1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014

80 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Hình Thức Đầu Tư Theo Luật Đầu Tư Năm 2014
Tác giả Nguyễn Đình Thắng
Người hướng dẫn PGS, TS Tăng Văn Nghĩa
Trường học Trường Đại học Ngoại thương
Chuyên ngành Luật kinh tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 80
Dung lượng 534,57 KB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài (8)
  • 2. Tình hình nghi n cứu (9)
  • 3. Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu (10)
    • 3.1. Mục đích nghiên cứu (10)
    • 3.2. Nhi m vụ nghiên cứu (10)
  • 4. Đối tượng và phạm vi nghi n cứu (10)
    • 4.1. Đối tượng nghiên cứu (10)
    • 4.2. Phạm vi nghiên cứu (11)
  • 5. Phư ng pháp nghi n cứu (11)
  • 6. Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của luận văn (12)
  • 7. Kết cấu của luận văn (12)
  • CHƯƠNG 1. (13)
    • 1.1. Khái quát về đầu tư (13)
    • 1.2. Khái quát về sự ra đời và phát triển của pháp luật đầu tư (14)
    • 1.3. Khái quát về các hình thức đầu tư (18)
      • 1.3.1. Khái ni m hình thức đầu tư (18)
      • 1.3.2. Sự phát triển của các hình hình đầu tư (18)
      • 1.3.3. Vai trò của các hình thức đầu tư (36)
    • 2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về hình thức đầu tư (39)
      • 2.1.1. Hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế (39)
      • 2.1.2. Góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế (41)
      • 2.1.3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (44)
      • 2.1.4. Hình thức đầu tư theo hợp đồng đối tác công tư PPP (47)
    • 2.2. Đánh giá các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 (53)
      • 2.2.1. Những ưu điểm (53)
      • 2.2.2. Những vấn đề đặt ra khi áp dụng các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 (57)
  • CHƯƠNG 3. (39)
    • 3.1. Xu hướng phát triển các hình thức đầu tư hiện nay (66)
    • 3.2. Một số khuyến nghị nh m thực thi các quy định về hình thức đầu tư (66)
      • 3.2.1. Phổ biến, tuyên truyền về hình thức đầu tư (67)
      • 3.2.2. Về năng lực thực thi của cơ quan nhà nước có thầm quyền (68)
      • 3.2.3. Khuyến nghị hoàn thi n quy định về định giá tài sản góp vốn, (70)
      • 3.2.4. Khuyến nghị hoàn thi n các quy định về hợp đồng PPP (70)
  • KẾT LUẬN (76)

Nội dung

Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014 Các hình thức đầu tư theo luật đầu tư năm 2014

Tính cấp thiết của đề tài

Đầu tư tại Việt Nam được chia thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài dựa trên nguồn gốc vốn Các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án theo Luật Đầu tư nước ngoài 1987, trong khi nhà đầu tư trong nước, bao gồm tổ chức và cá nhân Việt Nam, tuân theo Luật Khuyến khích đầu tư 1995 (sửa đổi 1998) Nhà đầu tư nước ngoài có thể chọn nhiều hình thức đầu tư để thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh, nhưng thực tế cho thấy họ gặp nhiều hạn chế hơn so với nhà đầu tư trong nước.

Luật Đầu tư năm 2014 được ban hành nhằm phát triển kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập và mở cửa, với mục tiêu thu hút nguồn vốn từ cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài Luật này quy định đa dạng và đổi mới các hình thức đầu tư, xóa bỏ sự phân biệt giữa các nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong các quy định pháp luật Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu thu hút đầu tư mà còn phù hợp với nguyên tắc tự do và bình đẳng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Việt Nam sở hữu nhiều hình thức đầu tư phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư trong khu vực Các lựa chọn này phù hợp với quy mô nguồn vốn, khả năng quản lý và mức độ chịu trách nhiệm của nhà đầu tư trong hoạt động kinh doanh.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa hội nhập quốc tế nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước, tìm kiếm nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội Việc tham gia vào nhiều tổ chức thương mại thế giới và các tổ chức kinh tế khu vực như WTO, AFTA, CPTPP, APEC, ASEAN đã đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh hợp lý để phù hợp với thực tiễn.

Học viên đã quyết định chọn đề tài "Các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014" cho luận văn thạc sĩ của mình do những lý do quan trọng liên quan đến lĩnh vực đầu tư.

