NHỮ NG V ẤN ĐỀ CƠ BẢ N V Ề TÀI CHÍNH TI Ề N T Ệ
B ả n ch ấ t c ủ a ti ề n t ệ
1.1 Sự ra đời của tiền tệ
Theo Mác, tiền tệ là kết quả của một quá trình phát triển lâu dài trong trao đổi và các hình thái giá trị Quá trình này diễn ra thông qua sự chuyển biến từ các hình thái giá trị đơn giản đến hình thái giá trị tổng quát, phản ánh sự tiến hóa trong cách thức trao đổi hàng hóa.
- Hình thái trao đổi đơn giản hay ngẫu nhiên:
Hình thái giá trịtương đối vật ngang giá chung
Giá trị của bò được thể hiện thông qua rìu, trong khi rìu là công cụ để biểu hiện giá trị của bò Khi giá trị của hàng hóa (bò) được thể hiện qua một hàng hóa khác (rìu), đó được gọi là hình thái giá trị tương đối Ngược lại, khi giá trị sử dụng của hàng hóa rìu phản ánh giá trị của hàng hóa khác (bò), thì đây được xem là hình thái vật ngang giá chung.
Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng xuất hiện sau lần phân công lao động đầu tiên, khi bộ lạc du mục tách rời khỏi toàn bộ lạc, dẫn đến nhu cầu trao đổi hàng hóa đa dạng hơn nhưng vẫn mang tính trực tiếp Trong giai đoạn này, giá trị của vật không chỉ được thể hiện qua giá trị sử dụng mà còn qua giá trị sử dụng của nhiều loại hàng hóa khác nhau.
Ví dụ: 1 con gà = 10 kg thóc / 1 cái rìu/1 m vải / 0,1 chỉvàng (chưa cốđịnh)
Hình thái giá trị chung xuất hiện khi sự phân công lao động lần thứ hai diễn ra, với ngành thủ công nghiệp tách rời khỏi nông nghiệp Sự phát triển của sản xuất hàng hóa đã làm lộ rõ những nhược điểm của hình thức trao đổi trực tiếp, từ đó cần thiết phải có một loại hàng hóa đặc biệt đóng vai trò là vật ngang giá chung trong quá trình trao đổi.
2 con gà = 1 m vải (vật ngang giá nhưng chưa cốđịnh) 0,1 chỉ vàng
Hình thái tiền tệ được xác lập khi vật ngang giá chung cố định ở một hàng hóa cụ thể, đó là kim loại như kẽm, đồng, sắt, bạc và vàng Trong giai đoạn này, vàng được công nhận là vật ngang giá chung và trở thành tiền tệ, được gọi là kim tệ Do đó, vàng được xem là một hàng hóa đặc biệt trong hệ thống tiền tệ.
Tiền tệ không chỉ là một khái niệm kinh tế mà còn mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc Sự ra đời của tiền được xem là một trong những phát minh vĩ đại của nhân loại, góp phần quan trọng trong việc thay đổi diện mạo của nền kinh tế và xã hội.
Tiền tệ ra đời và phát triển song hành cùng với sản xuất và trao đổi hàng hóa Trong quá trình này, nó đã hình thành vật ngang giá chung, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao dịch thương mại.
Vàng – tiền tệ được coi là một hàng hoá đặc biệt
Tiền tệ được định nghĩa là hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò là thước đo giá trị chung cho các hàng hóa khác Nó không chỉ là phương tiện trao đổi mà còn đáp ứng nhu cầu của người sở hữu, tương ứng với giá trị mà họ đã tích lũy.
Khái niệm mới: Tiền là tất cả những phương tiện có thể làm trung gian trao đổi được nhiều người thừa nhận
Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đối lấy hàng hoá, dịch vụ hoặc trả các khoản nợ
Ngoài tiền tệ chính, còn nhiều vật thể khác như chi phiếu, thương phiếu và kỳ phiếu đóng vai trò trung gian trong trao đổi, nhưng các nhà kinh tế học vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về việc chúng có phải là tiền tệ hay không Irving Fisher khẳng định chỉ có giấy bạc ngân hàng mới được coi là tiền tệ, trong khi Conant Paul Warburg lại cho rằng chi phiếu cũng có thể xem là tiền tệ Samuelson định nghĩa tiền là bất kỳ thứ gì cho phép người ta mua hầu hết mọi thứ Theo Charles Rist, điều quan trọng không phải là thống nhất một định nghĩa về tiền tệ, mà là hiểu rõ hiện tượng tiền tệ.
1.2 Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ thực chất là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá dịch vụ, giúp quá trình trao đổi diễn ra dễ dàng hơn.
Ban đầu, vật ngang giá chung được biểu hiện qua các hàng hóa thông thường như bò, cừu và rìu Tiếp theo, nó mở rộng ra các hàng hóa như kẽm, đồng và bạc Cuối cùng, tiền tệ trở thành hình thức vật ngang giá chung phổ biến nhất.
Hàng hoá thông thường Hàng hoá tiền tệ
- Giá trị: đo lường hao phí lao động kết tinh trong hàng hoá thông qua giá cả
- Giá trị sử dụng: nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người
- Giá trị: là thước đo đo lường giá trị của những hàng hoá khác
- Giá trị sử dụng: nhằm thoả mãn tất cả các nhu cầu của con người khi sở hữu một khối lượng tiền tệ nhất định
Ch ức năng củ a ti ề n t ệ
Theo Mác, khi vàng được sử dụng làm tiền tệ, nó đảm nhận năm chức năng chính: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ và tiền tệ thế giới.
Giá trị của tiền được sử dụng để so sánh với giá trị của hàng hóa và dịch vụ, qua đó tiền thực hiện chức năng đo lường giá trị.
- Khi thực hiện chức năng này thì:
+ Giá trị của tiền được coi là chuẩn mực (1 bên là tiền, 1 bên là hàng)
Tiền được xem là thước đo cho hao phí lao động xã hội, được thể hiện qua giá trị của hàng hóa Ví dụ, một mét vải không chỉ đơn thuần là sản phẩm, mà còn phản ánh thời gian lao động mà người sản xuất đã bỏ ra, có thể là 1 giờ hay 2 giờ.
3 giờ) và công cụlao động (máy dệt, kim khâu, kéo )
- Các điều kiện để thực hiện các chức năng này:
+ Tiền phải có đầy đủ giá giá trị (giá trị danh nghĩa và giá trị nội tại mà NN thừa nhận nó là tiền)
+ Tiền có tiêu chuẩn giá cả (là một hàm lượng vàng được luật NN ấn định cho tiền đơn vị và tên gọi của nó.)
