Cùng với sự phát triển của tư duy hệ thống, nhiều nhà nghiên cứu, điển hình là Ludwig von Bertalanffy đã nghiên cứu và 2 Ngay từ thế kỷ 6 TCN, các nhà triết gia Hy Lạp cổ đã đề xuất một
Trang 1BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐẠI CƯƠNG TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
Đề tài:
Lý thuyết hệ thống (Ludwig von Bertalanffy) và Ứng dụng trong Báo chí - Truyền thông
Giảng viên hướng dẫn: TS Phan Văn Kiền
(nhóm trưởng)
Đồng Minh Trang - TT47A1-0582 Phạm Huyền Trang - TT47A1-0586 Sầm Hữu Thiệp - TT47A1-0577
Hà Nội, tháng 6/2021
Trang 2Thưa Thầy, chúng em đã hoàn thành tiểu luận này với tất cả lòng
biết ơn Cảm ơn Thầy vì đã tin tưởng và giao cho chúng em một đề
tài “siêu khó” Nhưng nhờ đó, chúng em đã nghiêm túc tìm tòi,
nghiên cứu và sau tất cả, chúng em đã học được rất nhiều từ lần
“giải đề” này Năm học kết thúc, môn học của Thầy khép lại, nhưng
những kiến thức mà Thầy đã tâm huyết truyền đạt chắc chắn sẽ là
hành trang nền tảng chúng em mang theo để tiếp tục theo đuổi ngành
Truyền thông Một lần nữa, chúng em cảm ơn Thầy rất nhiều!
-Nhóm 15-
Trang 3PHÂN CÔNG NHÂN SỰ
Lịch sử hình thành Đồng Minh Trang
Nội dung và đặc điểm
Khái niệm Sầm Hữu Thiệp Thành phần Phạm Huyền Trang Đặc điểm/tính chất Sầm Hữu Thiệp Phân loại Phạm Huyền Trang
Ý nghĩa thực tiễn Phạm Huyền Trang Ứng dụng của LTHT trong báo chí - truyền thông Mai Lưu Thục Ngân (nhóm trưởng)
Phần kết luận Đồng Minh Trang
Trang 4Mục Lục
I LỊCH SỬ HÌNH THÀNH 1
1 Bối cảnh ra đời 3
2 Những người đặt nền móng cho Lý thuyết hệ thống 4
II NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM 6
1 Khái niệm 6
2 Thành phần 7
3 Đặc điểm của Lý thuyết hệ thống 10
4 Phân loại 13
5 Ý nghĩa thực tiễn 15
III ỨNG DỤNG CỦA LÝ THUYẾT HỆ THỐNG TRONG BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG 16
1 Ứng dụng của Lý thuyết hệ thống trong Hệ sinh thái phương tiện: 17
2 Phương pháp tiếp cận xã hội trong nghiên cứu báo chí 19
3 Vai trò của Lý thuyết hệ thống trong báo chí - truyền thông trong đại dịch Covid-19 21
Trang 51
Từ xa xưa, chúng ta đã hình thành một thói quen khi giải quyết vấn đề, đó là chia vấn đề thành nhiều phân khúc nhỏ hơn rồi xem xét Điều này xem chừng khiến nhiệm vụ trở nên đơn giản và dễ quản lý hơn, nhưng ta không nhận thức được rằng với cách tư duy
đó, ta không còn thấy hệ quả từ những hành động của mình, cũng như mất khả năng liên
hệ với một tổng thể lớn hơn1 Do đó, việc nghiên cứu và phát triển một cách nhìn mới tổng quát và hệ thống hơn trước một vấn đề đóng một vai trò hết sức quan trọng Trong tiểu luận
này, chúng em sẽ đi sâu và tìm hiểu về cách tiếp cận trên thông qua Lý thuyết hệ thống
(General system theory - LTHT) của Ludwig von Bertalanffy (1901-1972) Tiểu luận bao gồm 03 phần chính:
(1) Lịch sử ra đời của LTHT;
(2) Nội dung, đặc điểm chính của LTHT;
(3) Những ứng dụng của LTHT trong ngành báo chí - truyền thông
I LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Trong các nền văn minh cổ đại, con người chủ yếu lĩnh hội những ý niệm về bản chất thế giới qua trực cảm, kinh nghiệm, bằng quan sát và mô tả, trí tưởng tượng và sự kết nối giao cảm với vũ trụ Để những ý niệm đó phát triển thành hệ thống tri thức ngày nay, con người đã phải trải qua nhiều giai đoạn nhận thức cùng quá trình phát triển các phương
1 Peter M.Senge (2010), Nguyên lý thứ năm: Nghệ thuật và Thực hành Tổ chức học tập (Nguyên tác: THE FIFTH
