1. Trang chủ
  2. » Cao đẳng - Đại học

ÔN THI LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN

47 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ôn Thi Lịch Sử Đảng Cộng Sản
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Lịch Sử Đảng Cộng Sản
Thể loại Tài Liệu Ôn Thi
Năm xuất bản 1991
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 47
Dung lượng 825,67 KB

Cấu trúc

  • 0. Anh chị hãy làm rõ những nội dung cơ bản của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại đại biểu toàn quốc lần thứ VII(1991)

  • 1. Nội dung sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939 – 1945.

  • 2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp.

  • 3. Đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân

  • 4. Đường lối kháng chiến chống Mĩ cứu nước giai đoạn 1954- 1964.

  • 5. Quá trình nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong thời kì đổi mới.

  • 6. Quan điểm của Đảng về CNH – HĐH trong thời kì đổi mới.

  • 7. Nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến đh VIII.

  • 8. Nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đh XII.

  • 9. Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị của Đảng trong thời kì đổi mới.

  • 10. Làm rõ sự đổi mới tư duy của Đảng về hệ thống chính trị

  • 11. Quan điểm về CNXH của Mác. Lênin và Hồ Chí Minh

  • 12. Phân tích, giải thích CNH gắn với kinh tế tri thức

  • 13. Trách nhiệm của sinh viên trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá

  • 14. Anh chị hãy trình bày nội dung và ý nghĩa của cương lĩnh chính trị đầu tiên

  • 15. Anh chị hãy trình bày quan điểm chỉ đạo, chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hoá trong thời kỳ đổi mới.

  • 16. Anh chị hãy phân tích tính chất và kinh nghiệm của cách mạng tháng tám năm 1945

Nội dung

1.Nội dung sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939 – 1945. Hoàn cảnh lịch sử Tình hình thế giới chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, ngày 191939 Đức tấn công Ba Lan. Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng 61940 chính phủ Đức đầu hàng Pháp. Ngày 2261941 Đức tấn công Liên Xô => chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và lan rộng. Vấn đề dân tộc được đặt ra cho tất cả các nước, các đảng phái chính trị. Tình hình trong nước: Chiến tranh thế giới thứ hai ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến Đông Dương và Việt Nam. Ở VN và Đông Dương, Pháp thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn, thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm huy động tối đa sức người, sức của phục vụ chiến tranh. 2291940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Đến 2391940, Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật. Pháp – Nhật cấu kết với nhau, nhân dân ta rơi vào tình cảnh “một cổ hai tròng”. Chúng bắt nhân dân ta phá lúa trồng đay, đẩy nhân dân vào cùng cực. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc gay gắt hơn bao giờ hết không thể dung hòa. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đánh dấu sự quay trở lại của Cương lĩnh chính trị. Mâu thuẫn cần giải quyết cấp bách nhất lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với Pháp – Nhật. Bởi “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Theo đó Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất thay bằng khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay nặng lãi, tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân nghèo… Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh. +111939, Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương được thành lập. + 51941, để giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng: Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), Ai Lao độc lập đồng minh, Cao Miên độc lập đồng minh, đổi tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc. + Vận động, thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần lứa tuổi đoàn kết cứu Tổ quốc. Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta thời kì đó. + Ra sức phát triển lực lượng cách mạng, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. + Thành lập các đội du kích hoạt động phân tán, dung hình thức vũ trang vừa chiến đấu vừa phát triển cơ sở cách mạng tiến tới thành lập khu căn cứ. + Đi từ khởi nghĩa từng phần, từng địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa. Bốn là, chú trọng công tác xây dựng Đảng và đào tạo cán bộ, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. Ý nghĩa Về lí luận + Đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về nghệ thuật hoạch định đường lối chính trị. + Là ngọn cờ dẫn đường, có ý nghĩa quyết định chiều hướng vận động của phong trào dân tộc, trực tiếp quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Về thực tiễn + Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. + Đó là đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp

Vào tháng 11/1946, quân Pháp đã tiến hành nhiều hoạt động khiêu khích, vi phạm các hiệp ước Sơ bộ và Tạm ước Ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư cho chính quyền cách mạng, dẫn đến Hội nghị mở rộng của Trung ương Đảng vào ngày 19/12/1946, tại đó đã phát động kháng chiến Đúng 20h cùng ngày, các chiến trường trên toàn quốc đồng loạt nổ súng, và sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến được phát đi.

Mục đích của cuộc kháng chiến là kế thừa và phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng Tám, chống lại thực dân Pháp xâm lược, nhằm giành lại thống nhất và độc lập cho dân tộc.

Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam mang tính chất cách mạng và chính nghĩa, thể hiện rõ ràng tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới Đây là cuộc chiến đấu của nhân dân vì độc lập và tự do.

