hướng làm tăng lạm phát.

Nghiên cứu về NCBV tại Việt Nam và trên thế giới cho thấy đây là khái niệm tổng hợp, phụ thuộc vào nhiều biến liên quan đến nợ công Để nợ công được coi là an toàn, các biến thành phần cần duy trì xu hướng ổn định hoặc thấp hơn một ngưỡng giá trị nhất định Số lượng biến thành phần an toàn càng nhiều thì nợ công càng bền vững Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chưa xác định được mức độ NCBV theo thời gian, làm khó khăn trong việc so sánh sự bền vững của nợ công giữa các năm, đặc biệt khi các biến liên quan có sự biến động trái chiều Kết quả là, khi đánh giá tác động của NCBV lên các biến kinh tế khác, các nghiên cứu thường chỉ xem xét một số tiêu chí như quy mô nợ công và tỷ lệ nợ nước ngoài, với biến số vĩ mô chủ yếu là tăng trưởng kinh tế do mối liên hệ chặt chẽ giữa thu chi ngân sách và tăng trưởng.

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế

1.2.1 Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế tác động đến nợ công bền vững

Nhiều nghiên cứu về tác động của tăng trưởng kinh tế (TTKT) đối với nợ công bền vững (NCBV) tập trung vào tiêu chuẩn IRGD (Chênh lệch Lãi suất - Tăng trưởng) Các nghiên cứu này tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm cho thấy khi chênh lệch giữa lãi suất và tăng trưởng giảm, nợ công có xu hướng ổn định hoặc giảm trong tương lai, từ đó chỉ ra rằng nợ công quốc gia trở nên bền vững hơn Đặc biệt, do dữ liệu về tăng trưởng và lãi suất, đặc biệt là lãi suất thực, thường phong phú hơn ở các nước phát triển, nên nhóm nước này là đối tượng chính trong các nghiên cứu kiểm chứng tiêu chuẩn IRGD.

Nghiên cứu về tác động của sự thay đổi trong IRGD đến NCBV, đại diện bởi quy mô nợ/GDP, cho thấy rằng thâm hụt ngân sách ban đầu là yếu tố đóng góp lớn nhất vào sự gia tăng nợ công, ngoại trừ giai đoạn ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai Abbas và cộng sự (2011) đã phân tích dữ liệu từ 178 quốc gia thành viên IMF kể từ năm 2001 và phát hiện rằng trong số 60 quốc gia có nợ công cao (trên 60% GDP), chênh lệch lãi suất và tăng trưởng đóng góp nhiều nhất vào sự thay đổi quy mô nợ công với 18,1%, trong khi thâm hụt ngân sách ban đầu chỉ đóng góp 8,9% Đối với nhóm nhỏ hơn có tốc độ tăng nợ công nhanh, chênh lệch lãi suất và tăng trưởng vẫn dẫn đầu với 14,9%, so với 12,5% của thâm hụt ngân sách ban đầu.

Westphal (2021) đã nghiên cứu chênh lệch lãi suất và tăng trưởng kinh tế tại 12 quốc gia Euro từ 1985 đến 2017, cho thấy rằng ở những quốc gia có tỷ lệ nợ công trên GDP lớn hơn 90%, lãi suất thường cao hơn mức tăng trưởng trung bình 1,9%, trong khi các quốc gia có tỷ lệ nợ công thấp hơn 90% chỉ ghi nhận con số 0,4% Trong thời kỳ suy thoái, nhóm quốc gia có nợ công cao có mức chênh lệch trung bình là 3,7, trong khi nhóm quốc gia có nợ công thấp chỉ đạt 2,4 Phát hiện này chỉ ra rằng khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn lãi suất, tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ cao hơn, cho thấy mức độ khả năng chi trả nợ công đang giảm sút.

Nghiên cứu của Barrett (2018) cho thấy mối quan hệ giữa chênh lệch lãi suất và tốc độ tăng trưởng kinh tế (TTKT) ảnh hưởng đến mức trần nợ công Trong dài hạn, nếu chênh lệch lãi suất âm lớn, mức trần nợ công sẽ được nâng cao, cho thấy nợ công trở nên bền vững hơn khi tốc độ tăng trưởng vượt lãi suất Ngược lại, trong ngắn hạn, mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lãi suất và trần nợ công có thể xảy ra, khi lãi suất tăng do chính phủ vay nhiều để chi tiêu, đặc biệt trong các nước phát triển với chi tiêu công hiệu quả Điều này không chỉ giúp phục hồi nền kinh tế sau suy thoái mà còn củng cố khả năng trả nợ của chính phủ, dẫn đến việc trần nợ công cũng gia tăng.

Một số nghiên cứu đã xem xét tác động ngược lại từ NCBV lên chênh lệch lãi suất và tốc độ tăng trưởng kinh tế Turner và Spinelli (2012) đã chỉ ra rằng không chỉ có tác động một chiều từ chênh lệch lãi suất đến quy mô nợ công, mà còn có mối quan hệ ngược lại ở các quốc gia thành viên OECD.

Nghiên cứu năm 2012 cho thấy mức lãi suất thấp và sự chênh lệch nhỏ giữa lãi suất và tốc độ tăng trưởng đã giúp duy trì ổn định quy mô nợ công ở các nước OECD trong giai đoạn 1995 - 2005 Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế sau đó đã tạo ra nhiều thách thức mới cho tình hình nợ công.

Giai đoạn 2008 - 2009 đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của nợ công, dẫn đến việc lãi suất mà chính phủ phải trả cho các khoản vay tăng cao Điều này tạo ra một khoảng cách lớn giữa lãi suất và tốc độ tăng trưởng kinh tế Kết quả cho thấy, nếu chênh lệch giữa lãi suất và tăng trưởng nhỏ, quy mô nợ công sẽ ở mức thấp; ngược lại, nếu khoảng cách này lớn, nợ công sẽ tăng cao.

