Phương pháp nghiên cứu
Thu thập tài liệu lịch sử, bao gồm bản đồ cổ và ảnh chụp cũ, là một công việc quan trọng Những tài liệu này thường được lưu trữ tại các thư viện, phòng truyền thống địa phương hoặc từ các nguồn lưu trữ cá nhân như nhà sử học và dân tộc học.
Chụp ảnh, vẽ ghi các công trình kiến trúc, phân loại theo kiểu loại, đặc thù không gian, đối tượng ở, vị trí ở khu vực nào.
Thông qua điều tra trực tiếp tại hiện trường, trao đổi với người dân
Phương pháp phân tích sơ đồ hóa khu vực nghiên cứu
GIỚI THIỆU CHUNG VÀ PHÂN TÍCH HÌNH THÁI XÃ HỒNG VÂN
Hình 1 Sơ đồ vị trí xã Hồng Vân 1.2 Trong mối quan hệ vùng, có các mối quan hệ đáng chú ý sau:
Hồng Vân là xã nằm ở phía đông của Huyện Thường Tín, cách trung tâm
Hà Nội 18 km về phía Nam Với chiều dài hơn 4,5 km, chiều rộng khoảng
Dòng sông Hồng chảy dọc theo sườn phía Đông của xã Hồng Vân, từ Bắc xuống Nam, đã bồi đắp phù sa suốt hàng ngàn năm, tạo nên vùng đất màu mỡ nuôi sống người dân nơi đây Ngoài ra, sự hiện diện của đường 427 liên tỉnh và hệ thống giao thông đường thuỷ Sông Hồng cũng góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội của xã.
Diện tích đất tự nhiên toàn xã là 420,71ha.
Xã có diện tích đất canh tác 182ha, bao gồm 6 thôn: Xâm Thị, Xâm Xuyên, Cơ Giáo, Cẩm Cơ, La Thượng và Vân La, với tổng số 1.699 hộ và 5.748 nhân khẩu Tại đây, có 2 tôn giáo chính là đạo Phật và đạo Thiên Chúa, trong đó có 1 thôn công giáo toàn tòng Tất cả 6 làng và 4 cơ quan trong xã đều đạt danh hiệu làng văn hóa và cơ quan văn hóa, xã được công nhận là xã văn hóa, với 2 làng được công nhận là làng nghề sinh vật cảnh Ngoài ra, Trường Mầm Non, Trường Tiểu học và Trường THCS đều đạt chuẩn quốc gia Đảng bộ xã có 167 đảng viên sinh hoạt tại 12 chi bộ, trong đó có 6 chi bộ khu dân cư.
3 chi bộ nhà trường, 1 chi bộ cơ quan xã, 1 chi bộ trạm y tế, 1 chi bộ HTX Hoa cây cảnh và Dịch vụ Hồng Vân.
Xã có địa hình đồng bằng, với độ cao giảm dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tưới tiêu chủ động Mặt bằng địa hình chủ yếu bằng phẳng, với sự chênh lệch độ cao giữa các khu vực không đáng kể.
Xã Hồng Vân cũng như nhiều địa phương khác thuộc đồng bằng Bắc
Bộ, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới, gió mùa Thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Nhiệt độ trung bình năm 23,8 0 C
Nhiệt độ trung bình cao nhất 35 °C - 37 0 C (tháng 6 - tháng 8), thường kèm theo mưa to.
Nhiệt độ trung bình thấp nhất có năm xuống dưới 10 0 C (tháng 12 đến tháng 1), có khi kèm theo sương muối.
Gió: Hướng gió chủ đạo: gió Đông Nam về mùa hè, gió Đông Bắc về mùa đông. Vận tốc gió trung bình 2 m/s.
Bão: Xã ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão, chủ yếu ảnh hưởng gây mưa lớn, hàng năm thường có 5-7 cơn bão gây mưa lớn.
Mỗi năm, lượng mưa trung bình dao động từ 1.600 đến 1.800 mm, trong khi độ ẩm không khí trung bình đạt 83% Độ ẩm không khí thấp nhất thường xảy ra vào tháng 1 với mức 80%, trong khi tháng 3 ghi nhận độ ẩm cao nhất trung bình là 88%.