Tình hình nghi n cứu

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa kinh tế nhằm thu hút cả đầu tư trong nước và nước ngoài Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp để kêu gọi và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đến với thị trường Việt Nam.

Trước Luật Đầu tư năm 2014 ra đời, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như:

Mai Ngọc Cường trong tác phẩm “Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” (NXB Chính trị quốc gia, 2000) đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế thu hút đầu tư Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khai thác tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài hiệu quả hơn.

Huỳnh Thị Thúy Giang (2012) trong luận văn Tiến sĩ kinh tế đã nghiên cứu hình thức hợp tác công tư (PPP) để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam Nghiên cứu tập trung vào các bằng chứng thực nghiệm về PPP trong lĩnh vực giao thông, nhận diện cơ hội từ thực trạng đầu tư tư nhân và đo lường mức độ sẵn sàng đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức PPP.

Nghiên cứu tổng quát về các hình thức đầu tư và khung pháp lý tại Việt Nam hiện nay còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào một số hình thức như góp vốn, mua cổ phần, hợp đồng đối tác công tư và thành lập tổ chức kinh tế.

Mục đích và nhiệm vụ nghi n cứu

Mục đích nghiên cứu

Bài viết này phân tích các hình thức đầu tư của nhà đầu tư, nhằm đánh giá những bất cập và vướng mắc trong việc áp dụng quy định pháp luật Việt Nam Dựa trên cơ sở lý luận, luận văn đề xuất các khuyến nghị thực hiện các hình thức đầu tư liên quan đến Luật Đầu tư năm 2014, từ đó nâng cao hiệu quả và tính khả thi trong quá trình đầu tư.

Nhi m vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:

Luật Đầu tư năm 2014 quy định nhiều hình thức đầu tư, cần làm rõ khái niệm và nội dung liên quan đến quyền lựa chọn hình thức đầu tư Việc hiểu rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về hình thức đầu tư sẽ giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định chính xác và hiệu quả hơn Quyền lựa chọn hình thức đầu tư không chỉ phản ánh sự linh hoạt trong hoạt động đầu tư mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và môi trường đầu tư tại Việt Nam.

- Nghiên cứu các nguyên tắc, căn cứ, nội dung và phạm vi của các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014

Phân tích quy định pháp luật Việt Nam về các hình thức đầu tư cho thấy nhiều bất cập và khó khăn trong thực thi So sánh với các quy định pháp luật liên quan, rõ ràng có những điểm chưa phù hợp cần được điều chỉnh để nâng cao hiệu quả đầu tư Việc nhận diện những hạn chế trong quy định hiện hành sẽ góp phần cải thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế.

- Luận giải cho những khuyến nghị được nêu trong Luận văn về hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về các hình thức đầu tư.

Đối tượng và phạm vi nghi n cứu

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào các hình thức đầu tư của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài theo Luật Đầu tư năm 2014 của Việt Nam Phần nghiên cứu về nhà đầu tư trong nước nhằm mục tiêu so sánh và đối chiếu các quy định hiện hành để rút ra những bất cập và đề xuất cải tiến, mà không mang tính phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.

Phạm vi nghiên cứu

Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu các hình thức đầu tư của cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài theo Luật Đầu tư năm 2014 Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu các hình thức đầu tư dựa trên các quy định của pháp luật đầu tư qua từng thời kỳ, nhằm xem xét sự phát triển của các hình thức đầu tư này.

Luận văn tập trung nghiên cứu các hình thức đầu tư hiện có tại Việt Nam, tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành Các quy định về hình thức đầu tư nước ngoài sẽ được xem xét để so sánh, nhưng không phải là đối tượng nghiên cứu chính trong luận văn này.

Luận văn này tập trung nghiên cứu các hình thức đầu tư cơ bản theo Luật Đầu tư năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật cho đến năm 2025 Từ đó, bài viết đề xuất một số khuyến nghị nhằm cải thiện và phát triển hình thức đầu tư tại Việt Nam.

Phư ng pháp nghi n cứu

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống, bao gồm hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh trong lĩnh vực luật học.

Phương pháp phân tích – tổng hợp được áp dụng liên tục trong toàn bộ luận văn nhằm làm rõ các vấn đề nghiên cứu Đặc biệt, phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong Chương 1 để hệ thống hóa các công trình nghiên cứu đã công bố, từ đó cung cấp cái nhìn toàn diện và cụ thể về cơ sở lý luận liên quan đến các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014.