DISCIPLINE: The Art & Practice of The Learning Organization), NXB Thời Đại
Trang 62
pháp khoa học: nhận thức khoa học2 → tư duy cơ giới3 → khoa học hệ thống4 → tư duy
hệ thống5 theo mức độ tăng dần của sự hỗn độn và phức tạp6 Cùng với sự phát triển của tư duy hệ thống, nhiều nhà nghiên cứu, điển hình là Ludwig von Bertalanffy đã nghiên cứu và
2 Ngay từ thế kỷ 6 TCN, các nhà triết gia Hy Lạp cổ đã đề xuất một số điều cơ bản để phát triển các phương pháp nhận thức mà sau này được gọi là các phương pháp khoa học: Nêu những loại câu hỏi mới có chủ định để tìm hiểu các tính chất cơ bản của vũ trụ; Tìm những câu trả lời mà không cần viện đến thần linh như nguyên nhân của các hiện tượng
tự nhiên; Phát triển một hệ thống hình thức cho việc tìm kiếm các chứng minh Sau đó, vào thế kỷ 4 TCN, Aristotle đã phát triển một hệ thống hình thức của logic làm cơ sở cho các phương pháp suy luận và chứng minh Ông tin rằng qua quan sát và kinh nghiệm, rồi dùng quy nạp và suy diễn logic có thể thu được các tri thức để hiểu bản chất sự vật Hệ thống logic này cho đến ngày nay vẫn là nền tảng chủ yếu của các phương pháp suy luận trong khoa học hiện đại, góp phần hình thành nhiều ngành khoa học tự nhiên
Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, các tư tưởng và phương pháp khoa học trên mới có điều kiện để phát huy, khởi đầu bằng lý thuyết “quả đất quay quanh mặt trời” của Galilei Đây là một sự khẳng định không chỉ có tính chất lý thuyết
mà còn bằng quan sát thực nghiệm với kính viễn vọng Cùng với đó, ông cũng đã đưa ra lý thuyết cơ học mới để nghiên cứu chuyển động Những lý thuyết cơ bản của Galilei sau đó đã được Newton phát triển bằng các phát minh về luật hấp dẫn vũ trụ, các định luật về chuyển động, các phát minh về phép tính vi phân và tích phân, làm cơ sở cho các phương pháp toán học nghiên cứu chuyển động Nhờ đó khoa học mới về chuyển động đã được xây dựng một nền móng tương đối hoàn chỉnh, và cơ học - ngành khoa học về tự nhiên đầu tiên được xây dựng với hai phương pháp nghiên cứu chủ yếu là lý thuyết và thực nghiệm, đã phát triển nhanh chóng và tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi và phát triển của nhiều ngành khoa học tự nhiên khác, con người cũng dần chịu ảnh hưởng to lớn với kiểu tư duy thường được gọi là tư duy cơ giới
3 Chủ nghĩa cơ giới đề-các tách rời vật chất ra khỏi tinh thần, trí tuệ, xem tự nhiên như một bộ máy mà trí tuệ có thể hiểu được Bộ máy được dùng để ẩn dụ chủ yếu cho mọi liên tưởng trong nhận thức về tự nhiên lúc bấy giờ, mà sau này là các hệ thống kinh tế, xã hội, Để nghiên cứu, những đối tượng phức tạp được xem như một bộ máy, có thể được phân tích ra để bắt đầu từ những cái đơn giản sau đó lần ngược lên các bậc cao hơn Quan điểm phân tích cũng
được Pascal xem trọng, ông viết: Không thể biết các bộ phận mà không biết toàn thể, lại càng không thể biết toàn thể
mà không biết các bộ phận Cách tiếp cận phân tích đã giúp đi sâu nghiên cứu các thành phần ngày càng cơ bản hơn
của vật chất, của sự sống, kinh tế, xã hội, cho ta những hiểu biết sâu sắc về cấu trúc của các thành phần cơ bản trong nhiều loại đối tượng khác nhau Không thể phủ nhận những ảnh hưởng đó của tư duy cơ giới đã tác động tích cực đến
sự phát triển của nhiều ngành khoa học, đưa các ngành đó vượt ra ngoài sự hạn chế của các phương pháp quan sát và