Nghiên cứu của Shloka (2021) chỉ ra rằng có mối quan hệ nhân quả giữa chênh lệch lãi suất và tốc độ tăng trưởng kinh tế Ấn Độ, tuy nhiên, việc gia tăng tính bền vững của nợ công không nhất thiết dẫn đến tăng trưởng cao hơn So sánh với các quốc gia khác, Shloka (2021) cho thấy rằng khi chênh lệch âm giữa lãi suất và tốc độ tăng trưởng xảy ra do nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, mức độ gia tăng bền vững nợ công sẽ cao hơn so với những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng thấp mặc dù có cùng chênh lệch lãi suất.

Các nghiên cứu cho thấy khi tốc độ tăng trưởng kinh tế (TTKT) gia tăng, mức độ nợ công bền vững (NCBV) cũng sẽ tăng theo Sự bền vững này thường được biểu hiện qua tỷ lệ nợ công trên GDP ổn định hoặc giảm Tuy nhiên, mối quan hệ này chủ yếu tồn tại trong dài hạn, còn trong ngắn hạn có thể có những kết quả khác biệt.

1.2.2 Nghiên cứu về nợ công bền vững tác động đến tăng trưởng kinh tế

Tác giả nhận thấy rằng chưa có nghiên cứu trực tiếp nào về mối quan hệ giữa NCBV và TTKT với NCBV được đo lường tổng thể qua nhiều thành phần Điều này xảy ra do thiếu một thước đo tổng thể cho NCBV, khiến các nhà kinh tế học gặp khó khăn trong việc phân tích mối quan hệ này Tuy nhiên, khi xem xét một tiêu chí cụ thể trong NCBV là tỷ lệ nợ công/GDP, có ba quan điểm về tác động của tiêu chí này lên TTKT: tác động tuyến tính (có thể tích cực hoặc tiêu cực), không phát hiện ra tác động, và tác động phi tuyến tính (bao gồm cả tác động tích cực và tiêu cực, với tính chất tác động có thể đảo chiều khi tỷ lệ nợ công/GDP vượt qua ngưỡng nhất định) Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công/GDP và TTKT là phi tuyến tính.

Mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến không thay đổi khi các biến thay đổi giá trị, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế Các nhà kinh tế học cổ điển tin rằng nợ công có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế Họ lập luận rằng khi chính phủ sử dụng nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách, điều này không chỉ làm tăng gánh nặng cho các thế hệ tương lai mà còn giảm đầu tư tư nhân do áp lực gia tăng lãi suất, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Modigliani (1961) lập luận rằng khi chính phủ vay tiền, họ sẽ phải tăng thuế để trả lãi, dẫn đến việc giảm thu nhập của người dân Điều này có nghĩa là tổng nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế không thay đổi, chỉ đơn giản là chuyển từ “túi người này sang túi người kia” Hơn nữa, thu nhập kỳ vọng giảm do tăng thuế cũng không khuyến khích đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Ông nhấn mạnh rằng “nếu chính phủ đánh thuế, thì người dân sẽ có ít tiền hơn, vì vậy mỗi đồng chính phủ chi tiêu sẽ được cân bằng bằng một đồng không được chi ở chỗ khác”.

Friedman (1988) cho rằng sự gia tăng nợ công do thâm hụt ngân sách sẽ tạo áp lực làm tăng lãi suất, từ đó giảm đầu tư tư nhân Ông hàm ý rằng nợ công tăng giống như chi tiêu công chèn ép đầu tư tư nhân, dẫn đến sự suy giảm trong tăng trưởng kinh tế Các nhà kinh tế học sau này cũng đã khẳng định mối liên hệ này trong các nghiên cứu dài hạn giữa quy mô nợ công và tăng trưởng kinh tế (Elmendorf & Mankiw, 1999; Gale & Orszag, 2003; Baldacci & Kumar, 2010).

Kumar và Woo (2010) đã chỉ ra rằng nợ công cao có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Đối với các nước phát triển, khi tỷ lệ nợ công trên GDP tăng thêm 10 điểm phần trăm, mức tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người giảm từ 0,15 đến 0,20 điểm phần trăm.

Presbitero (2005) cho rằng gánh nặng nợ nần lớn có tác động tiêu cực đến tăng trưởng GDP, dẫn đến mối quan hệ nghịch biến giữa nợ và tăng trưởng Nghiên cứu của ông, dựa trên mô hình dữ liệu bảng động, cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch tuyến tính giữa nợ công và tăng trưởng ở các nước đang phát triển So với các nghiên cứu khác chỉ ra mối quan hệ phi tuyến tính hình chữ U ngược, nghiên cứu này xác nhận rằng ở các nước đang phát triển có mức nợ cao, mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng chủ yếu nằm ở nhánh bên phải của chữ U ngược, tức là quan hệ tỷ lệ nghịch Ngược lại, ở nhánh bên trái của chữ U, nơi nợ và tăng trưởng có quan hệ tỷ lệ thuận, thường xảy ra ở các nước công nghiệp hóa và ít mắc nợ.

Khoảng trống nghiên cứu

Do hạn chế trong việc định lượng tính bền vững của nợ công, các nghiên cứu thường chỉ sử dụng một số tiêu chí như tỷ lệ nợ công/GDP và nợ công nước ngoài/GDP Những tiêu chí này được áp dụng để phân tích mối quan hệ với tăng trưởng GDP, tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người, hoặc GDP thực tế Nói cách khác, các nghiên cứu hiện tại chỉ tập trung vào một thành phần trong tính bền vững của nợ công để đánh giá mối liên hệ với tình hình kinh tế.

Thiếu phương pháp định lượng NCBV gây khó khăn cho các nhà kinh tế trong việc phân tích nhân tố này và mối quan hệ của nó với TTKT Tình trạng này cũng diễn ra trong các nghiên cứu tại Việt Nam, nơi mà các nghiên cứu về NCBV chủ yếu áp dụng phương pháp cây nhị phân và khung phân tích NCBV của IMF để đánh giá nợ công (UBKTQH, 2013; Lan, 2017; Thành & Tuấn, 2017) Do đó, tương tự như nghiên cứu toàn cầu, các nghiên cứu trong nước chủ yếu tập trung vào quy mô nợ công và tỷ lệ nợ nước ngoài liên quan đến tăng trưởng kinh tế (Thành, 2012; Hùng & cộng sự, 2014; Anh & Hùng).