Phương pháp luận giải và phương pháp so sánh luật học được áp dụng chủ yếu trong Chương 1 và Chương 2 để phân tích và làm rõ những ưu điểm cũng như nhược điểm của các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014.

Phương pháp tổng hợp s được áp dụng chủ yếu trong Chương 3 để đưa ra các khuyến nghị và lý giải cho những khuyến nghị liên quan đến hình thức đầu tư tại Việt Nam.

Ý nghĩa thực tiễn và khoa học của luận văn

Luận văn là nghiên cứu hệ thống về các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014, đóng góp vào việc bổ sung và phát triển lý luận pháp luật liên quan Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển đầu tư trong nền kinh tế.

- Làm sáng tỏ về mặt lý luận các vấn đề về các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư năm 2014

Luật Đầu tư năm 2014 quy định nhiều hình thức đầu tư, bao gồm đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, và đầu tư theo hình thức hợp tác công tư Mỗi hình thức đầu tư đều có những ưu điểm riêng, như đầu tư trực tiếp giúp tăng cường sự hiện diện của nhà đầu tư và tạo ra việc làm, trong khi đầu tư gián tiếp thường mang lại tính linh hoạt và khả năng tiếp cận thị trường nhanh chóng Tuy nhiên, cũng tồn tại những hạn chế, như đầu tư trực tiếp có thể gặp rủi ro cao hơn và yêu cầu vốn lớn, còn đầu tư gián tiếp có thể chịu ảnh hưởng từ biến động thị trường và thiếu kiểm soát trực tiếp Việc hiểu rõ các hình thức đầu tư này sẽ giúp nhà đầu tư lựa chọn phương án phù hợp với mục tiêu và khả năng tài chính của mình.

- Đánh giá thực trạng pháp luật về đầu tư tại Việt Nam nhằm làm rõ bất cập, hạn chế của pháp luật về đầu tư.

- Đề xuất một số khuyến nghị liên quan đến hình thức đầu tư theo pháp luật đầu tư ở Việt Namtrong giai đoạn hiện nay.

Kết cấu của luận văn

Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 Chương:

Chương 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư và các hình thức đầu tư;

Chương 2 Thực trạng quy định của pháp luật về các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014;

Chương 3: Khuyến nghị thực thi các quy định về hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014.

Khái quát về đầu tư

Đầu tư là quá trình sử dụng nguồn lực tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và tài sản vật chất để tái sản xuất các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế Theo nghĩa rộng, đầu tư là hy sinh nguồn lực hiện tại để đạt được kết quả lớn hơn trong tương lai Nguồn lực đầu tư có thể là tiền, tài nguyên, sức lao động và trí tuệ, với kết quả đạt được là tài sản tài chính, vật chất, trí tuệ và nguồn lực Trong khi đó, đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ tập trung vào việc sử dụng nguồn lực hiện tại để tạo ra kết quả lớn hơn cho nền kinh tế - xã hội trong tương lai.

Đầu tư được định nghĩa là hoạt động sử dụng nguồn lực tài chính, vật chất, lao động và trí tuệ để sản xuất kinh doanh trong thời gian dài, với mục tiêu thu lợi nhuận và mang lại lợi ích kinh tế xã hội.

Hoạt động đầu tư có những đặc điểm chính sau đây:

Để bắt đầu một dự án, việc có vốn là điều kiện tiên quyết Vốn có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức như tiền mặt, tài sản cố định như máy móc, nhà xưởng, hoặc các công trình xây dựng khác Ngoài ra, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, và dịch vụ kỹ thuật cũng được xem là vốn Các nguồn vốn này có thể đến từ Nhà nước, tư nhân, vốn góp, cổ phần, hoặc các khoản vay với thời hạn dài, trung bình và ngắn hạn.

Thời gian đầu tư thường kéo dài từ 2 năm trở lên, có thể lên đến 50 năm hoặc thậm chí 99 năm tùy theo quy định của từng quốc gia Các hoạt động ngắn hạn dưới một năm tài chính không được xem là đầu tư Thời hạn đầu tư được ghi rõ trong quyết định đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, đồng thời được coi là tuổi thọ của dự án.