Nắng: Tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1.600 - 1.800 giờ/năm.
Thường Tín, một phủ thuộc Trấn Sơn Nam từ thời Lê đến thời Nguyễn, từng là một phần của tỉnh Hà Nội và sau đó thuộc tỉnh Hà Đông Vào thời điểm đó, Phủ Thường Tín bao gồm các huyện Thanh Trì, Thượng Phúc (nay là Thường Tín) và Phú Xuyên.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 1965, huyện Thường Tín, thuộc tỉnh Hà Tây (sát nhập từ hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây), được thành lập với 32 xã, bao gồm: Chương Dương, Đại Áng, Dũng Tiến, Duyên Thái, Hà Hồi, Hiền Giang, Hòa Bình, Hồng Vân, Khánh Hà, Lê Lợi, Liên Ninh, Liên Phương, Minh Cường, Nghiêm Xuyên, Ngọc Hồi, Nguyễn Trãi, Nhị Khê, Ninh Sở, Quất Động, Tả Thanh Oai, Tân Minh, Thắng Lợi, và Thống.
Nhất, Thư Phú, Tiền Phong, Tô Hiệu, Tự Nhiên, Văn Bình, Vạn Điểm, Văn Phú, Vân Tảo, Văn Tự.
Ngày 29 tháng 12 năm 1975, huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Sơn Bình do hợp nhất 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, 4 xã ở phía bắc huyện Thường Tín là: Đại Áng, Liên Ninh, Ngọc Hồi, Tả Thanh Oai được sáp nhập vào huyện Thanh Trì.
Huyện Thường Tín hiện có 28 xã, bao gồm: Chương Dương, Dũng Tiến, Duyên Thái, Hà Hồi, Hiền Giang, Hòa Bình, Hồng Vân, Khánh Hà, Lê Lợi, Liên Phương, Minh Cường, Nghiêm Xuyên, Nguyễn Trãi, Nhị Khê, Ninh Sở, Quất Động, Tân Minh, Thắng Lợi, Thống Nhất, Thư Phú, Tiền Phong, Tô Hiệu, Tự Nhiên, Văn Bình, Vạn Điểm, Văn Phú, Vân Tảo, và Văn Tự.
Vào ngày 19 tháng 3 năm 1988, thị trấn Thường Tín được thành lập bằng cách điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số từ các xã Văn Bình, Văn Phú và Hà Hồi.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, Thường Tín trở lại thuộc tỉnh Hà Tây Như vậy, huyện Thường Tín có 1 thị trấn và 28 xã, giữ ổn định đến nay.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Thường Tín được sáp nhập về thủ đô Hà Nội theo nghị quyết của Chính phủ Việt Nam.
Hồng Vân, có nghĩa là mây hồng, được đặt tên từ truyền thuyết về Tiên Dung và Chử Đồng Tử, hai nhân vật đã đi khắp nơi để cứu giúp người nghèo Khi đến địa phận xã, họ đã thấy cảnh đẹp và một đám mây xuất hiện, nên đã hạ xuống nghỉ ngơi Dân chúng ở đây đã ra cảm tạ, từ đó cái tên Hồng Vân được hình thành.
Hồng Vân nổi bật với nhiều di tích lịch sử được công nhận, bao gồm chùa và đình Xâm Xuyên, Xâm Thị Đặc biệt, bến phà 2 là nơi ghi dấu chân của Bác Hồ cùng nhiều lãnh đạo cấp cao của nhà nước trong chuyến thăm vào năm trước.
Chợ mới ông già, theo truyền thuyết, là nơi cha của Chử Đồng Tử đã ngồi bán cá dưới gốc đa, từ đó hình thành nên chợ Tên chợ được đặt để ghi nhớ công ơn của người đã tạo ra nó Mặc dù chợ đã được xây mới, người dân thôn Vân La vẫn tự hào về truyền thuyết này, vì nếu đúng, đây sẽ là chợ cổ nhất Việt Nam Bên cạnh đó, thôn Cơ Giáo là một cộng đồng theo đạo thiên chúa toàn tòng.