Năm 2015, các nghiên cứu chưa xem xét tổng thể NCBV như một chủ thể độc lập và thiếu phương pháp định lượng mức độ NCBV Điều này dẫn đến việc chỉ đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam tại một thời điểm nhất định, mà không chỉ ra sự thay đổi của mức độ NCBV theo thời gian.

Luận án sẽ phát triển một phương pháp chỉ số nhằm đo lường mức độ bền vững của nợ công, từ đó phân tích mối quan hệ giữa nợ công bền vững (NCBV) và tăng trưởng kinh tế (TTKT) trên quy mô toàn cầu cũng như giữa các nhóm nước theo thu nhập.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Tổng quan về nợ công bền vững

2.1.1 Khái niệm về nợ công và nợ công bền vững

Nợ công hiện đại bắt nguồn từ sự ra đời của hiến pháp và chính phủ đại diện, nhằm hạn chế quyền lực của chế độ quân chủ phương Tây, được khởi xướng bởi các cuộc cách mạng ở Anh năm 1688 và Mỹ năm 1776 Những cuộc cách mạng này do tầng lớp tư bản và tinh hoa thực hiện, phản ánh sự chán ghét đối với việc tăng thuế và chi tiêu hoang phí của giai cấp quý tộc Trước đó, nhà nước phong kiến chỉ cần tăng thuế hoặc tịch thu tài sản để bù đắp cho chi tiêu vượt mức Tuy nhiên, sau các cuộc cách mạng, quyền lực của quý tộc bị hạn chế và nhà nước buộc phải vay nợ để tài trợ cho các chi tiêu công cộng Ngân hàng Trung ương Anh, ra đời năm 1694, ban đầu phục vụ cho việc giao dịch trái phiếu chính phủ, và theo sau là sự ra đời của nhiều ngân hàng trung ương khác ở châu Âu, với mục đích tương tự Từ việc hỗ trợ giao dịch nợ công, các ngân hàng trung ương đã phát triển nhiều công cụ tài chính và chức năng, trở thành các ngân hàng trung ương hiện đại ngày nay.

Nợ công, hay còn gọi là nợ chính phủ, là tổng giá trị các khoản nợ của chính phủ, bao gồm nợ từ các cơ quan chính phủ ở cả cấp trung ương và địa phương Nguồn gốc của nợ công xuất phát từ việc thu nhập của chính phủ, chủ yếu là thuế, không đủ để bù đắp chi tiêu, dẫn đến thâm hụt ngân sách Để tài trợ cho thâm hụt này, chính phủ phải vay nợ, và khoản vay nợ ròng hàng năm sẽ tích lũy thành tổng nợ công của quốc gia Các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế cũng có những quan điểm riêng về nợ công.

Theo IMF, nợ công được định nghĩa rộng rãi là nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của chính phủ trung ương, chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập có nguồn vốn hoạt động từ ngân sách nhà nước hoặc có trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà nước Trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước có trách nhiệm thanh toán Bên cạnh đó, nợ công cũng bao gồm các khoản nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh, như các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) (IMF, 2015a).

Theo WB, nợ công bao gồm tất cả các nghĩa vụ trả nợ của khu vực công, bao gồm Chính phủ và các tổ chức công, trong đó khu vực chính phủ bao gồm chính quyền trung ương và địa phương Các tổ chức công bao gồm cả tổ chức phi tài chính và tổ chức tài chính công, như Ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại nhà nước Ngoài ra, nợ của các thể chế độc lập có nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách nhà nước cũng được tính vào nợ công, và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước sẽ chịu trách nhiệm trả nợ cho các thể chế này (WB, 2017).

Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) xem xét khoản nợ trong quỹ lương hưu quốc gia như một phần của nợ công, với quỹ lương hưu quốc gia ở Việt Nam do Bảo hiểm xã hội quốc gia quản lý Nếu giá trị hiện tại của quỹ không đủ để chi trả lương hưu trong tương lai, khoản thiếu hụt sẽ được tính vào nợ công (UNCTAD, 2008) Theo Điều 4 của Luật Quản lý nợ công năm 2017, nợ công tại Việt Nam bao gồm nợ Chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương Nợ Chính phủ phát sinh từ các khoản vay trong và ngoài nước, trong khi nợ được chính phủ bảo lãnh liên quan đến các khoản vay của doanh nghiệp và ngân hàng chính sách do chính phủ bảo lãnh Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vay.

Nợ công được định nghĩa khác nhau tùy theo quan điểm của từng quốc gia, với một số thành phần được loại bỏ theo quy định của các tổ chức quốc tế Chẳng hạn, Bulgaria và Macedonia không tính nợ của Ngân hàng Trung ương trừ khi được chính phủ bảo lãnh, trong khi Thái Lan và Macedonia loại bỏ nợ của các ngân hàng thương mại nhà nước và các định chế tài chính nhà nước Tại Việt Nam, nợ của các doanh nghiệp nhà nước cũng được loại trừ khỏi nợ công, trừ khi có sự bảo lãnh của chính phủ (UBTVQH, 2017).

Khái niệm nợ công của các tổ chức quốc tế như IMF, WB, và UNCTAD rất chi tiết và bao trùm, không chỉ bao gồm nợ của Chính phủ mà còn cả các khoản nợ mà chính phủ kiểm soát hoặc chịu trách nhiệm liên đới Trong khi đó, khái niệm nợ công tại Việt Nam hẹp hơn, chỉ tập trung vào các khoản nợ trực tiếp liên quan đến chính phủ, bao gồm nợ của các cấp chính quyền và nợ được chính phủ bảo lãnh Mặc dù nợ công thường được sử dụng thay thế cho nợ chính phủ, thuật ngữ nợ chính phủ có phạm vi hẹp hơn Phạm vi này có thể khác nhau giữa các quốc gia; một số quốc gia tính nợ chính phủ bao gồm cả nợ của chính quyền trung ương và địa phương, trong khi những quốc gia khác chỉ tính nợ của chính quyền trung ương và nợ được bảo lãnh.