Đầu tư mang lại hai loại lợi ích chính: lợi ích tài chính, thể hiện qua lợi nhuận, và lợi ích kinh tế xã hội, thường được gọi tắt là lợi ích kinh tế Lợi ích tài chính có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhà đầu tư, trong khi lợi ích kinh tế tác động đến quyền lợi của xã hội và cộng đồng.

Khái quát về sự ra đời và phát triển của pháp luật đầu tư

Sau ngày 30/4/1975, Việt Nam bước vào giai đoạn mới nhằm củng cố và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đối mặt với nhiều thách thức do hậu quả chiến tranh kéo dài Nhân dân đã nỗ lực khôi phục nền kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và thiết lập quan hệ sản xuất mới, đồng thời phát triển văn hóa, giáo dục và y tế Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn kém phát triển, chủ yếu dựa vào sản xuất nhỏ và tự cấp tự túc, với trình độ kỹ thuật lạc hậu và năng suất lao động thấp Cơ cấu kinh tế vẫn mang đặc trưng nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc vào bên ngoài, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, và tình trạng chia cắt trong quản lý kinh tế vẫn phổ biến, dẫn đến hiệu quả thấp trong sản xuất.

Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy quan hệ phân chia và hợp tác song phương trong lĩnh vực kinh tế Điều này được coi là yếu tố then chốt trong việc khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, đồng thời mở rộng các quan hệ kinh tế với các nước khác.

Vào ngày 18/4/1977, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 115/NĐ-CP cùng với Điều lệ đầu tư nước ngoài, đánh dấu văn bản pháp quy đầu tiên về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Điều lệ này không chỉ thể hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước mà còn khuyến khích và điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài, được các nhà đầu tư thời kỳ đó đón nhận như một tín hiệu mở cửa của Việt Nam.

Vào năm 1977, chỉ hai năm sau khi thống nhất đất nước, nhà nước bắt đầu củng cố và phát triển kinh tế trong bối cảnh đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm và cơ chế kinh tế quản lý lỏng lẻo Mặc dù chỉ công nhận hai thành phần kinh tế là Nhà nước và Hợp tác xã, Việt Nam đã mạnh dạn xây dựng khung pháp lý cho việc thu hút đầu tư nước ngoài, thể hiện tầm nhìn chiến lược vượt trội so với nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa khác Điều lệ đầu tư năm 1977, mặc dù chưa được thể chế hoá trong Hiến pháp, đã tạo ra cơ sở pháp lý sơ khai cho hoạt động đầu tư nước ngoài, góp phần hình thành những ý tưởng và nền tảng cho các cải cách sau này, bao gồm cả Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987.

Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1977 đã đóng vai trò quan trọng trong việc định hình và phát triển pháp luật về đầu tư tại quốc gia này.

Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã không ngừng cải thiện thể chế, dẫn đến sự ra đời của các Luật Đầu tư mới.

Năm 1987, Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành, đánh dấu giai đoạn mới trong việc xây dựng hệ thống pháp lý cho hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài Trong năm này, Việt Nam đã thu hút 213 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 1,793 tỷ USD.

Qua một thời gian thực hiện, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm

Năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài bộc lộ nhiều bất cập cần khắc phục, dẫn đến việc sửa đổi luật vào năm 1990 và 1992 để phù hợp với tình hình mới Các luật sửa đổi này đã giải quyết những hạn chế của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ hơn Giai đoạn này chứng kiến sự gia tăng đáng kể với 459 dự án đầu tư và tổng vốn đầu tư đạt 5,28 tỷ USD, trong đó vốn FDI tăng trưởng mạnh mẽ, đánh dấu sự khởi sắc của làn sóng đầu tư thứ nhất vào Việt Nam.

Sau gần 10 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, được ban hành năm 1987 và sửa đổi vào các năm 1990, 1992, nhận thấy luật này đã không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

Năm 1996, Việt Nam bắt đầu giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, trở thành thị trường thương mại hấp dẫn cho các nhà đầu tư Để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào ngày 12/11/1996.

Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 nhằm tăng cường kết nối giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, trong năm 2000, việc thu hút FDI gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, chỉ đạt 2,838 tỷ USD.