Xã có nhiều khu di tích văn hóa phong phú, trong đó một số đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, tiêu biểu như đền Xâm.
- Đền Xâm Thị ,Đình Xâm Thị ,Miếu Xâm Thị thuộc làng Xâm Thị
- Đình Cẩm Cơ ,Chùa Cẩm Cơ thuộc làng Cẩm Cơ
- Đình Xâm Xuyên làng Xâm Xuyên
* Một số hình ảnh về các chùa , đình , nhà thờ tiêu biểu của Xã Hồng Vân ĐÌNH CẨM CƠ – THÔN CẨM CƠ
CHÙA CẨM CƠ – THÔN CẨM CƠ ĐÌNH XÂM XUYÊN – THÔN XÂM XUYÊN
CÁC CÔNG TRÌNH DI TÍCH LỊCH SỬ TRÊN ĐỊA BÀN
3 Đặc điểm chung về hình thái phát triển kiến trúc
3.1.Kiến trúc các làng của xã Hồng Vân
Cấu trúc làng truyền thống Bắc Bộ
Cấu trúc các làng thuộc xã Hồng Vân mang đậm dấu ấn của làng cổ Bắc Bộ với một trục đường chính Dọc theo trục đường này, các công trình tín ngưỡng và văn hóa như đình, chùa, miếu, nhà văn hóa và nhà trẻ được bố trí hợp lý Nhà ở trải dài theo trục đường chính và mở rộng sang hai bên qua các ngõ nhỏ trong làng Xung quanh làng được bao bọc bởi ao hồ và đồng ruộng, tạo nên một không gian sống gần gũi với thiên nhiên.
Để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, các công trình công cộng trong thôn đã được nâng cấp, phục vụ cho các hoạt động hội họp và công việc chung Việc xây dựng thêm trường mầm non giúp trẻ em trong thôn có nơi học tập và vui chơi gần nhà, giảm bớt gánh nặng di chuyển Chùa trong thôn cũng đã được xây dựng lại khang trang hơn, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và tổ chức lễ hội của cộng đồng Ngoài ra, trạm y tế xã được xây dựng hiện đại, tiện lợi, phục vụ tốt hơn cho sức khỏe của người dân trong khu quy hoạch 26ha.
GIỚI THIỆU CHUNG VÀ PHÂN TÍCH HÌNH THÁI XÃ HỒNG VÂN
Lịch sử
Thường Tín, từng là tên gọi của một phủ thuộc Trấn Sơn Nam trong thời kỳ Lê đến nhà Nguyễn, nay là một phần của tỉnh Hà Nội Vào thời điểm đó, Phủ Thường Tín thuộc tỉnh Hà Đông và bao gồm các huyện Thanh Trì, Thượng Phúc (hiện nay là Thường Tín) và Phú Xuyên.
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Tây (hợp nhất 2 tỉnh Hà Đông và Sơn Tây), gồm 32 xã: Chương Dương, Đại Áng, Dũng Tiến,Duyên Thái, Hà Hồi, Hiền Giang, Hòa Bình, Hồng Vân, Khánh Hà, Lê Lợi,Liên Ninh, Liên Phương, Minh Cường, Nghiêm Xuyên, Ngọc Hồi, Nguyễn Trãi,Nhị Khê, Ninh Sở, Quất Động, Tả Thanh Oai, Tân Minh, Thắng Lợi, Thống
Nhất, Thư Phú, Tiền Phong, Tô Hiệu, Tự Nhiên, Văn Bình, Vạn Điểm, Văn Phú, Vân Tảo, Văn Tự.
Ngày 29 tháng 12 năm 1975, huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Sơn Bình do hợp nhất 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, 4 xã ở phía bắc huyện Thường Tín là: Đại Áng, Liên Ninh, Ngọc Hồi, Tả Thanh Oai được sáp nhập vào huyện Thanh Trì.