Cần phân biệt giữa nợ công và nợ quốc gia, trong đó nợ công chỉ ra rằng chính phủ hoặc khu vực công chịu trách nhiệm trả nợ, còn nợ quốc gia bao gồm cả khu vực công và tư nhân Nợ quốc gia là khái niệm rộng hơn, tính cả phần vay nợ của khu vực tư nhân Cả nợ công và nợ tư nhân đều có nguồn gốc từ nợ trong nước và nợ nước ngoài Khi tổng hợp nợ công nước ngoài và nợ tư nhân nước ngoài, ta có tổng nợ nước ngoài của một quốc gia, đây là tiêu chí quan trọng để đánh giá an toàn tài chính quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

Trong luận án này, nợ công được định nghĩa theo cách hiểu của IMF, nhằm đảm bảo sự nhất quán với các nguồn dữ liệu thứ cấp từ IMF và WB.

Theo quan điểm của các nhà quản lý (Debrun, 2017), nợ được coi là bền vững khi tỷ lệ nợ trên thu nhập hoặc tổng tài sản dự kiến ổn định hoặc giảm xuống mức đủ thấp trong tương lai Ngược lại, nợ không bền vững khi tỷ lệ nợ có xu hướng tăng hoặc duy trì ở mức cao Đối với nợ công, điều này có nghĩa là nợ công được xem là bền vững nếu tỷ lệ nợ công trên GDP dự kiến ổn định hoặc giảm xuống mức thấp trong tương lai Mức nợ công mà tại đó nợ không tăng nữa, thậm chí có thể giảm, được gọi là mức NCBV.

Quan điểm về nợ công bền vững (NCBV) từ các tổ chức quốc tế như UNCTAD và IMF đều có sự tương đồng UNCTAD (2016) định nghĩa nợ công bền vững là khi một quốc gia có thể vay mượn trong tương lai mà không cần tuyên bố vỡ nợ hoặc tái cấu trúc nợ Trong khi đó, IMF, tổ chức giám sát nợ công toàn cầu, cho rằng nợ công bền vững cần có một ngân sách cân bằng khả thi về mặt kinh tế và chính trị, đảm bảo ổn định nợ công trong điều kiện bình thường và cả khi gặp cú sốc Mức nợ công này phải đi kèm với rủi ro nợ thấp và tốc độ tăng trưởng kinh tế (TTKT) ở mức chấp nhận được.

Nợ công cao có thể dẫn đến sự không bền vững trong chính sách tài khóa, đòi hỏi ngân sách ban đầu phải thặng dư lớn hơn để duy trì khả năng trả nợ Theo IMF (2017a), tính bền vững của nợ công phụ thuộc vào khả năng dự báo diễn biến nợ, tính khả thi của điều chỉnh chính sách, và các rủi ro liên quan đến hồ sơ nợ Các yếu tố như mức tín nhiệm của trái phiếu chính phủ, cấu trúc kỳ hạn nợ, cấu trúc đồng tiền nợ, sự sẵn có của tài sản thanh khoản, và cấu trúc chủ nợ đều ảnh hưởng đến rủi ro nợ công Khi nợ công tăng cao, yêu cầu về thặng dư ngân sách ban đầu sẽ trở nên khó khăn hơn, làm tăng nguy cơ không bền vững của nợ công.

IMF và WB (2012) đã hợp tác để đánh giá an toàn nợ công quốc gia, xác định rằng vị thế nợ bền vững khi quốc gia có khả năng thanh toán đầy đủ nghĩa vụ nợ (gốc và lãi) mà không cần đến biện pháp tài trợ ngoại lệ như gia hạn hay xóa nợ, cũng như không phải thực hiện những điều chỉnh lớn trong cân đối thu nhập và chi tiêu.

ECB (2012) đánh giá NCBV dựa trên khả năng hoàn trả nợ của chính phủ, yêu cầu duy trì khả năng trả nợ và tính thanh khoản EU (2016) định nghĩa tài khóa bền vững tương tự, nhấn mạnh khả năng duy trì chi tiêu và thu thuế mà không làm tăng rủi ro vỡ nợ Liên Hợp Quốc (2005) mô tả NCBV là mức nợ cho phép đạt Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ mà không làm gia tăng tỷ lệ nợ, hướng tới việc đạt các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 Các nhà nghiên cứu có quan điểm khác nhau về NCBV; Buiter (1985) cho rằng nợ công bền vững khi thặng dư ngân sách tương lai bằng giá trị nợ hiện tại, trong khi Papadopoulos và Sidiropoulos (1999) nhấn mạnh nợ hiện tại cần được bù đắp bởi thặng dư trong tương lai Một phương pháp khác đánh giá tính bền vững tài khóa qua mối quan hệ giữa thu và chi của chính phủ, yêu cầu cân bằng dài hạn giữa chi tiêu và thu ngân sách (Tantos, 2012).

Năm 2002, nghiên cứu đã chỉ ra rằng các điều kiện cần thiết cho NCBV bao gồm cả khoản thu và khoản chi, trong đó có các khoản thanh toán lãi, đều hướng tới việc đạt được một giá trị bền vững trong dài hạn.

Tổng quan về tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng quy mô sản lượng quốc gia theo thời gian, phản ánh cải thiện mức sống qua sự thay đổi sản lượng bình quân đầu người Để đo lường tổng sản lượng, các nhà kinh tế sử dụng Tổng sản phẩm trong nước (GDP), một chỉ số quan trọng để xác định tổng giá trị thị trường của hàng hóa và dịch vụ cuối cùng trong một quốc gia trong một thời kỳ nhất định Khái niệm GDP đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 17 và được hoàn thiện theo thời gian Nhận thức được tầm quan trọng của chỉ số này, Liên Hợp Quốc đã công bố hướng dẫn đầu tiên về hệ thống thu nhập quốc gia vào năm 1953, nhằm thống nhất cách tính GDP giữa các quốc gia, với bản cập nhật mới nhất vào năm 2008 UN công nhận ba phương pháp chính để tính GDP: phương pháp chi tiêu, phương pháp thu nhập và phương pháp sản xuất.