Khi đánh giá giá trị hàng hóa, người mua và người bán thường so sánh giá trị hàng hóa với giá trị tiền mà không chú ý đến số tiền cụ thể, tức là sức mua của đồng tiền Hiện nay, giá trị hàng hóa được đo bằng một thước đo giá trị do nhà nước quy định Vì vậy, mỗi quốc gia trên thế giới có một thước đo giá trị riêng, dựa trên các tiêu chí cụ thể.
+ Trình độ phát triển của nền KT
- Tiền làm môi giới trung gian trong trao đổi HH, DV với nhau, quá trình này diễn ra như sau: Hàng - Tiền – Hàng (H – T –H) trong đó:
- Tiền là phương tiện quan trọng trong việc trao đổi HH – DV , nó tiến bộhơn so với trao đổi trực tiếp (H- H) Vì:
+ Nghiệp vụ : H –T: bán hàng để lấy tiền
T – H: lấy tiền để mua hàng
+ Lưu thông HH tách rời hành vi mua và bán cả về không gian lẫn thời gian
- Khi thực hiện chức năng này thì tiền có phải có đầy đủ các giá trị sau:
+ Phải dùng tiền mặt vì phải chuyển quyền sở hữu khi mua và bán
+ Lưu thông chỉ chấp nhận một số lượng tiền nhất định Số lượng nhiều hay ít phụ thuộc vào:
Tổng giá cả HH đưa ra thịtrường
Tốc độlưu thông của tiền tệ
Số lượng tiền cần thiết cho lưu thông bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố chính, tạo thành mối quan hệ hữu cơ giữa chúng Quy luật số lượng tiền cần thiết cho lưu thông, hay còn gọi là quy luật lưu thông tiền tệ, thể hiện tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế Quy luật này được xem là một trong những quy luật kinh tế phổ biến và thiết yếu.
2.1.3 Phương tiện dự trữ giá trị
Dự trữ giá trị là quá trình tích lũy giá trị thông qua các phương tiện được xã hội công nhận, nhằm mục đích chuyển hóa thành hàng hóa.
Thực hện chức năng nay, các phương tiện chuyển tải gái trị phải được giá trị xã hội thừa nhận , tức phải đảm bảo các yêu cầu sau:
S ố lượ ng ti ề n c ầ n thi ế t trong k ỳ =
T ổ ng s ố giá c ả hàng hoá lưu thông trong kỳ
T ốc độ lưu thông bình quân củ a ti ề n t ệ trong k ỳ
+ Dự trữ giá trị bằng những phương tiện hiện thực chứ không phải bằng một lượng tiền “ tưởng tượng”
+ Giá trị dự trữ bằng những phương tiện được xã hội thừa nhận
Mang tính thời gian, theo yêu cầu của chủ sở hữu, có thể trở thành dấu hiệu giá trị trong tương lai gần, trong khi đó, trong tương lai xa hơn, những tài sản như vàng và ngoại tệ sẽ đóng vai trò quan trọng.
- Tiền được sử dụng làm công cụ thanh toán các khoản nợ về HH và DV trong mua bán trước đây
Tiền và hàng có sự vận động độc lập về không gian và thời gian, cho phép giao dịch diễn ra tại một địa điểm trong khi thanh toán có thể thực hiện ở nơi khác hoặc ngay tại chỗ.
+ Thời gian: có thể trả nợ trước hoặc sau khi mua (độc lập) hoặc là tiền trao cháo múc (đưa tiền liền –Không độc lập)
Chức năng của phương tiện thanh toán tạo ra mối quan hệ tín dụng, dẫn đến việc hình thành hình thức bán chịu Điều này làm thay đổi khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông tại một thời điểm nhất định.
Trong thanh toán có thể dùng tiền mặt, chuyển khoản, bù trừ
2.1.5 Chức năng tiền tệ thế giới
Tiền tệ thế giới là phương tiện thanh toán và chi trả chung giữa các quốc gia
Khi thực hiện chức năng tiền tệ toàn cầu, chỉ có tiền mặt và tiền có giá trị hoàn toàn, nhưng cần được chuyển đổi thành dạng nén hoặc thỏi để thực hiện giao dịch thanh toán cuối cùng.
Còn trong thanh toán quốc tế thì người ta sử dụng ngoại tệ mạnh, ví dụ: USD, EUR, Yên,
2.2 Theo quan điểm kinh tế học hiện đại
Các nhà kinh tế học cho rằng tiền tệ có 3 chức năng gồm: phương tiện trao đổi, đơn vị tính toán, dự trữ giá trị
Kh ối lượ ng ti ề n c ầ n thi ết cho lưu thông =
Giá c ả H 2 đượ c t/h thanh toán bù
T ốc độ lưu thông bình quân củ a ti ề n t ệ
2.2.1 Chức năng phương tiện trao đổi
Tiền tệ, với vai trò là phương tiện trao đổi, hoạt động như một trung gian trong việc giao dịch hàng hoá và dịch vụ Chức năng này là cơ sở lý giải cho sự xuất hiện và tồn tại của tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá.
Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, việc thực hiện đồng thời hai giao dịch mua và bán với một người khác có thể gặp khó khăn, đặc biệt khi số lượng người tham gia trao đổi tăng lên Để giảm chi phí tìm kiếm và tăng tính hiệu quả, tiền được sử dụng như một phương tiện trung gian, cho phép người dùng trước tiên bán hàng hóa để lấy tiền, sau đó sử dụng số tiền đó để mua hàng hóa cần thiết Điều này cho thấy việc thực hiện giao dịch lần lượt với hai người dễ dàng hơn so với việc thực hiện đồng thời với cùng một người Để tiền có thể thực hiện chức năng này, nó cần đáp ứng một số tiêu chuẩn nhất định.
Tiền tệ cần được chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng, vì sự đồng thuận của mọi người là yếu tố then chốt để người sở hữu hàng hóa đồng ý trao đổi hàng hóa của họ lấy tiền.