Huyện Thường Tín hiện còn 28 xã, bao gồm: Chương Dương, Dũng Tiến, Duyên Thái, Hà Hồi, Hiền Giang, Hòa Bình, Hồng Vân, Khánh Hà, Lê Lợi, Liên Phương, Minh Cường, Nghiêm Xuyên, Nguyễn Trãi, Nhị Khê, Ninh Sở, Quất Động, Tân Minh, Thắng Lợi, Thống Nhất, Thư Phú, Tiền Phong, Tô Hiệu, Tự Nhiên, Văn Bình, Vạn Điểm, Văn Phú, Vân Tảo, và Văn Tự.
Ngày 19 tháng 3 năm 1988, thành lập thị trấn Thường Tín trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã Văn Bình, Văn Phú và Hà Hồi.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, Thường Tín trở lại thuộc tỉnh Hà Tây Như vậy, huyện Thường Tín có 1 thị trấn và 28 xã, giữ ổn định đến nay.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Thường Tín được sáp nhập về thủ đô Hà Nội theo nghị quyết của Chính phủ Việt Nam.
Hồng Vân, có nghĩa là mây hồng, được đặt tên theo truyền thuyết về Tiên Dung và Chử Đồng Tử, hai nhân vật đã đi khắp nơi để giúp đỡ người nghèo Khi đến địa phận xã, họ thấy cảnh đẹp và một đám mây xuất hiện, nên đã dừng lại nghỉ ngơi Người dân địa phương đã ra ngoài để cảm tạ họ, từ đó cái tên Hồng Vân được hình thành.
Hồng Vân nổi bật với nhiều di tích lịch sử được công nhận, bao gồm chùa và đình Xâm Xuyên, Xâm Thị Đặc biệt, bến phà 2 là nơi ghi dấu chân của Bác Hồ cùng nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của nhà nước trong những lần thăm viếng vào năm trước.
Chợ mới ông già, được thành lập theo truyền thuyết về cha của Chử Đồng Tử, người đã ngồi dưới gốc đa bán cá, đã trở thành điểm giao thương quan trọng của người dân Tên chợ được đặt nhằm tưởng nhớ người đã khai sinh ra nó Mặc dù chợ đã được xây mới, nhưng người dân thôn Vân La vẫn tự hào về truyền thuyết này, coi đây là chợ cổ nhất Việt Nam Bên cạnh đó, thôn Cơ Giáo là một cộng đồng theo đạo thiên chúa toàn tòng.
Xã có nhiều khu di tích văn hóa phong phú, trong đó một số đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, nổi bật là đền Xâm.
- Đền Xâm Thị ,Đình Xâm Thị ,Miếu Xâm Thị thuộc làng Xâm Thị
- Đình Cẩm Cơ ,Chùa Cẩm Cơ thuộc làng Cẩm Cơ
- Đình Xâm Xuyên làng Xâm Xuyên
* Một số hình ảnh về các chùa , đình , nhà thờ tiêu biểu của Xã Hồng Vân ĐÌNH CẨM CƠ – THÔN CẨM CƠ
CHÙA CẨM CƠ – THÔN CẨM CƠ ĐÌNH XÂM XUYÊN – THÔN XÂM XUYÊN
CÁC CÔNG TRÌNH DI TÍCH LỊCH SỬ TRÊN ĐỊA BÀN
Đặc điểm chung về hình thái phát triển kiến trúc
3.1.Kiến trúc các làng của xã Hồng Vân
Cấu trúc làng truyền thống Bắc Bộ
Làng Hồng Vân mang đậm nét đặc trưng của làng cổ Bắc Bộ với cấu trúc tập trung quanh một trục đường chính Trên trục đường này, các công trình tín ngưỡng và văn hóa như đình, chùa, miếu, nhà văn hóa và nhà trẻ được bố trí, tạo nên không gian sinh hoạt cộng đồng Nhà ở nằm dọc theo trục đường chính và mở rộng sang hai bên qua các ngõ nhỏ Xung quanh làng được bao bọc bởi ao hồ và đồng ruộng, tạo nên một bức tranh quê yên bình.