Nhiệm vụ kháng chiến là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập dân tộc và thống nhất thật sự cho dân tộc Trong quá trình kháng chiến, cần thực hiện những cải cách dân chủ và từng bước thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối liên minh công nông, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ thù Cuộc đấu tranh không chỉ vì lợi ích của dân tộc mà còn nhằm bảo vệ hòa bình thế giới.

- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính

Kháng chiến toàn dân là cuộc chiến đấu của toàn thể nhân dân, do chính nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi dân tộc Mọi người Việt Nam, không phân biệt giới tính, tôn giáo, đảng phái hay độ tuổi, đều có trách nhiệm đứng lên chống lại thực dân Pháp Trong cuộc kháng chiến này, mỗi người dân trở thành một chiến sĩ, và mỗi làng xóm được xem như một pháo đài kiên cố.

+ Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao

Kháng chiến lâu dài là chiến lược nhằm đối phó với âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp Mục tiêu là tạo thời gian để phát huy các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", từ đó chuyển biến tương quan lực lượng từ thế yếu sang thế mạnh, đánh bại kẻ thù.

Dựa vào sức mình là chính, nghĩa là "tự lực cánh sinh", thể hiện tinh thần tự cấp, tự túc trong mọi khía cạnh Trong bối cảnh bị bao vây và chưa nhận được sự hỗ trợ từ nước ngoài, việc tự lực là cần thiết Tuy nhiên, khi có điều kiện, chúng ta cũng nên tranh thủ sự giúp đỡ từ các quốc gia khác, nhưng không được ỷ lại vào sự hỗ trợ đó.

- Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song kháng chiến nhất định thắng lợi

Đảng ta đã phát động chiến tranh du kích và đánh trận nhỏ để tiêu hao sinh lực địch, đồng thời tránh các cuộc tấn công trực diện Quá trình này được thực hiện qua ba giai đoạn.

Từ tháng 12/1946 đến cuối năm 1947, giai đoạn phòng ngự chủ động diễn ra nhằm phá vỡ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của đối phương, đồng thời giam chân địch để xây dựng căn cứ địa Việt Bắc.

Từ cuối năm 1947 đến cuối năm 1950, Việt Nam trải qua giai đoạn cầm cự, trong đó chiến dịch Biên giới đã thành công trong việc giải phóng biên giới Việt - Trung, mở ra cơ hội nhận sự hỗ trợ từ bạn bè quốc tế Tiếp theo, từ cuối năm 1950 đến năm 1954, giai đoạn phản công diễn ra, culminated with the resounding victory at Điện Biên Phủ vào chiều 7/5/1954 Đường lối kháng chiến trong giai đoạn này đã thể hiện rõ nét tính chất và quyết tâm của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập.

Cuộc kháng của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa, chống lại một cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm mục đích: Giành độc lập và thống nhất

Tổ Quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, dân tộc Việt Nam không chỉ đấu tranh cho sự tự cứu mà còn vì hòa bình thế giới Cuộc kháng chiến này mang ý nghĩa tiến bộ, thể hiện khát vọng tự do, độc lập và dân chủ cho nhân dân.

Đường lối kháng chiến của chúng ta thể hiện sự đúng đắn và sáng tạo, kế thừa kinh nghiệm quý báu từ tổ tiên, đồng thời tuân thủ các nguyên lý chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin Điều này giúp đường lối kháng chiến phù hợp với thực tiễn cách mạng hiện nay.

- Đường lối kháng chiến góp phần đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn đinh và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi

- Đường lối đã tạo thành học thuyết quân sự chiến tranh nhân dân.

Đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân

Vào đầu năm 1951, bối cảnh lịch sử thế giới và cuộc cách mạng Đông Dương đã có nhiều biến chuyển quan trọng Những thay đổi này đã tạo ra nhu cầu cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện đường lối cách mạng nhằm đảm bảo chiến tranh đi đến thắng lợi.

Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều biến chuyển quan trọng, với việc nước ta được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao.

- Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước giành được những thắng lợi quan trọng

* Khó khăn: Lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mĩ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương

Vào tháng 2 năm 1951, nhằm bổ sung và hoàn thiện đường lối cách mạng để đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II tại tỉnh Tuyên Quang Tại đại hội, các đại biểu đã nhất trí đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, trong đó nêu rõ đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.

Tại Đại hội II (1951), Đảng đã thông qua đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta với những nội dung cơ bản sau

Xã hội Việt Nam hiện nay có ba tính chất chính: dân chủ nhân dân, thuộc địa một phần và nửa phong kiến Ba tính chất này đang trong quá trình đấu tranh và tương tác lẫn nhau, tạo nên những biến động trong cơ cấu xã hội.