- Dễ nhận biết: con người phải nhận biết nó dễ dàng;
- Có thể chia nhỏ được: để tạo thuận lợi cho việc đổi chác giữa các hàng hoá có giá trị khác nhau;
- Dễ vận chuyển: tiền tệ phải đủ gọn nhẹ để dễ dàng trong việc trao đổi hàng hoá ở khoảng cách xa;
- Không bịhư hỏng một cách nhanh chóng;
- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng: để sốlượng của nó đủ dùng trong trao đổi;
- Có tính đồng nhất: các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngang nhau
2.2 2 Chức năng đơn vị đánh giá
Chức năng thứ hai của tiền là đơn vị đánh giá, cho phép đo giá trị hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế Nhờ vào chức năng này, giá trị của hàng hóa và dịch vụ được biểu hiện bằng tiền, tương tự như việc đo khối lượng bằng kg hay độ dài bằng m Điều này giúp việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận lợi hơn.
Nếu không có đơn vị đo chung là tiền, giá trị hàng hóa sẽ được xác định dựa trên các hàng hóa khác, dẫn đến việc người tiêu dùng phải dành quá nhiều thời gian để so sánh giá cả Điều này khiến cho việc tiêu dùng trở nên khó khăn và tốn thời gian Khi giá cả được biểu thị bằng tiền, người tiêu dùng có thể dễ dàng đọc bảng giá và thực hiện giao dịch một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian cho việc tiêu dùng.
S ự phát tri ể n các hình thái ti ề n t ệ
3.1 Tiền bằng hàng hóa (Hoá tệ) Đấy chính là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài Trong các loại hàng hóa được dùng làm tiền tệ được chia làm hai loại: hàng hóa không phải kim loại (non metallic commodities) và hàng hóa kim loại (metallic commodities) Do vậy, hóa tệ cũng bao gồm hai loại: hóa tệ không kim loại và hóa tệ kim loại:
3.1.1.Hóa tệ không kim loại
Hàng hóa không kim loại đã được sử dụng làm tiền tệ từ rất lâu, là hình thức tiền tệ cổ xưa nhất, phổ biến trong các xã hội truyền thống Mỗi quốc gia và địa phương lại có những loại hàng hóa khác nhau được chấp nhận làm tiền tệ.
-Ở Hy Lạp và La Mã người ta dùng bò và cừu
-Ở Tây Tạng, người ta dùng trà đóng thành bánh.
Hóa tệ không kim loại gặp nhiều bất lợi khi sử dụng làm tiền tệ, bao gồm tính chất không đồng nhất, dễ hư hỏng, khó phân chia, bảo quản và vận chuyển Ngoài ra, chúng chỉ được công nhận trong từng khu vực, địa phương cụ thể Do đó, hóa tệ không kim loại dần bị loại bỏ, nhường chỗ cho hóa tệ kim loại trở thành lựa chọn phổ biến hơn.
3.1.2.Hóa tệ kim loại (Kim tệ)
Tức là lấy kim loại làm tiền tệ Các kim loại được dùng làm tiền tệ gồm: đồng, kẽm, vàng, bạc…
Kim loại vượt trội hơn hàng hóa không kim loại khi được sử dụng làm tiền tệ nhờ vào nhiều ưu điểm như phẩm chất tốt, trọng lượng có thể quy đổi chính xác và dễ dàng Ngoài ra, kim loại cũng có độ hao mòn chậm hơn, dễ chia nhỏ và giá trị tương đối ổn định hơn.
Qua quá trình trao đổi và lưu thông kim loại, vàng và bạc đã được chọn làm tiền tệ lâu dài Điều này xuất phát từ những ưu điểm vượt trội của chúng so với các kim loại khác, bao gồm tính đồng nhất, khả năng chia nhỏ dễ dàng, thuận tiện trong việc cất trữ và khả năng lưu thông hiệu quả.
Tiền tệ không có giá trị nội tại, nhưng nhờ sự tín nhiệm của cộng đồng mà nó được sử dụng rộng rãi Vì lý do này, nhiều người thường gọi loại tiền này là chỉ tệ.
Tín tệ gồm hai loại: Tín tệ kim loại và tiền giấy
Tiền kim loại tín tệ và hóa tệ có sự khác biệt rõ rệt: trong hóa tệ, giá trị của kim loại tương ứng với giá trị ghi trên bề mặt đồng tiền, trong khi đó, ở tín tệ, giá trị của kim loại và giá trị ghi trên đồng tiền không liên quan đến nhau, cho phép gán cho nó bất kỳ giá trị nào.
3.2.2.Tiền giấy (Paper money or bank notes)
Tiền giấy có hai loại: tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hóan
Tiền giấy khả hoán là loại tiền được in và lưu hành, thay thế cho tiền vàng hoặc bạc gửi tại ngân hàng Người sở hữu tiền giấy này có thể đổi sang vàng hoặc bạc tương đương giá trị ghi trên tờ tiền tại ngân hàng, hoặc sử dụng nó làm phương tiện thanh toán khi cần thiết.
Tiền giấy khả hoán lần đầu tiên xuất hiện ở phương Tây vào thế kỷ 17, với ông Palmstruck, người sáng lập ngân hàng Stockholm của Thụy Điển, được công nhận là người đầu tiên chế tạo loại tiền này Trong khi đó, tiền giấy khả hoán đã xuất hiện sớm hơn nhiều ở phương Đông Ngược lại, tiền giấy bất khả hoán là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành mà người dân không thể đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng, và hiện nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều sử dụng loại tiền này.
Tại Việt Nam, tiền giấy ra đời vào thế kỷ15, dưới thời Hồ Qúy Ly
Tại Pháp, tiền giấy trở thành bất khả hoán năm 1720, từ năm 1848 đến năm
1850, từ năm 1870 đến năm 1875, từ năm 1914 đến năm 1828 và sau cùng kể từ ngày 01-10-1936 đến nay
Trong thời gian nội chiến Hoa Kỳ từ năm 1862 đến 1863, nhiều nước đã phát hành tiền giấy bất khả hoán Sau khi nội chiến kết thúc, tiền giấy này đã trở thành khả hoán từ năm 1879.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tạo ra những tác động sâu sắc, dẫn đến việc sử dụng tiền giấy bất khả hoán trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia.
Bút tệ, hay còn gọi là tiền ghi sổ, là loại tiền được tạo ra khi phát tín dụng qua tài khoản ngân hàng, không có hình thái vật chất mà chỉ tồn tại dưới dạng con số trên tài khoản Mặc dù là tiền phi vật chất, bút tệ vẫn có những đặc tính tương tự như tiền giấy, cho phép thanh toán qua các công cụ như séc và lệnh chuyển tiền Bút tệ mang lại nhiều ưu điểm vượt trội so với tiền giấy, bao gồm tính an toàn cao hơn, khả năng chuyển đổi dễ dàng sang tiền mặt, sự thuận tiện trong thanh toán và quá trình kiểm nhận nhanh chóng.