Nâng cấp các công trình công cộng là cần thiết để phục vụ cho các hoạt động như hội họp và công việc chung của toàn thôn Việc xây dựng thêm trường mầm non sẽ tạo điều kiện cho con em trong thôn học tập và vui chơi mà không phải di chuyển xa Chùa trong thôn đã được xây dựng mới, khang trang hơn, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và tổ chức lễ hội của người dân Ngoài ra, trạm y tế xã cũng đã được cải tạo khang trang, phục vụ tốt hơn cho sức khỏe của cộng đồng trong khu quy hoạch 26ha.
Khu vực canh tác xung quanh thôn đang chuyển mình để đáp ứng nhu cầu xã hội, với sự chuyển đổi từ các loại cây truyền thống sang trồng hoa và cây hoa màu Đặc biệt, diện tích trồng rau được mở rộng nhằm phục vụ cho sự phát triển của khu du lịch sinh thái trong xã, tạo điều kiện cho việc phát triển bền vững và thu hút du khách.
Xã Hồng Vân có lịch sử hình thành lâu dài, với kiến trúc thay đổi theo từng thời kỳ Điều này thể hiện rõ qua quy hoạch và các công trình kiến trúc cổ xưa như cổng làng, đình làng, miếu, chùa và giếng làng, vẫn còn tồn tại đến ngày nay Những công trình này không chỉ phản ánh quá khứ mà còn góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa của xã Hồng Vân.
Làng xã Bắc Bộ thường nổi bật với các công trình như Đình, Chùa, Miếu, Đền, thể hiện rõ nét đặc điểm kiến trúc qua từng thời kỳ Những công trình này không chỉ là niềm tự hào và tự tôn của cộng đồng, mà còn là nơi tổ chức các lễ hội, hoạt động văn hóa và sinh hoạt chung của xã hội.
Cổng làng không chỉ là biểu tượng quan trọng của thôn Xâm Xuyên mà còn là đặc điểm nhận dạng riêng biệt của mỗi làng Mỗi cổng làng mang một kiểu kiến trúc khác nhau, thể hiện nét văn hóa độc đáo của cộng đồng Tại thôn Xâm Xuyên, cổng làng được xây dựng từ trục chính dẫn vào làng, tạo nên sự chào đón đặc biệt cho du khách và cư dân.
Đình làng được xây dựng tại trung tâm thôn, nằm trên trục đường chính vào làng, thuận tiện cho việc hội họp và thu hút khách du lịch Công trình này phản ánh rõ nét đặc trưng quy hoạch của làng xã Bắc Bộ, với đình làng là công trình đầu tiên mà du khách gặp khi bước qua cổng làng, nổi bật với những đặc điểm kiến trúc độc đáo.
+ Các công trình như Đình, miếu, giếng…nằm tại trung tâm làng phục vụ cho hoạt động văn hóa, lễ hội, sinh hoạt chung của làng.
Hệ thống giao thông trong làng bao gồm một đường trục chính nối từ cổng làng đến các công trình trung tâm, cùng với các đường nhỏ phân nhánh như cành cây để kết nối giao thông từ trục chính đến các hộ gia đình Ngoài ra, còn có các tuyến đường giao thông dẫn đến khu vực đất màu, phục vụ cho canh tác trồng trọt và chăn nuôi.
Làng chủ yếu tập trung vào các hộ gia đình, trong đó nghề nghiệp chính là canh tác trồng trọt, phát triển cây cảnh và du lịch sinh thái.
Làng được bao bọc bởi hệ thống đường xá, cây xanh, sông ngòi, ao hồ và các thửa đất trồng rau, tạo nên môi trường thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt hàng ngày.
Cấu trúc làng Bắc Bộ đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và biến đổi để phù hợp với đời sống và hoạt động sản xuất của người dân, nhưng vẫn giữ được những đặc trưng cơ bản của làng xã truyền thống.
Về kiến trúc hình thái đình làng a. lịch sử hình thành đình làng.
Từ thời Hùng Vương, đình làng đã xuất hiện dưới dạng chòi nghỉ kiểu nhà sàn Đến thế kỉ X, đình Trạm được phát triển và trở nên phổ biến trong thời Lý – Trần để phục vụ các chuyến vi hành của vua Đến thế kỉ XV, dưới triều đại các vua Lê, đình làng đã trở thành trung tâm quan trọng của làng xã Đầu thế kỉ XIX, đình làng bắt đầu mở rộng về phía Đàng Trong.