+ Mâu thuẫn giữa tính dân chủ nhân dân và tính chất một phần thuộc địa (Mâu thuẫn dân tộc)

+ Mâu thuẫn giữa tính dân chủ nhân dân và tính chất nửa phong kiến (MT giai cấp)

Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa

Cách mạng Việt Nam hiện nay đối diện với hai đối tượng chính: chủ nghĩa đế quốc xâm lược, đặc biệt là đế quốc Pháp và sự can thiệp của Mỹ, cùng với đó là đối tượng phụ là phong kiến phản động.

Nhiệm vụ cách mạng bao gồm việc đánh đuổi các thế lực đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, xóa bỏ các di tích phong kiến và nửa phong kiến, đảm bảo quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, và xây dựng nền tảng cho chủ nghĩa xã hội.

Ba nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau song nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu

Động lực của cách mạng bao gồm tất cả các giai cấp và tầng lớp, với nền tảng là liên minh giữa công nhân, nông dân và lao động trí óc, cùng với sự tham gia của những thân sĩ yêu nước và tiến bộ Giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo trong cuộc cách mạng, trong khi vai trò của trí thức cũng được nâng cao đáng kể.

- Đặc điểm cách mạng: Cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Cuộc cách mạng này được gọi là cách mạng dân tộc vì nó đã đánh đuổi đế quốc và giành độc lập cho dân tộc Đồng thời, nó cũng được xem là cách mạng dân chủ vì đã lật đổ chế độ phong kiến để mang lại ruộng đất cho nông dân Hơn nữa, cuộc cách mạng này mang tính chất nhân dân, vì chính nhân dân là lực lượng tiến hành và thực hiện cuộc cách mạng này.

- Triển vọng của cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội

- Phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội: Đây là một quá trình lâu dài, trải qua ba giai đoạn:

+ Giai đoạn 1: nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc

+ Giai đoạn 2: nhiệm vụ chủ yếu là xỏa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến giành ruộng đất cho nông dân

+ Giai đoạn 3: nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội và tiến lên chủ nghĩa xã hội

Ba giai đoạn không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau

- Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng:

+ Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam

Mục tiêu của Đảng là xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và tiến tới xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, nhằm đảm bảo tự do và hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động, cũng như tất cả các dân tộc, bao gồm cả đa số và thiểu số.

Đảng đã đề ra 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo nền tảng cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy kháng chiến đạt được thắng lợi.

Việt Nam kiên định theo đuổi hòa bình và dân chủ trong quan hệ quốc tế, đồng thời cần tận dụng sự hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân toàn cầu, đặc biệt là từ Trung Quốc và Liên Xô Để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam cần tăng cường đoàn kết với Trung Quốc, Liên Xô, cũng như với Campuchia và Lào Đường lối và chính sách của Đại hội đã được bổ sung và phát triển qua các hội nghị Trung ương sau đó, thể hiện sự linh hoạt và thích ứng với tình hình thực tiễn.

Việc thực hiện thành công đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã bảo vệ chính quyền cách mạng và đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, với sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ Điều này đã dẫn đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên toàn quốc.

Đường lối kháng chiến chống Mĩ cứu nước giai đoạn 1954- 196

Sau Hội nghị Gionevo, cách mạng Việt Nam đối mặt với cả thuận lợi và khó khăn Đảng ta cần xác định đường lối đúng đắn sau tháng 7/1954, phù hợp với tình hình mỗi miền và xu thế thời đại Đại hội lần thứ III của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ 5 đến 10/9/1960 đã hoàn thiện chiến lược chống Mỹ cứu nước trong giai đoạn mới.

Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô, đã làm thay đổi cục diện thế giới, như việc phá vỡ thế độc quyền về bom nguyên tử của Mỹ và ghi dấu ấn với sự kiện Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên bay vòng quanh trái đất.

+ Phong trào cách mạng thế giới phát triển, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ

+ Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng

+ Thế và lực của cách mạng ngày càng lớn mạnh

+ Ý chí độc lập, thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta từ Bắc chí Nam

- Đế quốc Mĩ có tiềm lực về kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng

- Chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hôi chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô và Mĩ

- Sự chia rẽ trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là mâu thuẫn Trung – Xô về lập trường, quan điểm

- Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền với ranh giới quân sự là vĩ tuyến 17, nguy cơ bị chia cắt lâu dài

=> Hoàn cảnh trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối chiến lược cách mạng giai đoạn mới

Trong giai đoạn này, nội dung đường lối được thể hiện rõ nét qua Hội nghị Trung ương lần thứ 15 vào tháng 1 năm 1959 và Đại hội Đảng III vào năm 1960, với những điểm chính như sau:

- Nhiệm vụ chiến lược: có hai nhiệm vụ chiến lược

+ Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa

+ Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Đảng đã thể hiện sự sáng tạo trong việc giải quyết các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đồng thời áp dụng một cách linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin về học thuyết cách mạng không ngừng Điều này không chỉ giúp bổ sung phương pháp luận cho kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác mà còn góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội.

- Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau

- Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng 2 miền:

Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đóng vai trò quyết định trong sự phát triển toàn bộ cách mạng Việt Nam và sự nghiệp thống nhất đất nước, trong khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam cũng giữ vai trò quan trọng, góp phần trực tiếp vào tiến trình này.

Phương pháp cách mạng miền Nam chủ yếu dựa vào bạo lực cách mạng, đặc biệt là bạo lực chính trị trong giai đoạn này Theo Hiệp định Giơnevơ, việc thống nhất hai miền Nam - Bắc phải diễn ra trong hòa bình, do đó, việc thực hiện bạo lực vũ trang sẽ vi phạm hiệp định Thời điểm này, miền Nam chưa có lực lượng vũ trang đủ mạnh để tiến hành bạo lực vũ trang.

Con đường thống nhất đất nước cần kiên trì theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình để thống nhất Việt Nam Đồng thời, luôn nâng cao cảnh giác và chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra.

Triển vọng của cách mạng Việt Nam, mặc dù đối mặt với nhiều thách thức cam go và phức tạp, nhưng chắc chắn rằng thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về nhân dân Sự đoàn kết giữa miền Nam và miền Bắc sẽ dẫn đến việc cả nước cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đảng thể hiện tư tưởng chiến lược bằng cách nâng cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phù hợp với thực tiễn cách mạng Điều này đã huy động và kết hợp sức mạnh của nhiều lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển đất nước.

Đảng ta thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề lịch sử chưa có tiền lệ, đảm bảo phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời đáp ứng lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.

Đảng đã chỉ đạo quân dân phấn đấu giành được những thành tựu lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam Đường lối của Đại hội III được bổ sung và phát triển qua quá trình lãnh đạo cách mạng ở mỗi miền trong giai đoạn 1960-1965.

Quá trình nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong thời kì đổi mới

Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỉ trọng của công nghiệp trong toàn ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế

Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình phát triển nền sản xuất cơ khí lớn trong toàn bộ các ngành kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp Mục tiêu của quá trình này là nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động và cải thiện năng suất lao động một cách nhanh chóng.

Đại hội Đảng VI vào tháng 12 năm 1986, mang tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”, đã chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa trước thời kỳ đổi mới Đây là bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu của quá trình đổi mới tại Việt Nam.

Một trong những sai lầm nghiêm trọng là xác định mục tiêu và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật một cách thiếu chính xác Sự chủ quan và vội vàng đã dẫn đến việc thúc đẩy công nghiệp hóa mà không có đủ các tiền đề cần thiết, đồng thời chậm trễ trong việc đổi mới cơ cấu quản lý kinh tế.

Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế và đầu tư sản xuất, chúng ta gặp khó khăn trong việc xác định trọng điểm đầu tư, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm và chiều sâu.

Ba là, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V chưa nghiêm túc, thể hiện qua việc nông nghiệp vẫn chưa được coi là mặt trận hàng đầu Hơn nữa, ngành công nghiệp nặng không đáp ứng kịp thời nhu cầu của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

Đại hội VI đã chỉ ra những sai lầm và khuyết điểm trong quá trình phát triển, đồng thời xác định nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ quá độ là thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm (nông nghiệp), hàng tiêu dùng (công nghiệp nhẹ) và hàng xuất khẩu.

Đại hội Đảng VII năm 1991 đã đánh dấu một bước đột phá quan trọng trong nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa Quá trình này được hiểu là sự chuyển đổi căn bản và toàn diện trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội Nó chuyển từ việc sử dụng lao động thủ công sang việc áp dụng rộng rãi sức lao động kết hợp với công nghệ và phương pháp tiên tiến Mục tiêu là phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội.

- Đại hội Đảng VIII (6/1996) đánh dấu nhiều thành tựu mới:

+ Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội

Nhiệm vụ của giai đoạn đầu trong thời kỳ quá độ là tạo nền tảng cho công nghiệp hóa, đã được hoàn thành cơ bản Điều này cho phép Việt Nam bước vào thời kỳ mới, tập trung vào việc đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Đại hội IX (4/2001), Đại hội X (4/2006) và Đại hội XI (1/2011) đã xác định rõ mục tiêu và con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) rút ngắn cho Việt Nam, nhấn mạnh rằng CNH-HĐH cần gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và phải hướng tới sự phát triển nhanh, bền vững.

Các đại hội tiếp theo của Đảng đã nhấn mạnh những nhận thức mới về mục tiêu và con đường công nghiệp hóa rút ngắn tại Việt Nam, tập trung vào việc gắn kết công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế tri thức, đồng thời thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.

Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đặc biệt trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) Cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước ngày càng được cải thiện, khả năng độc lập tự chủ về kinh tế được nâng cao, và tỉ trọng công nghiệp tăng lên với sự phân phối hợp lý giữa các ngành và vùng kinh tế Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, nhưng thành tựu này phản ánh sự đúng đắn, tự chủ và sáng tạo của Đảng và Nhà nước, giúp đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế trước đổi mới và kiên định tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Quan điểm của Đảng về CNH – HĐH trong thời kì đổi mới

Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỉ trọng của công nghiệp trong toàn ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế

Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình phát triển nền sản xuất cơ khí quy mô lớn trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong ngành công nghiệp Mục tiêu của quá trình này là nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động và cải thiện năng suất lao động một cách nhanh chóng.

Trong bối cảnh đổi mới, Đảng ta đã phân tích các điều kiện trong và ngoài nước để đưa ra những quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Những quan điểm này được xác định tại Hội nghị Trung ương VII và đã được phát triển, bổ sung qua các Đại hội VIII, IX.

X, XI của Đảng Dưới đây khái quát lại những quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới:

Công nghiệp hóa và hiện đại hóa cần được kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế tri thức, đồng thời chú trọng đến việc bảo vệ tài nguyên và môi trường.

- Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa: cơ khí hóa, tự động hóa, điện khí hóa, xây dựng cơ sở hạ tầng một cách hiện đại

Công nghiệp hóa và hiện đại hóa cần phải kết hợp chặt chẽ với việc phát triển kinh tế tri thức, điều này cho phép các quốc gia đi sau có thể rút ngắn quá trình phát triển Thay vì phải trải qua từng giai đoạn từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp, các nước này có thể nhanh chóng chuyển sang kinh tế tri thức Đây không phải là sự nóng vội mà là một lợi thế chiến lược trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần gắn liền với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường, điều này thực chất là trở về với mục tiêu nguyên bản của quá trình này, đó là phục vụ lợi ích của con người.

Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa (CNH) gắn liền với hiện đại hóa (HĐH), phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường là hoàn toàn đúng đắn HĐH, phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường là những yếu tố then chốt cho sự thành công của chiến lược này Chỉ khi kết hợp hài hòa tất cả các yếu tố này, đất nước ta mới có thể phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế

Trong thời kỳ đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần đang phát triển mạnh mẽ Thị trường phản ánh nhu cầu của người tiêu dùng, vì vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là nhiệm vụ chung của toàn dân và mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, yêu cầu hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế Việc này nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh chóng và hiệu quả hơn.

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững

Trong 5 yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, con người là yếu tố quan trọng nhất Để phát triển nguồn lực con người phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, cần chú trọng đến việc nâng cao giáo dục và đào tạo.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ của toàn dân và mọi thành phần kinh tế, trong đó lực lượng cán bộ khoa học, công nghệ và đội ngũ công nhân lành nghề đóng vai trò quan trọng Nguồn nhân lực cần đảm bảo đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt, sử dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, đồng thời có khả năng sáng tạo công nghệ mới.

Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định trong sự phát triển kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đang chuyển mình từ một nền kinh tế kém phát triển Để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, việc phát triển khoa học và công nghệ trở thành yêu cầu cấp thiết Cần tăng cường nhập khẩu công nghệ, mua sáng chế, đồng thời phát triển công nghệ nội sinh để nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

Năm là, phát triển nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thông qua việc phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững Điều này sẽ giúp xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đồng thời phát triển văn hóa, giáo dục và y tế, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng Mục tiêu này thể hiện sự phát triển vì con người, đảm bảo mọi người đều được hưởng thành quả từ sự phát triển.

Nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến đh VIII

Thị trường là tập hợp các điều kiện và thỏa thuận mà thông qua đó người mua và người bán tiến hành sự trao đổi hàng hóa với nhau

Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế trong đó sự tương tác giữa người mua và người bán diễn ra theo các quy luật cung cầu, giá trị và cạnh tranh, giúp xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.

Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi máy móc và tư duy rập khuôn, dẫn đến việc không công nhận nền kinh tế thị trường và coi nền kinh tế hoạch hóa tập trung là đặc trưng chính Kết quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng Nhằm khắc phục tình trạng này, Đảng đã thay đổi tư duy về kinh tế thị trường trong giai đoạn đổi mới, điều này được thể hiện rõ qua các Đại hội VI đến Đại hội VIII So với trước đổi mới, nhận thức về kinh tế đã có nhiều tiến bộ đáng kể.

Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại

Kinh tế thị trường đã có nguồn gốc từ xã hội nô lệ, phát triển qua các giai đoạn phong kiến và tư bản chủ nghĩa Mặc dù có lịch sử lâu dài, nhưng sự biểu hiện rõ rệt nhất của kinh tế thị trường chỉ diễn ra trong chủ nghĩa tư bản, nơi nó đạt đến trình độ cao, chi phối toàn bộ đời sống xã hội Điều này đã dẫn đến quan niệm rằng kinh tế thị trường là sản phẩm đặc trưng của chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản không phải là nguồn gốc duy nhất tạo ra kinh tế hàng hóa; thay vào đó, kinh tế thị trường, với vai trò là hình thức kinh tế hàng hóa phát triển cao, là thành tựu chung của nhân loại Nhận thức này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cách nhìn nhận về sự phát triển kinh tế.

Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Kinh tế thị trường không đối lập với các chế độ xã hội và phát triển trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau, có thể liên hệ với cả chế độ tư hữu và công hữu Điều này cho thấy kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đại hội Đảng VII (6/1991) khẳng định rằng sản xuất hàng hóa không trái ngược với chủ nghĩa xã hội mà là cần thiết cho việc xây dựng nó Đại hội cũng xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là "cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước" Tiếp theo, Đại hội VIII (tháng 6-1996) đã phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, bổ sung các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài.

Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Vì vậy, có thể cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Kinh tế thị trường cũng có những ưu điểm sau:

- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự do, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu

- Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo

- Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường

- Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lí vĩ mô của Nhà nước

Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta chưa nhận thức được rằng trong quá trình chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội, sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường vẫn tồn tại Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới, chúng ta ngày càng nhận ra rằng cơ chế thị trường có thể là nền tảng cho sự phát triển kinh tế.

Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh rằng việc áp dụng kinh tế thị trường là cần thiết và hiệu quả trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đh XII

Thị trường là tập hợp các điều kiện và thỏa thuận mà thông qua đó người mua và người bán tiến hành sự trao đổi hàng hóa với nhau

Kinh tế thị trường là hệ thống trong đó người mua và người bán tương tác dựa trên quy luật cung – cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh, từ đó xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.

Trên thế giới có hai mô hình kinh tế thị trường:

- Kinh tế thị trường tự do: Phổ biến ở Bắc Mĩ, Tây Âu (phản ánh rõ nhất ở Mĩ)

Lĩnh vực tư nhân đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nơi tự do cạnh tranh được khuyến khích tối đa, trong khi vai trò của Nhà nước trong các hoạt động kinh tế bị hạn chế Nền kinh tế được điều tiết bởi "bàn tay vô hình", cho thấy sự cạnh tranh khốc liệt, và lợi nhuận cá nhân được coi trọng hàng đầu.

Kinh tế thị trường xã hội, phổ biến ở các nước Tây và Bắc Âu, hoạt động dựa trên nguyên tắc của kinh tế thị trường So với mô hình kinh tế thị trường tự do, mô hình này có hai đặc trưng nổi bật.

+ Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người là mục tiêu chính của quá trình phát triển kinh tế thị trường

Nhà nước dẫn dắt kinh tế thị trường không chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà còn hướng đến phát triển và hiệu quả xã hội Đại hội Đảng IX (4/2001) đã xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đây là bước chuyển quan trọng, từ việc coi mô hình kinh tế thị trường như một công cụ quản lý đến việc nhìn nhận nó như một chỉnh thể, nâng tầm mô hình này Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự dẫn dắt và chi phối bởi các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội.

Tính định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện qua ba khía cạnh của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, với mục tiêu cuối cùng là xây dựng một xã hội mà ở đó "Dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại" và do nhân dân làm chủ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ưu điểm vượt trội so với kinh tế thị trường xã hội, bởi vì nó tập trung vào việc giải phóng con người khỏi áp bức và bất công Trong khi kinh tế thị trường xã hội có những tiến bộ nhất định, nó vẫn hướng đến tư bản chủ nghĩa, không thể tạo ra một xã hội công bằng và văn minh như xã hội chủ nghĩa.

Kế thừa tư duy từ Đại hội IX, Đảng đã làm rõ các nội dung cốt lõi về định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường qua ba Đại hội tiếp theo.

Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" Điều này bao gồm việc giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, và đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo Chính sách này khuyến khích mọi người thoát nghèo và từng bước hướng tới sự khá giả hơn.

Phương hướng phát triển kinh tế cần chú trọng vào việc phát triển tất cả các thành phần kinh tế, tuy nhiên không được lơ là vai trò dẫn dắt và quản lý của kinh tế Nhà nước ở cấp độ vĩ mô Việc để nền kinh tế rơi vào tình trạng tự do cạnh tranh có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc về hướng chủ nghĩa tư bản.