Bút tệ, có nguồn gốc từ giữa thế kỷ 19 tại ngân hàng Anh, đã dần lan rộng ra các quốc gia khác Hiện nay, bút tệ được sử dụng phổ biến trong các giao dịch tại các nước công nghiệp và hậu công nghiệp.
Tiền điện tử là hình thức tiền tệ được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động, hay còn gọi là máy ATM (Automated Teller Machine) Hệ thống này kết nối với ngân hàng trung gian và hộp chuyển tiền của chính phủ, cho phép người dùng gửi tiền và nhận một thẻ nhựa mã hóa cùng với mã PIN từ 3 đến 5 con số Sau khi gửi tiền, thông tin sẽ được cập nhật trên toàn hệ thống Khi cần rút tiền mặt hoặc chuyển tiền, người dùng chỉ cần đưa thẻ vào máy ATM, nhập mã PIN và thực hiện giao dịch Tất cả quy trình này diễn ra nhanh chóng, và người dùng sẽ nhận được biên lai xác nhận thông tin giao dịch Mặc dù thẻ này được coi là tiền, nhưng vẫn còn tranh cãi về việc nó có thực sự được công nhận là một hình thức tiền tệ hay chỉ là phương tiện thanh toán.
Trong mọi nền kinh tế, bất kể mức độ phát triển, đều tồn tại sự đa dạng nhất định Điều này dẫn đến việc cần có nhiều hình thức tiền tệ để đáp ứng những nhu cầu phong phú của xã hội và cá nhân.
Ch ế độ ti ề n t ệ
4.1 Chế độ đơn bản vị (chế độ một bản vị - monometallism)
- Đơn bản vị là một chế độ tiền tệ lấy một thứ kim loại làm vật ngang giá chung
- Trong một đơn vị bản vị, vật ngang giá là vật liệu đúc tiền có thể là kẽm, đồng, bạc hoặc vàng
Chế độ lưu thông tiền kém giá xảy ra khi bản vị được thiết lập bằng kẽm hoặc đồng, dẫn đến việc tiền được đúc từ những kim loại này Hiện tượng này phản ánh đặc trưng của nền kinh tế hàng hóa kém phát triển, từ các phương thức sản xuất trước đây.
Chế độ đơn bản vị với vật ngang giá bằng bạc hoặc vàng, cùng với sự xuất hiện của tiền đúc bằng bạc hoặc vàng, được gọi là chế độ lưu thông tiền đủ giá.
4.2 Chế độ song bản vị (chế độ 2 bản vị - Bimetallism)
- Là chế độ tiền tệ mà vàng và bạc đều được sử dụng với tư cách là tiền tệ
Vàng và bạc đều là vật ngang giá đều thực hiện chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông với quyền lực ngang nhau
- Trong chếđộ này tièn đúc bằng vàng và bạc đều đúc tự do và thanh toán không hạn chế
Bản vị song song là hệ thống trong đó tiền vàng và tiền bạc lưu thông trên thị trường theo giá thực tế mà không có sự can thiệp của nhà nước Điều này dẫn đến sự xuất hiện của hai thước đo giá trị và hai hệ thống giá cả khác nhau.
Bản vị kép là hệ thống tiền tệ trong đó cả vàng và bạc được sử dụng làm phương tiện lưu thông, với tỷ giá giữa chúng được nhà nước quy định Tỷ giá pháp định này có hiệu lực trong toàn quốc, đảm bảo sự ổn định trong giao dịch và quản lý kinh tế.
- Việc quy định tỉ giá xác định rõ ràng là nhằm khắc phục những rối loạn của chếđộ bản vị song song)
- Ví dụ: năm 1792, 1 USD vàng bằng 1.603 gam vàng ròng; 1 USD bạc bằng 24,06 gam bạc ròng Do đó, trọng lượng 1 USD bạc bằng 15 lần trọng lượng
1 USD vàng Chếđộ này từng được áp dụng ở Anh, Hoa Kỳtrước thế kỷ 19
4.3 Chế độ bản vị tiền vàng (gold standard)
Bản vị vàng là hệ thống tiền tệ mà giá trị của đồng tiền được đảm bảo bởi một lượng vàng nhất định theo quy định của pháp luật Các yếu tố cần thiết cho bản vị tiền vàng bao gồm sự ổn định của giá vàng, khả năng chuyển đổi giữa tiền tệ và vàng, cùng với việc quản lý và kiểm soát nguồn cung tiền.
+ Nhà nước không hạn chế việc đúc tiền vàng
+ Tiền giấy quốc gia được nhà nước xác định một trọng lượng vàng nhất định và được tự do chuyển đổi ra vàng theo tỉ lệđã quy định
+ Tiền vàng được lưu thông không hạn chế
- Chế độ bản vị tiền vàng được sử dụng phổ biến ở các nước trong những năm cuối thế kỷXIX và đầu thế kỷ XX
4.4 Chế độ bản vị vàng thỏi
Bản vị vàng thỏi quy định trọng lượng vàng cố định cho đơn vị tiền tệ quốc gia, tuy nhiên vàng chỉ được đúc thành thỏi chứ không thành tiền Vàng không được lưu thông trong nền kinh tế mà chỉ được sử dụng như một phương tiện thanh toán quốc tế và để chuyển dịch tài sản ra nước ngoài.
4.5 Chế độ bản vị vàng hối đoái
Chế độ bản vị mà trong đó tiền giấy quốc gia không thể trực tiếp đổi sang vàng, mà phải thông qua một ngoại tệ tự do chuyển đổi sang vàng, như đô la Mỹ hay bảng Anh.
4.6 Chế độ bản vị ngoại tệ Đơn vị tiền tệ quốc gia được xác định bằng đơn vị tiền tệ của nước ngoài (ngoại tệ) Đó phải là các ngoại tệ mạng và được tự do chuyển đổi trên thị trường quốc tế Chế độ này sử dụng phổ biến ở những nước có ít vàng hoặc bị lệ thuộc vào nước khác Chế độ này từng được áp dụng từ 1944-1971 Bắt đầu sụp đổ từ
4.7 Chế độ bản vị tiền giấy không chuyển đổi ra vàng
Dưới chế độ tiền tệ không chuyển đổi, đơn vị tiền tệ của quốc gia không thể quy đổi thành kim loại quý, dẫn đến việc vàng không còn lưu thông trong nước Tiền giấy không thể được đổi ra vàng, và vàng chỉ được sử dụng cho các giao dịch thanh toán quốc tế Chế độ này từng phổ biến vào những năm 1930.