Kiến trúc đình làng thời Hùng Vương thường được xây dựng tại vị trí trung tâm của làng, nơi có không gian thoáng đãng và gần sông nước, tạo nên yếu tố phong thủy quan trọng Đình làng không chỉ là nơi thờ cúng mà còn đóng vai trò như một thiết chế văn hóa – tín ngưỡng với ba chức năng chính: tín ngưỡng, hành chính và văn hóa, hòa quyện vào nhau, tạo nên nét độc đáo của đình làng Bắc Bộ Với quy mô lớn, đình làng thường được ví như "to như cái đình làng", thể hiện sự quan trọng và vai trò trung tâm trong đời sống cộng đồng Các đình làng nổi bật như Đình làng Vân La và Đình làng Xâm Xuyên là những ví dụ tiêu biểu cho kiến trúc và văn hóa truyền thống này.
Phối cảnh đình La Thượng d. yếu tố cảnh quan đình làng Bắc Bộ.
Yếu tố “thủy” đóng vai trò quan trọng trong mỗi ngôi đình, vì nếu không có ao hồ tự nhiên, dân làng sẽ đào giếng khơi để tạo mặt nước phía trước đình, nhằm đảm bảo thế “tụ thủy” - điểm thịnh vượng của làng Đình làng thường được xây dựng bằng gỗ với phong cách trang trí và trạm khắc tinh xảo Mặt nước không chỉ cải thiện khí hậu bên trong đình mà còn tạo sự hòa quyện giữa yếu tố dương (đình) và âm (mặt nước).
Mặt hồ nước trong xanh trước đình làng Vân La
Giếng làng, xuất hiện từ khi ngôi đình được thành lập, không chỉ cung cấp nước trong mát mà còn là nơi gặp gỡ và trò chuyện của người dân trong làng Đây là hình ảnh đẹp về quê hương, ghi dấu ấn trong tâm trí những người xa quê Nước giếng còn được sử dụng trong các lễ cúng trong những ngày lễ hội.
Nhận xét
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy cấu trúc quy hoạch của xã Hồng Vân vẫn giữ được nét truyền thống của làng xã, nhưng đã có sự thay đổi đáng kể Hệ thống giao thông được mở rộng và nâng cấp từ đường đất sang đường bê tông Các công trình nhà ở đã chuyển từ nhà gạch cũ sang nhà tầng với vật liệu hiện đại hơn Ngoài ra, các công trình công cộng cũng đã được tu sửa và nâng cấp, phản ánh sự phát triển của xã.
Các công trình và di tích nổi tiếng như Đình Xâm Xuyên, Đền Xâm Thị và Nhà thờ Cơ Gíao không chỉ mang giá trị lịch sử to lớn mà còn thể hiện nghệ thuật kiến trúc đặc sắc.
Việc gìn giữ và bảo tồn di sản văn hóa là rất quan trọng, đồng thời cần thực hiện nâng cấp và tu sửa để duy trì các chức năng vốn có Điều này giúp mọi người có cơ hội tìm hiểu và khám phá các giai đoạn lịch sử của xã Hồng Vân.
Với sự phát triển của xã hội và quá trình đô thị hóa, cấu trúc làng xã truyền thống đang được mở rộng để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và làm việc của người dân Sự gia tăng xây dựng nhà ở không chỉ mở rộng diện tích đất ở mà còn thu hẹp đất nông nghiệp, điều này yêu cầu một quy hoạch hợp lý để cân bằng việc sử dụng đất và tránh tình trạng quá tải.
Trong cấu trúc làng xã Hồng Vân, sự tồn tại song song giữa các công trình kiến trúc mới và nhà ở cũ cho thấy rõ quá trình phát triển lịch sử của khu vực Điều này không chỉ phản ánh sự hình thành và thay đổi qua các thời kỳ mà còn giúp thế hệ hiện tại và tương lai tìm hiểu về lịch sử và sự biến đổi của địa phương.