- Về định hướng xã hội và phân phối:

Để đạt được tiến bộ và công bằng xã hội, cần thực hiện ngay trong từng bước và chính sách phát triển, đồng thời liên kết tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và xã hội Điều này giúp hạn chế những tác động tiêu cực từ kinh tế thị trường.

Trong lĩnh vực phân phối, việc phân phối chủ yếu dựa trên lao động và hiệu quả lao động, cũng như hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội Bên cạnh đó, phân phối cũng được thực hiện dựa trên mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.

Quản lý nhà nước cần xác định tinh thần “dân chủ”, trong đó nhân dân là chủ thể Điều này đảm bảo vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự khác biệt cơ bản, nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của thị trường, đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi người Điều này thể hiện tính đúng đắn, sáng tạo và phù hợp với thời đại của Đảng.

Chủ trương xây dựng hệ thống chính trị của Đảng trong thời kì đổi mới

Hệ thống chính trị là một phần quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội, bao gồm các tổ chức và thiết chế có mối quan hệ chặt chẽ về mục đích và chức năng Nó đóng vai trò trong việc thực hiện quyền lực chính trị và đưa ra các quyết định chính trị.

Hệ thống chính trị bao gồm ba bộ phận chính: Đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân Các tổ chức này có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị, đóng góp ý kiến về đường lối của Đảng và tham gia vào việc sửa đổi pháp luật, nhằm đảm bảo vai trò làm chủ của nhân dân.

- Xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị:

Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng tiên phong đại diện cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, thể hiện sự trung thành với lợi ích của các tầng lớp này.

Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo tối cao, là đảng cầm quyền duy nhất, đảm bảo sự nhất quán về chính trị trong việc lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là vấn đề then chốt và đầy thách thức, trong đó Đảng dẫn dắt xã hội thông qua cương lĩnh, chiến lược và các chính sách lớn Đảng thực hiện công tác tuyên truyền, kiểm tra và giám sát, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của các cơ quan chính quyền Quan trọng là phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, mà không can thiệp vào công việc của họ.

Đảng có vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị và đồng thời là một phần của hệ thống đó, gắn bó chặt chẽ với nhân dân Đảng tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng và chịu sự giám sát từ họ, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong hoạt động hệ thống chính trị là nhiệm vụ quan trọng, cần được thực hiện một cách chủ động, tích cực và có quyết tâm chính trị cao, đồng thời phải thận trọng và vững chắc Quá trình này cần vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, vừa quán triệt các nguyên tắc chung, phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của từng cấp, từng ngành để tránh nguy cơ tự diễn biến, tự chuyển hóa.

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, khẳng định và bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội Nhà nước này luôn tuân thủ pháp luật của chính mình, thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối đối với pháp luật trong cả tổ chức và hoạt động Hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là dân chủ, minh bạch, phản ánh ý chí của nhân dân và phù hợp với hoàn cảnh đất nước, đóng vai trò tối thượng trong đời sống nhà nước và xã hội, thể hiện bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng theo năm đặc điểm sau đây:

+ Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực NN thuộc về ND

+ Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công rành mạch, phối hợp và kiểm soát chặt chẽ gữa các cơ quan nhà nước

+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật

+ Nhà nước thực hành dân chủ, tăng cường kỉ cương, kỉ luật, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được lãnh đạo bởi một đảng duy nhất, dưới sự giám sát của nhân dân và phản biện từ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức thành viên Để xây dựng Nhà nước pháp quyền hiệu quả, cần thực hiện một số biện pháp quan trọng.

+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật – công cụ quản lí xã hội của nhà nước

+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội

Đẩy mạnh cải cách hành chính là nhiệm vụ quan trọng nhằm xây dựng một Chính phủ hiện đại, thống nhất và thông suốt Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành pháp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phục vụ tốt hơn cho người dân.

+ Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người

+ Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp

- Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp và vận động các tầng lớp nhân dân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của họ Ngoài ra, các tổ chức này cũng đề xuất các chính sách liên quan đến kinh tế, văn hóa, xã hội, cũng như an ninh và quốc phòng.

+ Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội

Thực hiện hiệu quả Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên và Luật Công đoàn, đồng thời đảm bảo quy chế dân chủ ở tất cả các cấp, sẽ tạo điều kiện cho Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào việc xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.

Đổi mới phương thức hoạt động là cần thiết để khắc phục tình trạng hành chính hóa và nhà nước hóa, đồng thời giảm thiểu phô trương và hình thức Việc này sẽ nâng cao chất lượng hoạt động, cải thiện công tác dân vận và thể hiện trách nhiệm với nhân dân Cần lắng nghe ý kiến của dân, truyền đạt thông tin một cách dễ hiểu và tạo niềm tin cho cộng đồng.