Kh ố i ti ề n t ệ (Ms)
Cung ứng tiền tệ (MS) đại diện cho tổng lượng tiền đang lưu thông trong nền kinh tế, bao gồm tiền của cá nhân và doanh nghiệp, nhưng không tính đến các tổ chức tín dụng và ngân hàng trung ương Khối lượng tiền tệ trong lưu thông (Money Supply - MS) đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết hoạt động kinh tế và ảnh hưởng đến lạm phát cũng như tăng trưởng kinh tế.
KLTTTLT – Ms là thuật ngữ chỉ tất cả các phương tiện được công nhận để làm trung gian trong việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ tại một thị trường cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định Các phương tiện này được phân loại thành nhiều khối khác nhau.
M1 là bộ phận tiền tệ có tính thanh khoản cao nhất, bao gồm các thành phần như giấy bạc ngân hàng, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, ngân phiếu, séc các loại và tiền gửi không kỳ hạn.
+ M2 : Bao gồm M1 và tiền gởi có kỳ hạn
+ M3 : Bao gồm M2 và thương phiếu, tín phiếu kho bạc,cổ phiếu và các loại trái khoán
+ Khối L: b.Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Necessary Money -Mn)
- Mn: là khối lượng tiền tệ do tổng nhu cầu của nền KT quốc dân trong 1 thời kỳ nhất định
Ví dụ: Trong năm 2004 nền Kinh tế Việt Nam cần bao nhiêu khối lượng tiền trong lưu thông
- Mn phụ thuộc vào 2 yếu tố : Tổng giá cả HH và DV đưa vào lưu thông và tốc độ lưu thông bình quân của tiền
VD: Năm 2003, người ta tính tổng giá cảHH và DV đưa vào lưu thông là 100000 tỷ, vòng quay là 10 thì Mn là :100000/10000 tỷ
Giữa Mn và Ms tồn tại một khoảng cách, và khi so sánh chúng tại một thời điểm nhất định, có thể xảy ra một trong ba trường hợp sau:
+ Ms/Mn = 1->Ms = Mn : đây là điều tuyệt vời vì tất cả các nước đều mong muốn nhưng thực tếđiều đó không xảy ra
+ Ms/Mn > 1 ->Ms > Mn: sốlượng tiền trong lưu thông > số lượng tiền cần thiết trong lưu thông => thừa tiền => lạm phát
+ Ms/Mn < 1 -> Ms < Mn : sốlượng tiền trong lưu thông < sốlượng tiền cần thiết trong lưu thông => thiếu tiền => giảm phát
Trong thực tế, việc tính toán tỷ lệ chính xác là không khả thi, vì vậy người ta chuyển hướng sang tín hiệu thị trường như hàng hóa thiết yếu, giá vàng, giá dầu và tỷ giá hối đoái Điều này giúp cho cung tiền (MS) và cầu tiền (Mn) xích lại gần nhau hơn, đồng thời là nhiệm vụ quan trọng của các nhà hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ.
Ms = M 3 + các phương tiệ n khác
Các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt là ngân hàng trung ương, cần xác định chính xác các thành phần của lượng tiền cung ứng và cơ cấu của chúng để dự báo biến động kinh tế Điều này giúp ngân hàng nhà nước điều chỉnh lượng cung tiền một cách hợp lý và linh hoạt, nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế.
Tuy nhiên việc đo lường gặp phải 3 trở ngại:
Một lượng lớn tiền pháp định gửi vào ngân hàng dưới dạng tài khoản không tham gia thanh toán có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt với chi phí thấp Điều này cho thấy rằng, mặc dù không nằm trong khối tiền lưu thông, nhưng những khoản tiền này vẫn có khả năng lưu thông và không nên bị coi nhẹ.
Các quy chế tài chính đang trải qua những thay đổi nhanh chóng, với xu hướng nới lỏng quản lý các tài khoản thanh toán Chẳng hạn, việc cho phép thanh toán lãi cho tài khoản thanh toán và sự xuất hiện của tài khoản hỗn hợp giữa tiết kiệm và thanh toán là những ví dụ điển hình.
Một số tài sản tài chính có tính thanh khoản cao dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt và có thể sử dụng để thanh toán trực tiếp Những tài sản này không chỉ giữ vai trò dự trữ giá trị mà còn có khả năng tham gia vào quá trình thanh toán, do đó vẫn được phân loại vào các khối tiền đang lưu thông.
Việc đo lường khối tiền trở nên phức tạp và chỉ có tính tương đối do sự khác biệt trong hệ thống tài chính và tiền tệ của từng quốc gia Mặc dù các thành phần của khối tiền cụ thể có thể khác nhau, nhưng nhìn chung, các thành phần này vẫn bao gồm những yếu tố cơ bản nhất.
M1 là tổng lượng tiền mặt lưu thông và tiền gửi thanh toán tại ngân hàng, thường được gọi là khối tiền hẹp Khối tiền này bao gồm hai loại tiền có tính thanh khoản cao nhất.
Tiền mặt lưu hành, hay còn gọi là tiền Trung ương, là lượng tiền giấy do Ngân hàng Trung ương phát hành Tiền gửi không kỳ hạn được coi là tiền giao dịch, cho phép người gửi sử dụng bất cứ lúc nào để thanh toán hàng hóa và dịch vụ Tuy nhiên, khả năng chi trả ngay lập tức của tiền gửi không kỳ hạn không bằng tiền mặt Cả hai loại tiền này đều có tính thanh khoản cao, nhanh chóng đáp ứng nhu cầu giao dịch, vì vậy M1 được gọi là tiền giao dịch hay tiền mạnh.