Khu vực làng xóm cổ với những ngôi nhà truyền thống, dù đã xuống cấp, vẫn bảo tồn được kiến trúc đặc trưng của Bắc Bộ Cảnh quan đường ngõ và sân vườn ở đây góp phần quan trọng vào việc gìn giữ văn hóa kiến trúc độc đáo của khu vực.
Việc nghiên cứu hiện trạng quy hoạch và kiến trúc khu vực giúp đánh giá các công trình hiện có, xác định những công trình xuống cấp cần cải tạo hoặc xây mới, đặc biệt là các công trình công cộng như đình, chùa, miếu Từ đó, có thể đưa ra định hướng phát triển phù hợp với quy hoạch chung của khu vực, giữ lại những giá trị hiện hữu và xây dựng mới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Phân tích hình thái khu vực nghiên cứu
Phân tích hình thái kiến trúc cảnh quan
2.1 Phân tích đánh giá kiến trúc cảnh quan.
Kiến trúc cảnh quan khu vực đang trải qua sự chuyển mình rõ rệt với sự thay thế của các công trình nhà ở cao tầng, hiện đại và đa dạng kiểu dáng, thay cho những ngôi nhà cũ Các công trình công cộng cũng được nâng cấp hoặc xây dựng mới khang trang hơn Tuy nhiên, vẫn có những công trình cổ còn tồn tại, góp phần gìn giữ nét văn hóa lịch sử của khu vực.
Trục giao thông chính của thôn vẫn được duy trì, kết nối với hệ thống đường nhựa của xã và đi qua cổng làng Đường bê tông lớn cùng với các đường bê tông nhỏ được bố trí theo kiểu mạng xương cá, tạo ra một hệ thống giao thông thông suốt trong khu vực.
2.1.2 Hiện trạng hình thái công trình.
Các công trình trong thôn có lịch sử lâu đời, bao quanh khu trung tâm với nhà thơ Cơ Giáo và nhà văn hóa thôn, đồng thời được mở rộng ra các khu vực lân cận.
Các công trình nhà ở bám sát trục giao thông chính của khu vực, thuận tiện cho việc giao thông đi lại của người dân.
Hướng chính của các công trình là hướng vòng cung Đông – Bắc , Tây - Nam.
Có thể phát triển các phương án xây dựng hạ tầng giao thông, mạng lưới cấp thoát nước và cấp điện cho khu vực Bản vẽ cho thấy sự phân bố của các công trình trong thôn, đồng thời thể hiện mối tương quan giữa không gian trống và không gian mở.
2.1.4 Hiện trạng công trình công cộng. a.Công trình giáo dục
Thôn Hồng Vân hiện có một trường mầm non hai tầng, một trường tiểu học và một trường trung học cơ sở, mặc dù các trường đã được xây dựng từ lâu nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ trang thiết bị dạy học và vui chơi cho trẻ Vị trí của các trường nằm trong khu dân cư giúp tiết kiệm thời gian đi học cho học sinh, tuy nhiên, do kinh phí hạn chế, bán kính phục vụ của trường chưa đạt tiêu chuẩn Các trường được xây dựng trên trục đường chính, gần các tuyến giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người dân.
Các công trình văn hóa tại trung tâm gần đình làng đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức các hoạt động cộng đồng Nhà văn hóa không chỉ là nơi diễn ra hội họp mà còn là trung tâm cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết cho người dân trong cụm.
Các công trình văn hóa trong thôn vẫn chưa được cải tạo, nhưng vị trí của chúng rất thuận lợi cho người dân trong khu vực tiếp cận và sử dụng Hiện tại, nhà văn hóa có cơ sở vật chất hạn chế và chưa được trang bị đầy đủ thiết bị phục vụ cho nhu cầu của cộng đồng dân cư.
Trung tâm văn hóa thể thao xã, tọa lạc trên diện tích 26 ha, được quy hoạch tại vị trí trung tâm, mang lại sự thuận tiện cho người dân trong việc sử dụng và di chuyển Cơ sở vật chất tại đây được trang bị đầy đủ tiện nghi, với bàn ghế và sân thi đấu được bố trí tỉ mỉ, đảm bảo mới mẻ và sẵn sàng phục vụ nhu cầu của cộng đồng.