Việc thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài và trong nước vẫn được quy định bởi hai đạo luật khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong ưu đãi đầu tư Để phù hợp với pháp luật quốc tế và quy định của WTO, Luật Đầu tư năm 2005 đã được Quốc hội thông qua, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thống nhất quản lý đầu tư trong và ngoài nước Đồng thời, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng được ban hành để quy định về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp trong quá trình triển khai dự án đầu tư tại Việt Nam Sự ra đời của Luật Đầu tư 2005 đã góp phần thu hút vốn FDI, với làn sóng đầu tư thứ hai bắt đầu vào năm 2005, thu hút được 6,839 tỷ USD.

Luật Đầu tư năm 2014, được Quốc hội thông qua vào ngày 26/11/2014 và có hiệu lực từ 01/01/2015, nhằm đổi mới chính sách thu hút đầu tư tại Việt Nam Luật này tạo ra một cơ sở pháp lý thống nhất và đồng bộ, nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động đầu tư và sử dụng vốn đầu tư công, đồng thời khắc phục những hạn chế trong đầu tư công Năm 2017, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 35,88 tỷ USD.

Sau 30 năm đổi mới đất nước để đáp ứng nhu cầu phát triển, nước ta đã không ngừng hoàn thiện thể chế, hoàn thiện pháp luật về đầu tư để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nội dung bài viết được dựa trên bản thảo Giáo trình Pháp luật Đầu tư, do PGS, TS Tăng Văn Nghĩa biên soạn và sắp được xuất bản Ghi chú này nhằm mục đích tránh tranh chấp về quyền tác giả trong tương lai.

2 https://baodautu.vn/30-nam-fdi-du-luat-lich-su-va-nhung-chuyen-co-cho-ty-phu-d74458.html

Khái quát về các hình thức đầu tư

1.3.1 Khái ni m hình thức đầu tư

Mặc dù Việt Nam đã trải qua nhiều quy định pháp luật về đầu tư qua các thời kỳ, nhưng vẫn chưa có văn bản nào xác định rõ khái niệm về các hình thức đầu tư Các văn bản như Điều lệ đầu tư năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990 và Luật sửa đổi bổ sung năm 1992 đều không đề cập đến vấn đề này.

Từ năm 2014, Việt Nam chưa ban hành Điều luật nào định nghĩa rõ ràng các hình thức đầu tư, mà chỉ quy định các hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài được phép thực hiện tại Việt Nam.

Quyền lựa chọn hình thức, phương thức đầu tư do nhà đầu tư quyết định

Các hình thức đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm: đầu tư thành lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần, và phần vốn góp vào tổ chức kinh tế Ngoài ra, còn có đầu tư theo hợp đồng BCC (hợp đồng hợp tác kinh doanh) và hợp đồng PPP (hợp đồng đối tác công - tư) theo Luật Đầu tư năm 2014.

1.3.2 Sự phát triển của các hình hình đầu tư

Các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được đề cập lần đầu trong Điều lệ đầu tư năm 1977, ngay sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất.

Theo Điều 1 của Điều lệ đầu tư năm 1977, Chính phủ Việt Nam cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài với nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời đảm bảo lợi ích cho các bên mà không phân biệt chế độ kinh tế chính trị của nhà đầu tư Mục tiêu khuyến khích đầu tư nước ngoài được thể hiện rõ ràng, với ba hình thức đầu tư được quy định trong Điều lệ này.

Hình thức đầu tư "hợp tác sản xuất chia sản phẩm" là cơ sở của Hợp đồng hợp tác kinh doanh hiện nay Theo Điều lệ đầu tư năm 1977, bên nước ngoài tham gia hợp tác này sẽ đóng góp vốn, trang thiết bị, vật tư, kỹ thuật và công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho chương trình hợp tác kinh tế đã thỏa thuận Sản phẩm tạo ra sẽ được chia theo tỷ lệ đã thỏa thuận giữa các bên, trong đó phần sản phẩm của bên nước ngoài chủ yếu dành cho xuất khẩu, trừ khi bên Việt Nam yêu cầu tiêu thụ một phần hoặc toàn bộ sản phẩm trong nước.

Hình thức đầu tư "xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp" là nền tảng cho mô hình liên doanh hiện nay, trong đó bên nước ngoài và tổ chức kinh tế quốc doanh Việt Nam cùng hùn vốn để thành lập một pháp nhân theo luật pháp Việt Nam Xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp có thể được thành lập dưới dạng công ty vô danh hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, hoạt động theo hợp đồng hợp doanh và điều lệ riêng Vốn đầu tư của bên nước ngoài được quy định từ 30% đến 49% tổng vốn, nhằm ngăn chặn tình trạng chiếm đa số vốn và kiểm soát công ty Sản phẩm của các xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp phải được xuất khẩu theo tỷ lệ đã thỏa thuận giữa các bên.