M3: bằng M2 cộng với tất cả các khoản tiền gửi khác tại các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
L: bằng M3 cộng với các loại chứng khoán có khả năng chuyển hoán trên thị trường tài chính ( chứng khoán có độ lỏng cao)
Các khối tiền được phân loại theo tính thanh khoản, và tổng lượng tiền không cố định mà thường xuyên thay đổi bởi các cơ quan quản lý tiền tệ Sự thay đổi này phản ánh trình độ phát triển kinh tế và sự đa dạng của các loại tiền trong chính sách tiền tệ Chẳng hạn, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã điều chỉnh các phép đo M1 và M2 bằng cách thêm séc du lịch và phân loại tiền gửi có kỳ hạn Tại Việt Nam, các kỳ phiếu ngân hàng thương mại cũng được đưa vào phép đo M2.
Mặc dù các khối tiền tệ được công bố phục vụ nhiều mục đích, nhưng việc đo lường lượng tiền chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng phản ánh các phương tiện trao đổi trong nền kinh tế và hỗ trợ dự báo lạm phát cũng như chu kỳ kinh doanh Thực tế, nhiều quốc gia thường áp dụng các phép đo M1 hoặc M2, trong khi Việt Nam lựa chọn phép đo M2 Sự lựa chọn này phụ thuộc vào nhận thức và khả năng của Ngân hàng Trung ương trong việc điều hành chính sách thực tế.
B ả n ch ấ t c ủ a tài chính
6.1 Sự ra đời của phạm trù tài chính
Hoạt động của Tài chính rất đa dạng và phức tạp nhưng lại tuân thủ theo một chu trình với những nguyên tắc nhất định
Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm bốn giai đoạn: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng Trong đó, lĩnh vực Tài chính ra đời trong giai đoạn phân phối, nhưng không phải chỉ có phân phối là có Tài chính Tài chính chỉ xuất hiện và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi có những hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan xuất hiện và tồn tại.
* Tiền đề sản xuất hàng hoá tiền tệ
Vào cuối thời công xã nguyên thủy, xã hội loài người đã chứng kiến sự phát triển của phân công lao động và sự xuất hiện của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dẫn đến sự ra đời của nền sản xuất hàng hóa Khi kinh tế hàng hóa phát triển lên mức cao hơn, nó chuyển thành kinh tế thị trường, với việc trao đổi diễn ra phổ biến qua tiền tệ Chính trong bối cảnh này, sự sử dụng tiền tệ đã góp phần hình thành phạm trù Tài chính.
Khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội loài người bắt đầu phân chia giai cấp và xuất hiện đấu tranh giai cấp Trong bối cảnh này, Nhà nước hình thành với nhu cầu chi tiêu để duy trì quyền lực và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội Do đó, Nhà nước phải xây dựng một quỹ tiền tệ, được gọi là Ngân sách Nhà nước (NSNN), dẫn đến sự hình thành của Tài chính Nhà nước (State Finance) hay Tài chính công (Public Finance).
Sự vận động độc lập của tiền tệ không chỉ là đặc trưng của Nhà nước mà còn của tất cả các chủ thể trong xã hội như doanh nghiệp, hộ dân cư và tổ chức xã hội Các quỹ tiền tệ được hình thành và sử dụng không chỉ cho các mục đích trực tiếp mà còn như những trung gian cung ứng tiền tệ Nhà nước không chỉ tác động đến sự vận động độc lập của tiền tệ thông qua việc ấn hành đồng tiền mà còn tạo ra môi trường pháp lý cho việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Trong thực tiễn, Nhà nước đôi khi thúc đẩy, đôi khi kìm hãm sự phát triển của sản xuất hàng hóa - tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động tài chính thông qua cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô.
Tiền đề quyết định sự hình thành và duy trì tài chính chính là mối quan hệ giữa hàng hóa và tiền tệ, trong khi Nhà nước đóng vai trò định hướng Hai yếu tố này tồn tại song song và hỗ trợ lẫn nhau trong hệ thống tài chính.
* Ý nghĩa thực tiễn khi nghiên cứu điều kiện tiền đề
- Nhà nước cần phải tạo môi trường cho Tài chính hoạt động, đó là sản xuất hàng hóa - tiền tệ
Để thúc đẩy kinh tế hàng hóa, việc xác định đúng vị trí của Tài chính là rất quan trọng Cần lựa chọn các hình thức và phương pháp phù hợp nhằm tạo lập và sử dụng Tài chính một cách hiệu quả.
6.2 Bản chất của tài chính
Việc sử dụng tiền tệ trong phân phối tổng sản phẩm xã hội đã dẫn đến sự nhầm lẫn rằng Tài chính chỉ đơn thuần là tiền tệ.
Tài chính trong xã hội được hiểu là các nguồn lực tài chính và quỹ tiền tệ, đại diện cho sức mua của các chủ thể kinh tế- xã hội, tạo ra mối quan hệ giá trị đa dạng Nguồn lực tài chính không chỉ giới hạn ở tiền tệ qua ngân sách và ngân hàng, mà còn bao gồm giá trị của cải xã hội, tài sản quốc gia và tổng sản phẩm quốc dân, cả ở dạng vật chất và tiềm năng Những nguồn lực này luôn vận động để hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ cho các mục đích liên quan đến các chủ thể kinh tế- xã hội Bản chất của tài chính được xác định qua nhiều khía cạnh khác nhau.
Sự vận động độc lập của các nguồn tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, thể hiện mặt trực quan của tài chính thông qua các thị trường.
2, Đằng sau mặt trực quan đó là các quan hệ kinh tế trong phân phối của cải xã hội dưới hình thức phân phối các nguồn lực Tài chính
Việc tạo lập và sử dụng các quĩ tiền tệ là một phương thức phân phối đặc trưng, giúp phân biệt Tài chính với các hình thức phân phối khác như giá cả và tiền lương.
Nội dung kinh tế của tài chính được xác định qua sự vận động độc lập của tiền tệ, với chức năng là phương tiện thanh toán và cất trữ Tài chính phản ánh các mối quan hệ kinh tế trong việc phân phối nguồn lực thông qua việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ, nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội.
Tài chính trong nền kinh tế thị trường được hiểu là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế giữa các thực thể tài chính, phát sinh từ quá trình hình thành và sử dụng các nguồn lực tài chính.
7 Chức năng của tài chính
Chức năng của Tài chính thể hiện bản chất và vai trò quan trọng của nó trong thực tiễn Hiện nay, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về chức năng của Tài chính.