Thôn Cơ Gíao là một thôn theo đạo thiên chúa toàn tòng, với người dân chủ yếu theo đạo này Nhà thờ giáo sứ Cẩm Cơ là công trình nổi bật nhất của thôn, thể hiện đặc trưng tôn giáo của cộng đồng Khác biệt với các thôn khác trong xã, Cơ Gíao không có đình, chùa hay đền miếu, điều này tạo nên nét độc đáo cho nơi đây.
Giáo xứ Cẩm Cơ nằm tại thôn Cơ Giáo, xã Hồng Vân, huyện Thường Tín, Hà Nội, thuộc hạt Phú Xuyên trong Tổng Giáo Phận Hà Nội Được thành lập từ lâu, xứ Cẩm Cơ bao gồm họ nhà xứ Cẩm Cơ cùng bốn họ lẻ: Tự Nhiên, Vĩnh Lộc, Phú Mỹ và Nội Thôn, với tổng số giáo dân là 1.326 người Người dân nơi đây chủ yếu sống bằng nghề nông Từ xa xưa, cộng đoàn tín hữu đã xây dựng một ngôi nhà thờ bằng tre và lợp lá để phục vụ cho việc thờ phượng và sinh hoạt.
Năm 1927, ngôi nhà thờ được xây bằng gạch, lợp ngói có tổng diện tích : 192m2, trong đó chiều dài 24m, chiều rộng 8m, và ngọn tháp cao
Kiến trúc : nhà thờ, với chiều dài là 41,02m; chiều rộng 13,03 m và tổng diện tích bao gồm cả hai cánh thánh giá là 580m2; hai tháp cao 38m.
Một số hình ảnh của nhà thờ sau khi đã được tu sửa vào năm 2015:
Khung cảnh bao quát nhà thờ
Cận cảnh kiến trúc bên trong nhà thờ 2.1.6 Một số công trình kiến trúc tiêu biểu. a Kiến trúc nhà ở
Thôn Cơ Gíao, với lịch sử hình thành lâu dài, đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, để lại dấu ấn qua các công trình tiêu biểu Những công trình này không chỉ phản ánh sự thay đổi của từng thời kỳ lịch sử mà còn thể hiện nét kiến trúc độc đáo và đặc trưng của vùng Tìm hiểu về các công trình này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phát triển văn hóa và lịch sử của thôn Cơ Gíao.
Ngôi nhà truyền thống Việt Nam có hình thức bên ngoài mộc mạc và giản dị, với tường xây bằng gạch và mái ngói âm dương đơn giản, không cầu kỳ Những đường chỉ dài khắc vạch và hàng cột hiên tạo nên vẻ đẹp khiêm nhường, cùng với bức tường quét vôi trắng Tuy nhiên, ẩn chứa bên trong vẻ giản dị ấy là cội nguồn văn hóa và sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt.
Với sự phát triển không ngừng của xã hội, các công trình kiến trúc cổ trong thôn ngày càng hiếm hoi, nhường chỗ cho những tòa nhà cao tầng hiện đại và khang trang hơn Các công trình mới thường được xây dựng từ 1 đến 4 tầng, sử dụng chủ yếu vật liệu gạch và xi măng, bên ngoài được sơn bằng nhiều tông màu khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện của từng gia đình.
Các công trình nhà mới xây dựng hiện nay chú trọng vào kiểu dáng và mẫu mã theo sở thích của người sử dụng Bên cạnh đó, không gian sống còn được kết hợp hài hòa với sân vườn, cây xanh và cảnh quan xung quanh, tạo nên một môi trường sống lý tưởng.
2.2 Nhận xét kiến trúc cảnh quan. a.
Các tuyến đường nội bộ chủ yếu là mạng lưới làng xã cũ đã được nâng cấp, tạo thành hệ thống đường phân nhánh Tuy nhiên, mạng lưới này chỉ đáp ứng nhu cầu giao thông hàng ngày cho xe máy và xe đạp, chưa đủ khả năng phục vụ các phương tiện cơ giới như ô tô và xe chở vật liệu.