Tổng thu nhập quốc dân (GNP) là chỉ số đo lường tổng sản lượng và thu nhập của một nền kinh tế, được tính toán từ GDP Cụ thể, GNP phản ánh tổng thu nhập của công dân một quốc gia từ việc cung ứng các yếu tố sản xuất thuộc sở hữu của họ trong một khoảng thời gian nhất định GNI được xác định bằng cách lấy GDP trừ đi tổng thu nhập lần đầu phải trả, sau đó cộng với tổng thu nhập lần đầu nhận được Đối với Việt Nam, GNI được tính bằng GDP Việt Nam trừ đi thu nhập của người lao động nước ngoài tại Việt Nam trong hơn một năm, cộng với thu nhập của người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài trên một năm, trừ đi thu nhập từ các yếu tố sản xuất phải trả cho các đơn vị không thường trú, và cộng với thu nhập từ các yếu tố sản xuất nhận được từ các đơn vị không thường trú.

Do tính toán GNP phức tạp, chỉ số GDP thường được sử dụng phổ biến hơn và được công bố định kỳ Hơn nữa, GNP khó phân chia theo các khu vực và ngành kinh tế, điều này làm cho việc thực hiện các thống kê chuyên sâu trở nên khó khăn.

Dưới góc độ nợ công, GNP bao gồm thu nhập từ nước ngoài của người trong nước, nhưng việc đánh thuế phần thu nhập này gặp nhiều khó khăn Chính phủ thường muốn tránh đánh thuế hai lần để khuyến khích di chuyển nguồn nhân lực Do đó, GDP thường được sử dụng để đại diện cho quy mô nợ công của một quốc gia, từ đó gián tiếp phản ánh khả năng trả nợ của quốc gia đó.

TTKT, khi xem xét trong ngắn hạn, phản ánh sự thay đổi của GDP thực tế qua các năm Công thức tính tỷ lệ tăng trưởng dựa trên số liệu GDP thực tế của hai năm liên tiếp được thể hiện như sau: g = Yt - Yt-1.

100% t 1 trong đó: Yt là GDP thực tế năm t, Yt-1 là GDP thực tế năm t-1

Để có cái nhìn chính xác hơn về mức sống của người dân, việc có số liệu chính xác về dân số là rất quan trọng Tốc độ tăng trưởng kinh tế (TTKT) sẽ phản ánh thực tế hơn nếu sử dụng chỉ số GDP thực tế bình quân đầu người để tính toán, với công thức g = y t - y t - 1.

100% pct y t 1 trong đó:yt là GDP thực tế bình quân đầu người năm t, yt-1 là GDP thực tế bình quân đầu người năm t-1

Nếu số liệu GDP thực tế, đặc biệt là GDP thực tế bình quân đầu người, không được cập nhật trong hai thời kỳ khác nhau, chúng ta có thể áp dụng công thức tính tốc độ tăng trưởng bình quân trong kỳ để đánh giá sự phát triển kinh tế.

Tốc độ tăng trưởng bình quân trong kỳ (ga) được tính bằng cách so sánh GDP thực tế cuối kỳ (Yn) với GDP thực tế đầu kỳ (Y0) trong một khoảng thời gian n năm Trong dài hạn, tăng trưởng kinh tế (TTKT) phản ánh sự thay đổi của GDP tiềm năng, tức là GDP khi nền kinh tế hoạt động ở mức toàn dụng nguồn lực Đánh giá TTKT thường dựa vào năng lực sản xuất của quốc gia, được thể hiện qua ước lượng GDP tiềm năng, tuy nhiên giá trị này có thể khác nhau tùy theo phương pháp và dữ liệu sử dụng Để đảm bảo tính nhất quán với số liệu nợ công từ năm 2000 đến 2018, luận án sẽ sử dụng tốc độ tăng trưởng dựa trên GDP thực tế hàng năm, đã loại bỏ ảnh hưởng của lạm phát, nhằm cung cấp một cái nhìn chính xác về sự biến động kinh tế theo thời gian.

Dựa vào tiêu chí thời gian, tăng trưởng kinh tế có thể được phân thành hai loại: tăng trưởng ngắn hạn và tăng trưởng dài hạn Tăng trưởng ngắn hạn chủ yếu do tổng cầu tạo ra, khi năng lực sản xuất trong ngắn hạn đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, thường xảy ra khi nguồn lực sản xuất còn dư thừa Tăng trưởng này được đo lường qua sự thay đổi của GDP thực tế theo năm hoặc theo quý Ngược lại, tăng trưởng dài hạn chủ yếu được thúc đẩy bởi tổng cung, khi năng lực sản xuất của nền kinh tế đạt đến mức bền vững trong thời gian dài.

Tăng trưởng kinh tế dài hạn phụ thuộc vào việc tối ưu hóa nguồn lực sản xuất, với GDP tiềm năng là chỉ số chính để đánh giá sự thay đổi qua các giai đoạn, chẳng hạn như một thập kỷ (Fazzari & cộng sự, 2018).

Tăng trưởng kinh tế có thể được phân loại thành tăng trưởng tuyệt đối và tăng trưởng tương đối Tăng trưởng tuyệt đối được xác định qua sự thay đổi GDP thực tế giữa hai năm liên tiếp, nhưng phương pháp này có thể gây hiểu lầm về tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế khi không xem xét quy mô nền kinh tế Ví dụ, nếu nền kinh tế A có GDP thực tế từ 100 lên 110, thì tăng trưởng tuyệt đối là 10, trong khi nền kinh tế B từ 10.000 lên 10.100 có tăng trưởng tuyệt đối là 100 Tuy nhiên, nhìn vào hai con số này, có thể nhầm lẫn rằng nền kinh tế B tăng trưởng nhanh hơn Để có cái nhìn chính xác hơn, tốc độ tăng trưởng tương đối sẽ tính đến quy mô nền kinh tế bằng cách chia tăng trưởng tuyệt đối cho GDP năm trước, cho thấy nền kinh tế A tăng 10% và nền kinh tế B chỉ tăng 1%.