mô tả quen thuộc Tuy nhiên, cũng tại đây tư duy cơ giới bắt đầu bộc lộ những hạn chế Đối với những vận động cơ giới của các vật thể trong quy mô thông thường, ta có được những kết quả hết sức lý tưởng thì sang các lĩnh vực khác như cơ học chất lỏng, vật lý chất rắn, các định luật mà ta có được dần thiếu đi sự chính xác tất định, và càng đi xa hơn đến các lĩnh vực sinh học, khoa học kinh tế và xã hội, tính tất định chính xác trong các quy luật càng mất đi, chỉ còn là các quy luật có tính chất gần đúng mang tính thống kê Vì thế, nếu xem những kết luận “khoa học” mang tính
cơ giới là chân lý thì rất có thể đi đến những nhận thức sai lầm
4 Một thí dụ nổi tiếng là bài toán chuyển động của ba vật thể tương tác với nhau theo định luật hấp dẫn Newton, tưởng như đơn giản nhưng lại không thể giải được dưới dạng giải tích quen thuộc Vào cuối thế kỷ 19, nhà toán học Poincaré
đã phát hiện ra rằng hành vi chuyển trạng thái của hệ đó là rất bất thường, hỗn độn và có vẻ ngẫu nhiên Tất nhiên, tư duy cơ giới không thể giải thích được phát hiện đó, mà phải mãi đến những năm 60, 70 của thế kỷ 20, người ta mới đưa ra kết luận sau khi chứng kiến nhiều hiện tượng tương tự: “cái hỗn độn, phi trật tự có thể nảy sinh từ chính trong các hệ thống tuân theo các luật tất định” Điều này không thể được hình dung bằng tư duy cơ giới, nhưng lại khá phổ biến trong thế giới và cuộc sống thực, và đang là chủ đề nghiên cứu của lý thuyết hỗn độn, một ngành khoa học được phát triển mạnh hiện nay
5 Khi khoa học phát triển vượt ra ngoài phạm vi cơ giới thì ta bắt gặp nhiều hiện tượng phi trật tự, ngẫu nhiên và hỗn độn, xảy ra trong những đối tượng phức tạp gồm một số rất lớn các phần tử hợp thành mà ta không thể bao quát hết (một bình khí chứa hàng tỉ các phần tử khi, một nền kinh tế với hàng triệu người sản xuất, tiêu dùng, ) Có thể mỗi phần tử đều vận động theo những luật tất định đơn giản nào đó, nhưng vận động của tất cả những phần tử đó gộp lại thì chẳng theo một quy luật chung nào cả, là ngẫu nhiên, là hỗn độn Vì thế, quan điểm phân tích "để hiểu toàn thể thì phải hiểu các phần tử" không còn thích hợp, việc phân tích các phần tử hầu như không có vai trò nhiều trong việc phát hiện các luật về các hành vi có tính toàn thể như trên Từ những hạn chế trên đã dẫn đến một cách nhìn mới gọi là cách nhìn hệ thống: trước hết xem xét mọi đối tượng như là một toàn thể với những tính chất, hành vi thuộc về toàn thể không thể quy về hoặc suy ra từ những tính chất của các thành phần cấu tạo nên nó
6 Phan Đình Diệu, Tư duy hệ thống và đổi mới tư duy, Tạp chí Thời đại mới - Số 6/2002
Trang 7hệ thống dịch vụ khác đòi hỏi phải có những phương pháp và công cụ nghiên cứu thích ứng8
Ngoài ra, tư duy cơ giới với xu hướng phân tích, đơn giản hóa thống trị vào giai đoạn trước đó cũng dẫn đến nhiều hệ lụy trong đời sống, xã hội Thậm chí, “ xu hướng đơn giản hóa mọi chuyện tới mức chẳng cần đến tư duy nghiêm túc cũng biến hệ thống chính trị thành một ngành công nghiệp bầu cử cố thuyết phục dân chúng rằng sự lựa chọn được đảm bảo vững chắc suốt đời khi các cử tri đi bỏ phiếu cho các chính khách có quyền ban bố quyết định…”9
Những đặc điểm trên thúc đẩy con người tìm ra một thứ ngôn ngữ mới, thay thế ngôn ngữ phân tích đã thâm nhập sâu vào cuộc sống trước đó, một ngôn ngữ chủ toàn (holistic language), ngôn ngữ của hệ thống, cho ta nhìn thấu suốt tình trạng hỗn độn và nhận thức quán triệt tính phức hợp10
Ngoài ra, những hệ thống phức tạp sở hữu nhiều đặc điểm11 thúc đẩy sự hình thành