Hình thức đầu tư “xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu” cho phép 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, mang lại tư cách pháp nhân cho doanh nghiệp Theo quy định, sản phẩm của xí nghiệp này phải được xuất khẩu hoàn toàn, thể hiện sự tự do và cởi mở trong chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam kể từ năm 1977.

1.3.2.1 T heo Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987

Sau đại hội VI năm 1986, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện và sâu sắc, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam hướng tới Chủ nghĩa xã hội Để phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế, Nhà nước đã cụ thể hóa các chính sách bằng luật pháp, nhằm thu hút thêm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã được ban hành, hoàn thiện ba hình thức đầu tư được quy định sơ khai trong Điều lệ đầu tư năm 1977 Luật này cung cấp nội dung rõ ràng và khoa học hơn về các hình thức đầu tư, tạo nền tảng vững chắc cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

- Hình thức đầu tư “hợp đồng hợp tác kinh doanh”:

Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày càng phổ biến trên toàn cầu và được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao nhờ tính đa dạng và linh hoạt Hình thức này bắt nguồn từ mô hình hợp tác sản xuất chia sản phẩm được quy định trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, tạo nền tảng cho sự phát triển của Luật Đầu tư nước ngoài.

Năm 1987, Việt Nam đã chuẩn hóa hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định tại Điều 5 rằng bên nước ngoài và bên Việt Nam có thể hợp tác kinh doanh dựa trên hợp đồng này, bao gồm cả hợp tác sản xuất chia sản phẩm Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 nhấn mạnh rằng đặc trưng cơ bản của hợp đồng hợp tác kinh doanh là các bên cùng góp vốn để kinh doanh và phân chia kết quả mà không thành lập pháp nhân mới như liên doanh Mỗi bên vẫn giữ pháp nhân riêng và tự quản lý nghĩa vụ tài chính theo hai hệ thống pháp luật khác nhau: bên Việt Nam theo pháp luật trong nước và bên nước ngoài theo Luật Đầu tư nước ngoài.

Hình thức đầu tư "xí nghiệp liên doanh" được định nghĩa tại Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 như là xí nghiệp do bên nước ngoài và bên Việt Nam hợp tác thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc Hiệp định giữa hai Chính phủ Theo đó, xí nghiệp liên doanh chỉ bao gồm một bên nước ngoài và một bên Việt Nam, và nếu có nhiều pháp nhân hoặc cá nhân muốn hợp tác, họ phải thỏa thuận để xác định một bên nước ngoài và một bên Việt Nam Đặc biệt, liên doanh dầu khí Việt-Xô là một ví dụ điển hình được thành lập dựa trên Hiệp định giữa hai Chính phủ, nhưng từ đó đến nay, không có liên doanh nào tương tự được hình thành.

- Hình thức đầu tư “xí nghiệp 100% vốn nước ngoài”

Hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được quy định từ năm 1977 trong Điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhưng với yêu cầu xuất khẩu 100% sản phẩm, nó đã trở nên kém hấp dẫn và được gọi là “xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu” Để cải thiện tính hấp dẫn của hình thức này, Luật Đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi.

Năm 1987, Việt Nam đã chính thức quy định hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo Điều 14 của Luật Đầu tư nước ngoài, cho phép các tổ chức và cá nhân nước ngoài thành lập xí nghiệp tại Việt Nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh Xí nghiệp này không bị yêu cầu xuất khẩu 100% sản phẩm và có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, đánh dấu một bước tiến quan trọng so với Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 Hình thức này chủ yếu được thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn.

1.3.2 2 Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Vi t Nam năm 1996

Thực trạng quy định của pháp luật về hình thức đầu tư

2.1.1 Hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là một trong những hình thức cơ bản trong đầu tư kinh doanh nói chung Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014 (Điều 22), nhà đầu tư có quyền thành lập các loại hình tổ chức kinh tế 5 Tổ chức kinh tếlà tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh Điều này có nghĩa, các nhà đầu tư bao gồm các nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 6

Hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế được quy định tại Điều 22 của Luật Đầu tư năm 2014 và được hướng dẫn chi tiết trong Điều 44 của Nghị định số 118/2015/NĐ-CP, ban hành ngày 12/11/2015 Nghị định này quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.

Hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là việc nhà đầu tư bỏ vốn để thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc tổ chức khác nhằm thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh Đây là một hình thức đầu tư trực tiếp, trong đó nhà đầu tư không chỉ cung cấp vốn mà còn trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý của tổ chức.

Khoản 16, Điều 3, Luật Đầu tư năm 2014 định nghĩa “Tổ chức kinh tế” là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam Định nghĩa này bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh.

Nội dung trong bài viết được lấy từ bản thảo Giáo trình Pháp luật Đầu tư do PGS, TS Tăng Văn Nghĩa chủ biên, dự kiến sẽ được xuất bản trong thời gian tới Ghi chú này nhằm mục đích bảo vệ quyền tác giả và tránh tranh chấp sau này.

So với các hình thức đầu tư gián tiếp như mua cổ phiếu, trái phiếu, và quỹ đầu tư, việc đầu tư thành lập tổ chức kinh tế có tính phức tạp cao hơn và yêu cầu nhiều thủ tục đầu tư chặt chẽ hơn.

Chủthểđượcđầu tư thành lậptổchức kinh tế bao gồm: Nhà đầu tư trong nước;Tổchức kinh tế có vốnđầutưnước ngoài; Nhà đầutưnước ngoài Điềukiệnđể đầutư thành lậptổchức kinh tếnhư sau:

Nhà đầu tư nước ngoài cần chuẩn bị một dự án đầu tư và thực hiện thủ tục xin Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư trước khi thành lập tổ chức kinh tế Đồng thời, họ cũng phải đáp ứng các điều kiện quy định liên quan.

- Nhà đầutưnước ngoài phải có dự án đầutư;

Nhà đầu tư nước ngoài có quyền sở hữu vốn điều lệ không giới hạn trong các tổ chức kinh tế, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt được quy định.

Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty niêm yết, công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng khoán và quỹ đầu tư chứng khoán được quy định bởi pháp luật về chứng khoán.

Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu sẽ tuân thủ theo quy định pháp luật về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước.

Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không tuân theo quy định nêu trên sẽ được thực hiện theo các quy định pháp luật liên quan và các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Hình thức đầu tư và phạm vi hoạt động của các nhà đầu tư tại Việt Nam được quy định bởi các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên Đối với nhà đầu tư trong nước, việc đăng ký Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư khi thành lập tổ chức kinh tế là không bắt buộc theo Khoản 2 Điều 36 của Luật Đầu tư năm 2014 Tuy nhiên, nếu có nhu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho dự án, nhà đầu tư cần thực hiện thủ tục theo Điều 37 của Luật Đầu tư năm 2014.

2.1.2 Góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế

Góp vốn và mua cổ phần vào tổ chức kinh tế là hình thức đầu tư cơ bản theo Luật Đầu tư năm 2014, phản ánh nhu cầu và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp Cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều có thể tham gia hình thức này (Điều 24) Tuy nhiên, nhà đầu tư nước ngoài cần tuân thủ các điều kiện cụ thể theo Điều 25 và Điều 26 của Luật Đầu tư.

Khoản 1 Điều 26 LuậtĐầu tưnăm 2014 quy định:

1 Nhà đầutưthực hiệnthủtụcđăng ký góp vốn, mua cổ phần,phần vốn góp vào tổchức kinh tế trong các trườnghợp sau đây: a) Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổphần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tếhoạtđộng trong ngành, nghềđầutư kinh doanh có điều kiện áp dụngđốivới nhà đầutưnước ngoài; b) Việc góp vốn, mua cổphần,phầnvốn góp dẫnđến nhà đầu tưnước ngoài, tổchức kinh tế quy địnhtạikhoản 1 Điều 23 củaLuật này nắmgiữtừ 51% vốn điều lệtrở lên củatổchức kinh tế.

Khi đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam thông qua việc góp vốn hoặc mua cổ phần, nhà đầu tư nước ngoài cần chú ý đến ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp đó Việc tìm hiểu kỹ lưỡng về lĩnh vực hoạt động sẽ giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định đúng đắn và tối ưu hóa cơ hội đầu tư.

7 Tham khảo tại: https://luatduonggia.vn/cac-hinh-thuc-dau-tu-theo-luat-dau-tu-2014/

Ngày đăng: 03/02/2022, 21:27

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

w