Tăng trưởng kinh tế có thể được chia thành hai loại: tăng trưởng bao trùm và tăng trưởng chiếm đoạt Tăng trưởng bao trùm hướng tới việc kết hợp tăng trưởng sản lượng với công bằng xã hội, giảm bất bình đẳng thu nhập và tạo cơ hội cho mọi người đóng góp vào nền kinh tế, từ đó phân phối lợi ích một cách công bằng Mục tiêu cuối cùng của tăng trưởng bao trùm là phát triển con người, gắn liền với khái niệm tăng trưởng bền vững, đảm bảo sự ổn định kinh tế mà không gây ra lạm phát cao và tạo ra việc làm đầy đủ Ngược lại, tăng trưởng chiếm đoạt đi kèm với sự gia tăng bất bình đẳng xã hội, trong đó lợi ích chủ yếu thuộc về một nhóm nhỏ, không mang lại cải thiện mức sống cho phần lớn dân số.

Tăng trưởng tương đối trong ngắn hạn, được tính toán dựa trên sự thay đổi của GDP thực tế qua từng năm, là phương pháp phổ biến nhất trong nghiên cứu kinh tế Đây là một thước đo thuần túy số học, dễ sử dụng, nhưng không xem xét các yếu tố liên quan đến bất bình đẳng và chất lượng thể chế.

Lý thuyết về mối quan hệ giữa nợ công bền vững và tăng trưởng kinh tế

2.3.1 Tăng trưởng kinh tế tác động đến nợ công bền vững

Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học cổ điển, để tránh tình trạng vỡ nợ quốc gia, điều kiện quan trọng nhất là thu nhập quốc gia phải tăng trưởng nhanh hơn lãi suất vay (Modigliani, 1961; Diamond, 1965; Barro, 1974; Blanchard, 2019) Điều này có nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia cần phải lớn hơn lãi suất mà quốc gia đó vay mượn Quy tắc này, áp dụng cho cả chính phủ và cá nhân, yêu cầu tổng giá trị hiện tại của các khoản thu phải tương đương với tổng giá trị hiện tại của các khoản chi Đối với hoạt động vay nợ của chính phủ, quy tắc này được gọi là quy tắc cân bằng ngân sách nhiều thời kỳ.

Dạng toán học của quy tắc này như sau:

Trong đó, ∆�� biểu thị sự thay đổi của tỷ lệ nợ công so với GDP trong năm t Các biến dt và dt-1 lần lượt đại diện cho tỷ lệ nợ công/GDP của năm t và năm trước đó Lãi suất thực tế được ký hiệu là rt trong năm t, trong khi gt là tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm t Cuối cùng, pbt là tỷ lệ cán cân ngân sách so với GDP trong năm t.

Từ phương trình (1), chúng ta nhận thấy:

+ Nếu rt > gt thì ∆�� > 0 hay tỷ lệ nợ công/GDP tăng theo thời gian.

Nếu tỷ lệ lãi suất thực tế (rt) nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (gt), thì tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ giảm theo thời gian, cho thấy sự bền vững về tài chính Hơn nữa, nếu tỷ lệ nợ công giảm, thì sự thay đổi của tỷ lệ này cũng sẽ giảm theo, và ngược lại.

+ Nếu pbt tăng thì ∆�� cũng giảm theo và ngược lại.

Trong trường hợp lãi suất vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế (TTKT), một chính sách nợ công vẫn có thể được coi là bền vững nếu thặng dư ngân sách ban đầu tính trên GDP tỷ lệ thuận với tổng nợ công trên GDP và hệ số phản ứng ϕt đủ lớn Hệ số phản ứng bình quân cần lớn hơn sự chênh lệch giữa lãi suất và TTKT, từ đó giúp tỷ lệ nợ trên GDP được giới hạn và dần hội tụ về một giá trị ổn định Tóm lại, nếu lãi suất lớn hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, vẫn có khả năng duy trì ngân sách cân bằng.

� thặng dư ngân sách ban đầu đủ lớn và tổng nợ tích lũy ban đầu so với GDP nhỏ hơn một ngưỡng nào đó.

Khi so sánh lãi suất thực (rt) với tăng trưởng kinh tế (gt), nếu rt > gt, cần có thặng dư ngân sách cơ bản lớn để ổn định hoặc giảm tỷ lệ nợ công trên GDP, điều này thường khó đạt được Mức nợ ban đầu càng cao thì thặng dư ngân sách cơ bản càng cần thiết Ngược lại, nếu rt < gt, nợ công sẽ tự nhiên bền vững ngay cả khi có thâm hụt ngân sách cơ bản ở một mức nhất định.

Kết luận tương tự cũng áp dụng cho nền kinh tế mở, với các công thức toán học cho cả nền kinh tế đóng và mở được trình bày chi tiết trong Phụ lục 2.

Theo lý thuyết cổ điển, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế (TTKT) tăng lên, đặc biệt so với lãi suất thực tế, tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ ổn định hoặc giảm dần, cho thấy mức độ bền vững nợ công (NCBV) đang cải thiện Điều này chứng tỏ TTKT có tác động tích cực đến bền vững nợ công Hơn nữa, nếu chính phủ duy trì thặng dư ngân sách, tổng nợ công sẽ giảm trong các giai đoạn sau, góp phần nâng cao mức độ NCBV Sự chênh lệch giữa lãi suất thực tế và TTKT là tiêu chuẩn IRGD, được sử dụng để đánh giá tính bền vững của nợ công.

Tăng trưởng kinh tế không chỉ ảnh hưởng đến NCBV qua tiêu chuẩn IRGD của lý thuyết cổ điển mà còn thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân trong và ngoài nước, theo Khan và Reihart (1990) Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vốn đầu tư tư nhân gia tăng, giúp giảm áp lực lên ngân sách công, đặc biệt trong bối cảnh phát triển mô hình đối tác công tư PPP (Muhlenkamp, 2014) Điều này dẫn đến việc giảm nợ chính phủ và lãi suất vay, tạo điều kiện cho chính phủ phát hành nợ dài hạn dễ dàng hơn Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế còn thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, tạo ra nhiều công cụ để quản lý nợ công một cách linh hoạt và hiệu quả (Ragot và Pinois, 2019) Tất cả những yếu tố này đều góp phần nâng cao mức độ NCBV.