7 Lý thuyết hệ thống, truy cập link:
https://sites.google.com/site/xahoihocsociology/cac-khai-niem-ly-thuyet-xa-hoi-hoc/lt/ly-thuyet-he-thong ,
truy cập ngày 17/6/2021
8 Trần Đình Long (1999), Lý thuyết hệ thống, NXB Khoa học và kỹ thuật, tr.4
9 Jamshid Gharajedaghi, Tư duy hệ thống: Quản lý hỗn độn và phức hợp (System thinking: Managing chaos and
complexity), NXB Khoa học Xã hội, 2003, Tr.77
10 Jamshid Gharajedaghi, Tư duy hệ thống: Quản lý hỗn độn và phức hợp (System thinking: Managing chaos and
complexity), NXB Khoa học Xã hội, 2003, Tr.76-78
11 Các hệ thống lớn thường có những đặc điểm chính sau đây: 1) Tính rộng lớn về phương diện lãnh thổ và không gian, nhiều hệ thống ngày nay mang tính toàn cầu, thậm chí cả khoảng không gian quanh trái đất; 2) Tính phức tạp
về cấu trúc: số lượng các phần tử tham gia vào hệ thống rất lớn, mối liên hệ về cấu trúc phức tạp; 3) Tính đa chức năng và đa mục tiêu của hệ thống và trong một số trường hợp các mục tiêu này có thể mâu thuẫn nhau; 4) Mức độ bất định của thông tin ảnh hưởng đến tất cả các khâu trong quá trình hình thành và phát triển hệ thống từ quy hoạch, thiết kế, xây dựng đến khai thác và mở rộng hệ thống Giai đoạn khảo sát càng dài về tương lai tính bất định càng cao; 5) Vấn đề độ tin cậy của hệ thống ngày càng trở nên bức xúc Hệ thống càng lớn việc đảm bảo độ tin cậy càng khó khăn và tốn kém, hậu quả của hỏng hóc, mất an toàn của hệ thống ngày càng nghiêm trọng
Trang 84
và phát triển của Lý thuyết hệ thống (hay kỹ thuật hệ thống), mặt khác, nhờ vào những thành tựu về khoa học và công nghệ của các hệ thống lớn mà các phương pháp và công cụ của Lý thuyết hệ thống được phổ cập càng rộng rãi và mang lại hiệu quả ngày càng cao
2 Những người đặt nền móng cho Lý thuyết hệ thống
Trước tình hình đó, nhiều nhà khoa học đã tìm tòi, nghiên cứu về Lý thuyết hệ thống như W Ross Ashby12, Kenneth E Boulding13, Stafford Beer14, Norbert Wiener15 trong
đó nổi bật là Ludwig von Bertalanffy - Cha đẻ của Lý thuyết hệ thống
Ludwig von Bertalanffy (1901 – 1972) là nhà sinh vật học người Áo nổi tiếng ngay
từ bản Đề cương lý thuyết hệ thống tổng quát lấy ví dụ từ các khoa học cụ thể là tâm lý học
12 W Ross Ashby (1903-1972) Nhà tâm lý học người Anh, người tiên phong trong các nghiên cứu về hệ thống thông tin và điều khiển học ở máy móc và các sinh vật sống Nghiên cứu của ông có ảnh hưởng to lớn đối với những nhà khoa học nghiên cứu về khoa học hệ thống như Norbert Wiener, Ludwig von Bertalanffy
13 Kenneth E.Boulding (1910-1993) nhìn nhận hệ thống từ khoa học quản lý với quan điểm: hệ thống là một thực thể phổ biến ở trong tất cả thế giới vật chất của chúng ta, chúng ta sống trong hệ thống
14 Stafford Beer (1926-2002) nghiên cứu về hệ thống từ góc độ điều khiển học, ông chia hệ thống làm hai nhóm: hệ thống tiên định và hệ thống xác suất
(Theo ThS Đỗ Tiến Vượng, Lý thuyết hệ thống và ứng dụng trong hệ thống thông tin - thư viện các trường đại học
kỹ thuật Việt Nam, truy cập link: thong-thong-tin-thu-vien-cac-truong-dai-hoc-ky-thuat-viet-nam.html , truy cập ngày 13/6/2021)