Chức năng của một sự vật phản ánh khả năng tiềm ẩn của nó Đối với Tài chính, chức năng này thể hiện khả năng khách quan trong việc phát huy tác dụng Trong xã hội, Tài chính có hai chức năng chính: chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
Ch ức năng củ a tài chính
Chức năng phân phối của Tài chính là yếu tố cốt lõi, thể hiện bản chất của Tài chính, giúp đưa các nguồn lực tài chính vào những mục đích sử dụng khác nhau Nhờ chức năng này, các nhu cầu và lợi ích đa dạng trong đời sống xã hội được đáp ứng Đối tượng phân phối của Tài chính chính là của cải xã hội dưới dạng giá trị, bao gồm tổng thể các nguồn lực tài chính có trong xã hội.
Chủ thể phân phối của tài chính bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, hộgia đình và cá nhân dân cư.
Kết quả phân phối tài chính là việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ cho những mục đích cụ thể, như tích lũy hoặc tiêu dùng, trong các chủ thể xã hội.
Chức năng phân phối của tài chính có những điểm sau:
Phân phối tài chính chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị mà không có sự thay đổi về hình thái giá trị.
Phân phối tài chính chủ yếu liên quan đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ, đây là đặc điểm cơ bản và đặc trưng của phân phối tài chính.
Thứ ba, phân phối của tài chính trải qua hai quá trình: phân phối lần đâù và phân phối lại
Phân phối lần đầu đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất, liên quan đến các chủ thể tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và cung cấp dịch vụ Quá trình này chủ yếu diễn ra ở khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính, nhằm hình thành các quỹ tiền tệ cần thiết.
+ Bù đắp chi phí vật chất đã tiêu hao (quĩ KH.TSCĐ và quĩ khôi phục vốn lưu động đã ứng ra)
+ Hình thành quĩ bảo hiểm
+ Thu nhập cho các chủ sở hữu về vốn, tài nguyên
Phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối các phần thu nhập cơ bản từ phân phối lần đầu ra một cách rộng rãi hơn trong xã hội, hoặc theo những chi tiết cụ thể hơn nhằm phục vụ cho các mục đích của các quỹ tiền tệ.
Mục tiêu của phân phối lại là bảo đảm sự tồn tại và hoạt động của bộ phận phi sản xuất trong nền kinh tế, đồng thời thực hiện công bằng xã hội.
Chức năng giám đốc của Tài chính là một thuộc tính khách quan, phản ánh bản chất của Tài chính Nó cho phép sử dụng Tài chính như một công cụ để kiểm tra và giám sát thông qua đồng tiền, nhờ vào chức năng đo lường giá trị và phương tiện thanh toán của tiền tệ.
Giám đốc tài chính có vai trò quan trọng trong việc xem xét tính cần thiết và quy mô phân phối các quỹ tiền tệ, đồng thời kiểm tra và giám sát quá trình thực hiện Họ cũng cần đánh giá rủi ro và cung cấp tư vấn để đảm bảo hiệu quả tài chính cho tổ chức.
- Chức năng giám đốc của tài chính có những đặc điểm sau:
Chức năng giám đốc của tài chính chủ yếu được thực hiện thông qua sự vận động của tiền tệ, tập trung vào hai chức năng chính: thước đo giá trị và phương tiện thanh toán.
Thứ hai: Chức năng giám đốc của tài chính được thực hiện thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính
Chức năng giám đốc của tài chính được thực hiện một cách toàn diện và liên tục trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ Điều này có nghĩa là mọi hoạt động liên quan đến việc tạo lập và sử dụng nguồn lực tài chính đều phải tuân theo chức năng giám đốc của tài chính, đảm bảo tính kịp thời và hiệu quả trong quản lý tài chính.
1 Trình bày những vấn đề cơ bản của tiền tệ và tài chính
2 Trình bày quá trình ra đời, phát triển của tiền tệ và tài chính
3 Nêu chức năng và bản chất của tiền tệ và tài chính đối với nền kinh tế.
HỆ TH Ố NG TÀI CHÍNH
T ổ ng quan v ề h ệ th ố ng tài chính
Hệ thống tài chính bao gồm các khâu tài chính trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, nhưng chúng có mối liên hệ chặt chẽ trong việc tạo lập và sử dụng nguồn lực tài chính, cũng như quản lý các quỹ tiền tệ và cấu trúc tổ chức của các chủ thể kinh tế - xã hội.
1.2 Mô hình hệ thống tài chính trong nền kinh tế
Trong mỗi nền kinh tế, các hoạt động kinh tế và tài chính chịu sự chi phối bởi ba nhóm chủ thể chính: nhà nước, doanh nghiệp và hộ gia đình Các chủ thể này thực hiện các hành vi kinh tế và tài chính nhằm đạt được mục tiêu của mình, do đó, mọi quan hệ tài chính trong hệ thống đều phục vụ cho việc đạt được những mục tiêu đó Sự tương tác giữa các quan hệ tài chính phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế và trong nội bộ từng chủ thể Hệ thống tài chính của nền kinh tế thường được chia thành ba khâu cơ bản: tài chính công (chủ yếu là ngân sách nhà nước), tài chính doanh nghiệp và tài chính hộ gia đình Bên cạnh đó, thị trường tài chính và các trung gian tài chính đóng vai trò kết nối ba khâu tài chính này Mối liên hệ giữa các khâu tài chính được thể hiện rõ qua sơ đồ minh họa.
Mỗi khâu tài chính liên quan đến các quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ và giữa các chủ thể kinh tế, nhằm hỗ trợ các chủ thể này đạt được mục tiêu kinh tế cuối cùng của họ.
Hệ thống tài chính bao gồm các khâu tài chính hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong việc tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính.
Chúng ta nghiên cứu hệ thống tài chính trong hai giai đoạn sau:
Hệ thống tài chính trong nền kinh tế hoạch định
Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường
Hệ thống tài chính trong nền kinh tế hoạch định
Tài chính nhà nướ c Tài chính các t ổ ch ứ c kinh t ế t ậ p th ể
Trong nền kinh tế hoạch định, hệ thống tài chính hoạt động dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể đối với tư liệu sản xuất Hệ thống này bao gồm hai phân hệ chính, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và phân phối nguồn lực tài chính.
Tài chính các tổ chức kinh tế tập thể
Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thịtrường
Trong cơ chế thị trường, các hoạt động kinh tế diễn ra đa dạng và rộng rãi, bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau Điều này dẫn đến sự mở rộng của hệ thống tài chính, tạo ra một hệ thống phong phú và đa dạng.