2.3.2 Nợ công bền vững tác động đến tăng trưởng kinh tế

Nợ công có mối quan hệ phức tạp với tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng qua nhiều kênh khác nhau Cụ thể, tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế được truyền tải thông qua các kênh như đầu tư, tiêu dùng và chính sách tài khóa.

Nợ công gia tăng có mối liên hệ chặt chẽ với lạm phát, theo nghiên cứu của Simon (1944), khi nợ công tăng, lạm phát cũng có xu hướng tăng theo.

Lạm phát tăng lên khi nợ công gia tăng do chính phủ tăng chi tiêu, dẫn đến sự gia tăng tổng cầu Nếu kích thích tài khóa được áp dụng quá mức hoặc khi nền kinh tế đã gần đạt công suất tối đa, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ sẽ vượt quá khả năng cung ứng, gây ra áp lực tăng giá và dẫn đến lạm phát Hơn nữa, nợ công gia tăng có thể được tài trợ bởi Ngân hàng Trung ương, buộc ngân hàng này phải tăng cung tiền để mua trái phiếu chính phủ, từ đó cũng tạo ra rủi ro lạm phát trong dài hạn theo lý thuyết cổ điển về cung tiền.

Lạm phát gia tăng có thể gây ra biến dạng cho nền kinh tế và tạo ra chi phí không cần thiết cho cá nhân và doanh nghiệp Mặc dù lạm phát thấp và ổn định thường được coi là dấu hiệu của một nền kinh tế quản lý tốt, nhưng lạm phát lại làm thay đổi phân bổ nguồn lực, tập trung vào các ngành có mức giá tăng cao như vàng và bất động sản Nó cũng có thể làm thay đổi mức giá tương đối giữa hàng hóa trong nước và nước ngoài, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất nhập khẩu Hơn nữa, lạm phát dẫn đến tăng lãi suất, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc mở rộng đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng GDP.

Nợ công có ảnh hưởng lớn đến kỳ vọng kinh tế của người dân Khi nợ công gia tăng, người dân thường kỳ vọng rằng chính phủ sẽ giảm chi tiêu công và tăng thuế trong tương lai để bù đắp cho nợ nần hiện tại, dẫn đến việc họ tiết kiệm nhiều hơn Điều này, theo giả thuyết cân bằng Ricardo, khiến nợ công không tác động tích cực đến tổng cầu Ngược lại, trong thời kỳ suy thoái, tăng cường chi tiêu công có thể làm tăng nợ công nhưng lại hỗ trợ phục hồi kinh tế, thúc đẩy kỳ vọng lạc quan từ doanh nghiệp và người tiêu dùng Sự lạc quan này khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn và người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn, từ đó gia tăng tổng cầu Tuy nhiên, trong dài hạn, nợ công cao có thể tạo ra bất định về chính sách tài khóa, dẫn đến kỳ vọng tiêu cực và giảm chi tiêu đầu tư.

Nợ công tác động đến thị trường kinh tế thông qua lãi suất, thể hiện qua hiện tượng lấn át, khi tăng chi tiêu chính phủ dẫn đến lãi suất tăng Điều này xảy ra do chính phủ vay nợ nhiều hơn, làm tăng cầu vốn vay hoặc giảm tiết kiệm khu vực công Kết quả là đầu tư tư nhân giảm, vì đầu tư của khu vực tư nhân thường hiệu quả hơn chi tiêu của chính phủ Tăng lãi suất cũng ảnh hưởng đến chi tiêu hộ gia đình, khi họ thường vay tiêu dùng thay vì tiết kiệm Mức độ lấn át phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế; trong thời kỳ suy thoái, hiện tượng này thường nhỏ hơn do nhu cầu đầu tư và chi tiêu nhạy cảm với lãi suất giảm, dẫn đến tác động lấn át đầu tư tư nhân không mạnh mẽ như trong giai đoạn mở rộng.

Nợ công gia tăng có thể dẫn đến việc chính phủ tăng thuế, ảnh hưởng đến tổng tiết kiệm quốc gia Theo quan điểm truyền thống, trong nền kinh tế đóng, việc tăng thuế sẽ cải thiện ngân sách nhưng chỉ làm tăng tiết kiệm quốc gia một lượng nhỏ hơn thuế tăng, từ đó giảm lãi suất và kích thích đầu tư Tuy nhiên, trong nền kinh tế mở, lãi suất giảm có thể làm giảm dòng vốn nước ngoài Ngược lại, theo quan điểm cân bằng của Ricardo, trong nền kinh tế đóng, tăng thuế không làm thay đổi tổng tiết kiệm do người dân kỳ vọng thuế sẽ giảm trong tương lai, dẫn đến việc họ giảm tiết kiệm tương ứng với mức thuế tăng mà không ảnh hưởng đến chi tiêu tiêu dùng Kết quả là, tiết kiệm quốc gia và lãi suất trong nước vẫn giữ nguyên, điều này cũng đúng trong nền kinh tế mở.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