https://nlv.gov.vn/nghiep-vu-thu-vien/ly-thuyet-he-thong-va-ung-dung-trong-he-15 Norbert Wiener là một nhà toán học và triết học Mỹ Ông là giáo sư Toán học tại MIT Trong tác phẩm Điều khiển học, hoặc sự nghiên cứu điều khiển và truyền thông trong động vật và máy năm 1948, thuật ngữ “điều khiển học” được ông sử dụng bắt nguồn từ tiếng Hy-Lạp “kybernetes” - nghĩa là “tay lái” - xuất hiện thời cổ đại bởi Plato và thế kỷ 19 Điều khiển học về sau dần được xem là có vai trò nghiên cứu và đưa ra những nguyên lý trừu tượng của việc tổ chức những hệ thống từ đơn giản tới phức tạp Do đó, Điều khiển học trở thành một thành phần căn bản của khoa học về các hệ thống (Systems Sciences)
Năm 1950, những nhà tư tưởng điều khiển học tiến lên và gắn kết nhau thành Lý thuyết chung về các hệ thống (General Systems Theory) Cùng thời gian đó, năm 1954, Ludwig von Bertalanffy, từ lĩnh vực sinh học đã thử xây dựng và đưa
ra những nguyên lý chung của các hệ thống Lý thuyết chung các hệ thống là thuật ngữ đã được L.V Bertalarffy đưa vào vốn từ vựng khoa học để mô tả lý thuyết các hệ thống mở và các trạng thái cân bằng động năm 1933 tại trường
đại học tổng hợp Chicago (Theo Bùi Quang Minh, Lịch sử điều khiển học và khoa học hệ thống, truy cập link:
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/lich_su_dieu_khien_hoc_va_khoa_hoc_he_thong.html ,
truy cập ngày 13/6/2021)
16 Bertalanffy nhắc đến quy luật của Pareto về phân phối thu nhập trong một quốc gia, trích dẫn sách của Pareto về
chính trị kinh tế học năm 1897, nhưng không trích dẫn nhà tâm lý học nào về Gestalt Bertalanffy (1950), bản Đề
cương lý thuyết hệ thống tổng quát (General System Theory), Tr 137
Trang 95
các sự vật và hiện tượng khác nhau trong thế giới vô cơ, thế giới hữu cơ, thế giới xã hội, và thế giới con người đều bị quy định bởi một số quy luật giống nhau Bertalanffy đã chỉ ra ba
nguyên nhân của tình hình này: Thứ nhất, ông lấy ví dụ đơn giản rằng cách diễn ngôn vô
cùng phong phú, đa dạng hàng ngày và ngay cả các diễn ngôn khoa học đều có chung một
số mẫu câu, mẫu ngữ pháp, một số quy tắc17, đồng thời có rất nhiều cách lập luận khác nhau
trong các khoa học, nhưng đều giống nhau ở một số cách lập luận logic hình thức; Thứ hai,
ông cho rằng thế giới không quá hỗn độn hay quá phức tạp nên có thể cho phép áp dụng được các sơ đồ hay các khuôn mẫu tư duy18; Thứ ba, các quy luật đó chỉ áp dụng chung,
tổng quát cho các phức hợp hay các hệ thống nhất định mà không phụ thuộc vào bản chất của hệ thống và loại thực thể nhất định liên quan Nói chung, ông cho rằng tất cả các khoa học khác nhau đều giống nhau ở chỗ nghiên cứu “các hệ thống”, vì vậy có các quy luật hệ thống tổng quát có thể áp dụng cho bất kỳ loại hệ thống nào mà không phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của hệ thống cũng như những yếu tố có liên quan19.20
Trong chương trình xây dựng lý luận của mình ông đã chỉ ra những nhiệm vụ cơ
bản: Thứ nhất, làm sáng tỏ những nguyên tắc và quy luật chung về hành vi của các hệ thống; Thứ hai, xác lập những quy luật tương tự của khoa học tự nhiên nhờ tiếp cận hệ thống đối với các khách thể sinh học, xã hội; Thứ ba, trên cơ sở làm rõ tính tương đồng của các quy
luật trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau, tạo ra sự hợp thức khoa học hiện đại
Sự xuất bản “Lý thuyết hệ thống tổng quát” vào năm 1968 đã thúc đẩy mong muốn
của giới khoa học muốn tiến tới phổ quát hóa các công cụ nhận thức khoa học và tiếp nhận được luận điểm đặc trưng của các hệ phổ quát Cách tiếp cận hệ thống đã được sử dụng
17 Các diễn ngôn tự sự và diễn ngôn khoa học cũng có chung những quy tắc nhất định mà con người tạo nên để thiết lập và duy trì các trò chơi ngôn ngữ và cả các quan hệ xã hội