Căn cứ vào hình thức sở hữu, hệ thống tài chính được chia làm hai bộ phận:
Tài chính công là khía cạnh tài chính liên quan đến các hoạt động của nhà nước, phản ánh các hoạt động kinh tế gắn liền với chức năng của nhà nước trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các hoạt động của chính phủ
Hàng hóa công cộng là những sản phẩm mà việc sử dụng của một cá nhân không làm giảm khả năng sử dụng của người khác Thông thường, lĩnh vực tư nhân không có động lực để cung cấp loại hàng hóa này.
Các nguồn thu cho ngân sách bao gồm thu thuế và các nguồn thu khác
Tài chính công không chỉ phản ánh mục tiêu và chức năng của nhà nước mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho cơ chế thị trường hoạt động hiệu quả và đồng bộ.
Tài chính công có ba chức năng chủ yếu:
Phân phối các nguồn lực tài chính
Ổn định kinh tế vĩ mô
Tài chính tư là lĩnh vực tài chính của khu vực kinh tế tư nhân, với mục tiêu chính là tối đa hóa lợi nhuận Chức năng cơ bản của tài chính tư nhân là huy động và quản lý vốn nhằm tạo ra lợi nhuận hiệu quả.
Dựa trên đặc điểm hình thành, phạm vi tác động và chức năng hoạt động, thị trường tài chính trong nền kinh tế thị trường được phân chia thành năm khu vực tài chính chính.
Tài chính nhà nước, bao gồm ngân sách và tín dụng nhà nước, đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức các hoạt động tài chính Nó không chỉ chi phối mà còn tác động và phối hợp các thành phần khác trong hệ thống tài chính.
Tài chính khu vực phi tài chính bao gồm các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp dịch vụ, đóng vai trò quan trọng trong việc tập trung và tích tụ các nguồn lực tài chính Đây là nơi nguồn lực tài chính được hình thành đầu tiên và cũng là điểm thu hút phần lớn các nguồn lực tài chính trở lại.
Khu vực tài chính bao gồm các định chế như ngân hàng, công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư, với nhiệm vụ chính là chuyển hóa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thành nguồn vốn tập trung để đầu tư vào nền kinh tế.
Tài chính hộ gia đình liên quan đến quỹ tiền tệ của từng cá nhân và hộ gia đình, được sử dụng cho tiêu dùng và đầu tư sinh lợi Nhiệm vụ chính trong lĩnh vực tài chính này là đảm bảo tiêu dùng hiệu quả, đạt lợi nhuận cao và an toàn.
Qu ản lý nhà nước đố i v ớ i h ệ th ố ng tài chính
Quỹ tài chính của các tổ chức xã hội hiện nay chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, nhưng trong tương lai, cần hình thành từ các nguồn khác như hội phí, quyên góp của cộng đồng và tổ chức nước ngoài Mục tiêu của các quỹ này là phục vụ cho hoạt động của các tổ chức xã hội Khi có một phần quỹ nhàn rỗi, nó có thể tham gia tích cực vào thị trường tài chính thông qua các hình thức phù hợp.
2 Chức năng và vai trò của hệ thống tài chính
2.1 Chức năng của hệ thống tài chính
- Phân bổ nguồn tài chính
- Sàng lọc, chuyển giao, phân tán rủi ro
- Giám sát quá trình phân bổ nguồn tài chính
- Vận hành hệ thống thanh toán.
2.2 Vai trò của hệ thống tài chính đối với sự phát triển nền kinh tế
Tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối sản phẩm quốc dân thông qua phân phối lần đầu và phân phối lại Điều này giúp hình thành quỹ đầu tư phát triển và quỹ tiêu dùng, đảm bảo sự tồn tại của nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội Tài chính cũng góp phần thực hiện công bằng xã hội, nâng cao phúc lợi toàn dân, tăng cường việc làm, chống thất nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, với Nhà nước sử dụng các công cụ như luật pháp, kế hoạch hành chính và tài chính để điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thị trường Mục tiêu chính của những điều chỉnh này là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm, kiểm soát lạm phát và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vi mô, giúp nhà nước tác động gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp thông qua đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp vốn, và thực hiện các ưu đãi về thuế và tín dụng Bên cạnh đó, việc tạo ra một môi trường bình đẳng với hành lang pháp lý vững chắc giúp các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có thể chủ động và sáng tạo trong sản xuất kinh doanh.
3 Quản lý nhà nước đối với hệ thống tài chính
Quản lý nhà nước đối với tài chính tiền tệ là quá trình điều chỉnh các quan hệ tài chính để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Nhà nước sử dụng tài chính tiền tệ như công cụ quản lý nền kinh tế, đảm bảo các hoạt động kinh tế phát triển theo định hướng của chính phủ Mục tiêu chính của quản lý tài chính là duy trì sự phát triển ổn định, nâng cao hiệu quả kinh tế và đảm bảo phân phối công bằng trong các lĩnh vực theo đường lối của Đảng và Nhà nước Thực hiện đường lối đổi mới, quản lý nhà nước về tài chính tiền tệ tập trung vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và công bằng trong nền kinh tế thị trường.
- Đảm bảo thực hiện chức năng
Nội dung chủ yếu: 7 nội dung
+ Một là, xây dựng, hình thành một hệ thống cơ chế mới, quản lĩ vĩ mô nền kinh tế
Hài hòa và bảo đảm các cân đối chủ yếu là yếu tố quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế Đồng thời, việc định hướng hoạt động và phát triển các thành phần kinh tế khác cũng đóng vai trò then chốt trong quá trình này.
+ Bốn là, khai thác triệt để mọi nguồn vốn, kỹ thuật, lao động, thị trường cho sự phát triển kinh tế –xã hội
+ Năm là, khai thác, nuôi dưỡng, tạo lập và phát triển các nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Để đảm bảo sự phát triển bền vững, cần thực hiện đầy đủ các chính sách xã hội của nhà nước Đồng thời, việc tăng cường kiểm tra và kiểm soát là rất quan trọng nhằm duy trì tính nhất quán của các chính sách tài chính và tiền tệ.
1 Trình bày chức năng, vai trò của hệ thống tài chính đối với nền kinh tế
2 Phân tích mối quan hệ giữa các khâu trong hệ thống tài chính.
3 Mô tả cấu trúc và quan hệ của từng bộ phận trong hệ thống tài chính cũng như chính sách điều hành của chính phủ đối với hệ thống tài chính quốc gia.