Ngày đăng: 08/02/2022, 15:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Anh, Phạm Thế. &amp; Hùng, Nguyễn Đức. (2015), “Hiệu ứng ngưỡng của nợ công và hàm ý chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí KT&amp;PT, số 216 (II), 06/2015, tr. 79-86 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu ứng ngưỡng của nợcông và hàm ý chính sách cho Việt Nam”, "Tạp chí KT&PT
Tác giả: Anh, Phạm Thế. &amp; Hùng, Nguyễn Đức
Năm: 2015
3. Dao, Hạ Thị Thiều. (2013), Bất ổn kinh tế vĩ mô ở Việt Nam, TPHCM: NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bất ổn kinh tế vĩ mô ở Việt Nam
Tác giả: Dao, Hạ Thị Thiều
Nhà XB: NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2013
5. Hùng, Đào Văn &amp; cộng sự. (2014), Xác định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của Việt Nam giai đoạn 2014 - 2020, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Học viện chính sách và phát triển, Bộ Kế hoạch &amp; Đầu tư Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xác định phạm vi nợ công, trần nợ côngan toàn của Việt Nam giai đoạn 2014 - 2020
Tác giả: Hùng, Đào Văn &amp; cộng sự
Năm: 2014
6. Lan, Nguyễn Thị. (2017), “Đánh giá tính bền vững nợ công của Việt Nam theo mô hình cây nhị phân”, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại số 97/2017, tr. 126 - 145 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá tính bền vững nợ công của Việt Nam theomô hình cây nhị phân”, "Tạp chí Kinh tế Đối ngoại số 97/2017
Tác giả: Lan, Nguyễn Thị
Năm: 2017
7. Linh, Nguyễn Thùy. (2011), Tổng quan kinh tế Thế giới 2001-2010, truy cập tại https://tinyurl.com/xendjr2a (23/02/2021) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng quan kinh tế Thế giới 2001-2010
Tác giả: Linh, Nguyễn Thùy
Năm: 2011
10. Nhung, Võ Thị Phương. (2019), “Quy trình chuẩn hóa, tính toán trong đánh giá mức độ phát triển bền vững tổng hợp cấp địa phương dựa trên bộ chỉ thị - trường hợp tỉnh Hà Tĩnh”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 55/2019, tr. 127 - 133 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy trình chuẩn hóa, tính toán trong đánhgiá mức độ phát triển bền vững tổng hợp cấp địa phương dựa trên bộ chỉ thị -trường hợp tỉnh Hà Tĩnh”, "Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tác giả: Nhung, Võ Thị Phương
Năm: 2019
11. NCIF. (2019), Giới thiệu chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR), truy cập tại http://file.ncif.gov.vn/Media/bantinattachfile/20190624105248/ICOR%20Fina l.pdf (20/01/2021) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giới thiệu chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR)
Tác giả: NCIF
Năm: 2019
19. Nghĩa, Vũ Trọng. (2021), ““Đánh thức” nguồn lực tài chính từ dân cư, xây một nền sản xuất lớn và hiện đại”, Tạp chí Tài chính trực tuyến, truy cập tại https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/danh-thuc-nguon-luc-tai-chinh-tu-dan-cu-xay-mot-nen-san-xuat-lon-va-hien-dai-335761.html(05/03/2021) Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Đánh thức” nguồn lực tài chính từ dân cư, xây một nền sản xuất lớn và hiện đại”, "Tạp chí Tài chính trực tuyến
Tác giả: Nghĩa, Vũ Trọng
Năm: 2021
23. Thạch, Bùi Văn. (2019), Định hướng, Phương pháp xây dựng trần nợ công của Việt Nam trong tình hình mới, Báo cáo tổng hợp, Đề tài NCKH Mã số KHBĐ(2016) - 17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định hướng, Phương pháp xây dựng trần nợ côngcủa Việt Nam trong tình hình mới
Tác giả: Thạch, Bùi Văn
Năm: 2019
2. Chiến lược quản lý nợ trung và dài hạn giai đoạn 2011 - 2020 tầm nhìn đến năm 2030 theo quyết định 958/QĐ- Ttg, truy cập tạihttps://thuvienphapluat.vn/van- ban/Tai-chinh-nha-nuoc/Quyet-dinh-958-QD-TTg-nam-2012-phe-duyet-Chien-luoc-no-cong-no-nuoc-ngoai-144518.aspx(02/01/2021) Link
9. Luật Quản lý nợ công 2017, truy cập tại http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&amp;_page=1&amp;mode=detail&amp;document_id=192337(02/08/2021) Link
13. Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài, truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/tien-te-ngan-hang/nghi-dinh-134-2005-nd-cp-quy-che-quan-ly-vay-tra-no-nuoc-ngoai-4892.aspx(02/01/2021) Link
14. Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, truy cập tạihttps://m.thuvienphapluat.vn/van-ban/tai-chinh-nha-nuoc/nghi-dinh-131-2006-nd-cp-quy-che-quan-ly-su-dung-nguon-ho-tro-phat-trien-chinh-thuc-15474.aspx (03/01/2021) Link
15. Nghị định 94/2018/NĐ-CP về nghiệp vụ quản lý nợ công, truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-chinh-nha-nuoc/Nghi-dinh-94-2018- ND-CP-nghiep-vu-quan-ly-no-cong-369627.aspx(05/03/2021) Link
16. Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, truy cập tại https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-07-nqtw-ngay-18112016-cua-bo-chinh-tri-ve-chu-truong-giai-phap-co-cau-lai-ngan-sach-nha-nuoc-quan-ly-no-2523(02/02/2021) Link
17. Nghị quyết số 25/2016/QH14 về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-chinh-nha-nuoc/Nghi-quyet-25-2016-QH14-ke-hoach-tai-chinh-5-nam-quoc-gia-giai-doan-2016-2020-332843.aspx(02/02/2021) Link
18. Nghị quyết 23/2021/QH15 về kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021 - 2025, truy cập tạihttps://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&amp;docid=203829 (04/03/2021) Link
20. Quyết định 1168/QĐ-BTC ngày 22/5/2009, truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Quyet-dinh-1168-QD-BTC-chuc-nang-nhiem-vu-quyen-han-co-cau-to-chuc-Cuc-Quan-ly-no-tai-chinh-doi-ngoai-98551.aspx?tab=4 (02/01/2021) Link
21. Quyết định 56/QĐ-Ttg về quy chế và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công ban hành năm 2012, truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-chinh-nha-nuoc/Quyet-dinh-56-2012-QD-TTg-Quy-che-quan-ly-xu-ly-rui-ro-doi-voi-danh-muc-no-cong-154042.aspx(02/01/2021) Link
22. Quyết định 856/QĐ-Ttg về chương trình quản lý nợ công 3 năm giai đoạn 2021 - 2023 và kế hoạch vay trả nợ công năm 2021, truy cập tại https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-chinh-nha-nuoc/Quyet-dinh-856-QD-TTg-2021-Chuong-trinh-quan-ly-no-cong-3-nam-giai-doan-2021-2023-476790.aspx(03/04/2021) Link

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w