18 Mặc dù L.V Bertalanffy có nhấn mạnh một thuộc tính đặc trưng của hệ thống sống, hệ thống mở là sự liên tục biến đổi và tiệm biến đến trạng thái ổn định nhưng phức tạp hơn và có tính tổ chức cao hơn nhưng có lẽ ông chưa để ý đến đến nguyên lý “bất toàn” và “bất định”: thế giới rất phức tạp với rất nhiều biến đổi, không ổn định, không toàn vẹn,
nhiều rủi ro, nhiều tai biến, bất ngờ, khó xác định, khó lường (Xem F David Peat (2005), Từ xác định đến bất định:
những câu chuyện về khoa học và tư tưởng của thế kỷ 20, Nxb Tri Thức Hà Nội 2011)
19 Bertalanffy cho biết lúc bấy giờ, nhiều nhà khoa học đang nỗ lực tìm kiếm các siêu cấu trúc, các nguyên lý và các
mô hình chung có thể áp dụng cho tất cả các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, như nhóm điều khiển học của N Wiener, nhóm ngữ nghĩa học đại cương của Korzybski và những người khác Tuy nhiên, ông cho rằng vấn đề này vẫn chưa được nêu rõ, cũng chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và chưa đạt được kết quả mong muốn (Ludwig von
Bertalanffy (1950), “An Outline of General System Theory” The British Journal for the Philosophy of Science, Vol.1,
No 2 (Aug., 1950), P.138)
20 Lê Ngọc Hùng, Lý thuyết hệ thống tổng quát và phân hóa xã hội: Từ Ludwig von Bertalanffy đến Talcott Parsons,
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 3 (2014) 51-62
Trang 10Lý thuyết hệ thống là một khái niệm mà trong đó, mọi sự vật đều mang tính liên kết
và để nghiên cứu bất cứ vấn đề nào, ta cần nhìn nhận một cách tổng quan hơn là xét từng đối tượng thuộc vấn đề đó Lý thuyết hệ thống đi ngược lại với phương pháp tiếp cận thực nghiệm bằng cách xem xét từng thành phần riêng lẻ Nói cách khác, Lý thuyết hệ thống có thể được hiểu đơn giản như sau: “Chính thể luôn luôn lớn hơn những thành phần của nó cộng lại22” Theo L.V Bertalanffy, việc tách rời các đối tượng của một hệ thống nhằm phục
vụ mục đích nghiên cứu sẽ khiến chúng mất đi vai trò nguyên bản trong hệ thống và việc xác định một cách đơn lẻ, bỏ qua vai trò của các đối tượng trong hệ thống có thể dẫn đến các nghiên cứu không chính xác
Các yếu tố nói trên của Lý thuyết hệ thống được thể hiện qua nhiều ví dụ, đơn cử
như câu chuyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi” Trong câu chuyện, vì cả năm ông thầy bói
đều bị mù nên chỉ có thể cảm nhận được hình dáng của con voi qua việc chạm vào nó Vì chỉ sử dụng xúc giác để cảm nhận duy nhất một bộ phận, không phải thị giác để quan sát tổng thể như thông thường đã dẫn đến những phán đoán sai lệch của cả năm người về hình dáng thật sự của một con voi
21 Bùi Quang Minh, Lịch sử điều khiển học và khoa học hệ thống, truy cập link:
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/lich_su_dieu_khien_hoc_va_khoa_hoc_he_thong.html , truy cập ngày 14/6/2021
22 Lumen, Systems Theory Paradigm, available at
https://courses.lumenlearning.com/introductiontocommunication/chapter/systems-theory-paradigm/ , accessed 12/06/2021
Trang 11Nguồn ảnh: Principia Cybernetica Web
Phần tử là thành phần cốt lõi, “là thành phần cơ bản tạo nên hệ thống, nó tồn tại
Trang 128
độc lập tương đối với các phần tử khác của hệ thống và không thể chia nhỏ hơn hoặc bản thân nó không thể phân chia nhỏ hơn hoặc là do tính chất của những vấn đề mà chúng ta nghiên cứu về hệ thống, chúng ta không cần thiết phải chia nhỏ hơn”23 Để một hệ thống tồn tại được, nó cần ít nhất hai phần tử Tuy nhiên, đây chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ mà
giữa các phần tử ấy cần phải có sự liên kết với nhau “Nhiều phần tử tồn tại độc lập với nhau, không có sự ràng buộc phụ thuộc lẫn nhau, không liên kết với nhau cũng không tạo nên hệ thống”24
Việc xác định đúng đắn phần tử của hệ thống là một điều rất quan trọng Không phải
hệ thống nào khi nhìn vào ta cũng thấy ngay được các thành phần của nó Với các hệ thống như máy móc thì các phần tử tương đối rõ ràng, nhưng với một đối tượng trừu tượng hơn như hệ thống kinh tế của Việt Nam thì cần xác định đối tượng sao cho thuận tiện cho việc quản lý và theo dõi sự liên kết giữa các đối tượng Đôi khi, việc xác định các phần tử đã hoàn thành, nhưng liệu các phần tử ấy có liên kết trơn tru để hệ thống có thể vận hành hay không thì lại là vấn đề khác Cho nên, việc chỉ rõ liên kết giữa các phần tử cũng hết sức cần thiết Khi tiến hành nghiên cứu, nếu các phần tử được xác định một cách hợp lý, phù hợp thì sẽ giúp cho quá trình trở nên dễ dàng hơn, đem lại hiệu quả cao hơn
Môi trường là những đối tượng không thuộc hệ thống, nằm trong không gian bao
chứa hệ thống, có thể có tương tác với hệ thống hoặc không Khi môi trường có tương tác
với hệ thống, các đối tượng đó có thể “gây ra tác động đối với hệ thống và chịu tác động của hệ thống”25 Với các hệ thống không có tương tác với môi trường, “không có hệ đóng tuyệt đối theo nghĩa hệ thống là cô lập với môi trường tại mọi thời điểm của quá trình”26
Có thể xảy ra các tình huống như sự tương tác đó quá nhỏ nên có thể bỏ qua; chỉ tương tác theo một hướng (chỉ môi trường tác động lên hệ thống hoặc chỉ hệ thống tác động lên môi trường) nhưng không gây ảnh hưởng đáng kể; đóng ở lĩnh vực này, mở ở lĩnh vực khác Ví
dụ ta xét một công trình kiến trúc lâu đời, có thể nói đây là một hệ thống không có tương tác với môi trường, nhưng trải qua thời gian dài hàng thế kỷ thì không thể phủ nhận rằng
23 Nguyễn Văn Huân, Vũ Xuân Nam và Nguyễn Thu Hằng (2012), Bài giảng Lý thuyết hệ thống và điều khiển học,
Trường Đại học Công nghệ thông tin & Truyền thông, tr 11
24 Sách đã dẫn, tr 13
25 Sách đã dẫn, tr 15
26 Sách đã dẫn, tr 16-17
Trang 139
các nhân tố như điều kiện thời tiết, biến đổi khí hậu ít nhiều làm chất lượng công trình kiến trúc ấy suy giảm
Đầu vào (input) của hệ thống là các thông tin được đưa vào hệ thống để xử lý Đầu
ra của hệ thống là kết quả của quá trình xử lý ấy Đầu ra (output) chính là thứ mong muốn
đạt được của hệ thống Ví dụ xét một chiếc đồng hồ cơ, đầu vào của nó là các bộ phận cấu thành như dây cót, bánh răng, và chuyển động cơ từ người đeo, đầu ra chính là sự chuyển động của các kim đồng hồ, qua đó biểu thị thời gian Hay trong một trường cấp ba, đầu vào
là những học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, giáo trình, chi phí, và cho đầu ra là các học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông
Quá trình xử lý (throughput) là quá trình chuyển đổi đầu vào thành đầu ra của hệ
thống Đây là một bộ phận vận hành của hệ thống, nó có thể điều chỉnh hoàn toàn đầu vào hoặc một phần đầu vào Quá trình xử lý cũng phụ thuộc vào yêu cầu đầu ra mong muốn của hệ thống Ví dụ trong một bệnh viện, quá trình xử lý chính là những hoạt động tiếp nhận bệnh nhân, khám bệnh, chẩn đoán, điều trị, và những hoạt động ấy chỉ tác động vào khía cạnh sức khỏe của người bệnh, đôi khi có thêm sự phụ thuộc vào nhu cầu và tài chính của bệnh nhân
Đó là những thành phần cấu thành cơ bản nhất của hệ thống Trên thực tế, một hệ thống khi tồn tại còn bao gồm rất nhiều thành phần khác liên quan trực tiếp đến hoạt động
của hệ thống ấy như mục tiêu, trạng thái, hành vi,
Mục tiêu của hệ thống là “sản phẩm mà hệ thống cần tạo ra, ví dụ như mục tiêu
của nhà trường là đào tạo nhân lực”27 Theo Vũ Cao Đàm, luôn tồn tại một hệ thống mục tiêu trong mọi hệ thống, có cấu trúc hình cây Mục tiêu của hệ thống phải được chia ra thành các mục tiêu con theo từng cấp độ khác nhau Các mục tiêu nhỏ hơn đều phải hướng đến mục tiêu lớn nhất, nếu không hệ thống ấy sẽ tan rã Ví dụ, xét cây mục tiêu của một lớp học trong một năm học, mục tiêu cấp I sẽ là mục tiêu tổng quát nhất, đạt danh hiệu lớp xuất sắc; mục tiêu cấp II sẽ là các mục tiêu về học lực, hạnh kiểm, phong trào, chuyên cần, và có thể tiếp tục bóc tách thành các mục tiêu cấp III, cấp IV,
27 Vũ Cao Đàm (2009), Bài giảng điện tử Lý thuyết hệ thống và điều khiển học, truy cập link
https://docs.google.com/presentation/d/1Bn2yPFa_OEYN4mfQPMRXzhBHwq9FrhZh/edit#slide=id.p89 , truy cập ngày 15/6/2021
Trang 1410
Nhưng cũng có nghiên cứu cho rằng một hệ thống có thể có mục tiêu hoặc không
Theo Bài giảng Lý thuyết hệ thống và điều khiển học của các tác giả Nguyễn Văn Huân,
Vũ Xuân Nam và Nguyễn Thu Hằng, “các hệ thống máy móc không có mục tiêu, chúng chỉ có chức năng do các nhà thiết kế đề ra, chức năng đó không phải là cái gì khác với tính năng và công dụng của máy Các nhà chế tạo phải đảm bảo cho máy móc chế tạo ra có đầy
đủ tính năng và công dụng do các nhà thiết kế đã chỉ định”28 Ludwig von Bertalanffy cũng cho rằng, “dưới góc độ cơ học, sự hoạt động không có mục đích của các nguyên tử đã tạo nên mọi hiện tượng trên thế giới”29 mà không hề có sự dẫn dắt nào, tức là các hệ thống từ
những thứ vô tri vô giác đến các vật thể sống, có trí tuệ đều được hình thành một cách tự nhiên
Trạng thái (state) của hệ thống ở một thời điểm là “tập hợp những thuộc tính mà
hệ thống có ở thời điểm đó Bất kỳ hệ thống nào cũng không hạn định về số lượng thuộc tính” Xét ví dụ với một hệ thống máy bay, ở một thời điểm nào đó có thể chỉ xét ở khía cạnh máy bay đang hoạt động hay nghỉ, nhưng cũng có khi quan tâm đến cả sức chứa, khối lượng, tốc độ, của nó
Hành vi (behavior) cũng là một thành phần của hệ thống Theo Vũ Cao Đàm, "hành
vi của hệ thống là cách thức biến đổi trạng thái của hệ thống" Hành vi của hệ thống sẽ là điều kiện hoặc cần, hoặc đủ, hoặc cả cần và đủ để một trạng thái mới sinh ra (Ackoff, 1971)
Ví dụ, một chiếc xe chuyển từ trạng thái nghỉ sang trạng thái hoạt động, thì hành vi của hệ thống cơ khí trong xe chính là nổ máy (vừa cần vừa đủ) Hành vi này có thể khác nhau ở những hệ thống khác nhau Hay ánh đèn điện muốn chuyển từ trạng thái sáng về trạng thái tắt thì sự biến đổi của công tắc đèn là điều kiện đủ để thỏa mãn
3 Đặc điểm của Lý thuyết hệ thống 30
Một hệ thống bất kỳ thường có các đặc điểm sau:
Hệ thống “mở” là đặc điểm thể hiện qua việc một hệ thống là thứ luôn luôn phát
triển và các tính chất của hệ thống đó liên tục được mở rộng ra thông qua quá trình tương
28 Nguyễn Văn Huân, Vũ Xuân Nam và Nguyễn Thu Hằng (2012), Sách đã dẫn, tr 17
29 Bertalanffy, L von (1968), General system theory : Foundations, Development, Applications, New York: George Braziller, p 45
30 Bertalanffy, L von (1968), General system theory : Foundations, Development, Applications, New York: George Braziller