Theo quan điểm và chủ trương của Đảng, hệ thống chính trị ở Việt Nam đã trải qua nhiều đổi mới, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

Làm rõ sự đổi mới tư duy của Đảng về hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị là một phần quan trọng của kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức và thiết chế có mối quan hệ về mục đích và chức năng trong việc thực hiện quyền lực chính trị và ra quyết định chính trị Cấu trúc hệ thống chính trị rất đa dạng, nhưng chủ yếu bao gồm ba bộ phận: Đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội của nhân dân Từ Đại hội VI, Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới chính trị, trong đó có việc cải cách hệ thống chính trị, thể hiện qua ba vấn đề chính.

Một là, Nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị

Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới tư duy chính trị, tập trung vào việc hoạch định các chính sách đối nội và đối ngoại Đặc biệt, việc thực hiện thành công đổi mới kinh tế đã giúp khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo nền tảng vật chất và tinh thần cho sự ổn định chính trị Điều này củng cố niềm tin của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới các lĩnh vực khác trong xã hội Sự chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được phản ánh qua khái niệm hệ thống chính trị.

Hai là, Nhận thức mới về đấu tranh giai cấp và động lực chủ yếu phát triển đất nước trong giai đoạn mới

Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh rằng trong thời kỳ quá độ, sự đa dạng về hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu và vị trí của các giai cấp trong xã hội Mối quan hệ giữa các giai cấp là sự hợp tác và đấu tranh nội bộ, hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Đấu tranh giai cấp hiện nay tập trung vào việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khắc phục nghèo đói, bảo đảm công bằng xã hội và ngăn chặn các tư tưởng tiêu cực Động lực phát triển đất nước là sự đoàn kết toàn dân, liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của xã hội.

Nhận thức trên đây là cơ sở tư tưởng, lí luận rất quan trọng để xác định bản chất

Nhận thức mới này đã khắc phục tư tưởng tả khuynh, cho rằng chuyên chính vô sản là sự kết hợp đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới

Ba là, Nhận thức mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong hệ thống chính trị

Trong quá trình đổi mới tư duy về hệ thống chính trị, việc đổi mới tư duy về nhà nước đóng vai trò quan trọng Thuật ngữ "xây dựng nhà nước pháp quyền" lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII vào năm 1991 Từ đó, các Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) và các Đại hội VIII, IX, X, XI đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời làm rõ thêm các nội dung liên quan.

Đảng đã thể hiện tư duy đổi mới sáng tạo và đúng đắn về hệ thống chính trị, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu của tình hình đổi mới Nhờ đó, những khuyết điểm của hệ thống chuyên chính vô sản trước đây đã được khắc phục.

Quan điểm về CNXH của Mác Lênin và Hồ Chí Minh

Theo mác, CNH là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, diễn ra song song với cuộc cách mạng công nghiệp trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa Sự phát triển của máy móc không chỉ thúc đẩy phân công lao động mà còn giảm thiểu lao động cơ bắp, từ đó gia tăng năng suất lao động.

Theo Lê-nin, công nghiệp có ảnh hưởng sâu sắc đến nông nghiệp, làm cho các công cụ sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển và cải tiến, từ đó nâng cao năng suất lao động Ông nhấn mạnh rằng công nghiệp là chìa khóa để cải tạo nền nông nghiệp lạc hậu, cần cung cấp cho nông nghiệp các công cụ và tư liệu sản xuất để thúc đẩy sự phát triển Ngoài việc tác động trực tiếp đến nông nghiệp, công nghiệp còn ảnh hưởng đến các ngành khác, tạo điều kiện mở rộng thị trường nội địa và tham gia vào phân công lao động toàn cầu cũng như thị trường quốc tế.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con đường duy nhất để biến Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là công nghiệp hóa đất nước Đây là định hướng chiến lược cho sự phát triển cách mạng Chủ tịch khẳng định rằng đặc điểm lớn nhất trong giai đoạn quá độ của chúng ta là tiến lên chủ nghĩa xã hội mà không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển miền Bắc với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, cùng với văn hóa và khoa học tiên tiến Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, việc cải tạo kinh tế cũ và xây dựng kinh tế mới là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài.

Phân tích, giải thích CNH gắn với kinh tế tri thức

Kinh tế tri thức, theo định nghĩa của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), là nền kinh tế mà trong đó tri thức đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất, phổ cập và sử dụng, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải và nâng cao chất lượng cuộc sống Những ngành có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế hiện nay chủ yếu là các lĩnh vực dựa vào tri thức và thành tựu khoa học, công nghệ, bao gồm công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, cũng như các ngành công nghiệp truyền thông, nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ứng dụng khoa học và công nghệ cao.

Vậy tại sao nước ta phải tiễn hành công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức?

Việt Nam cần nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu và rút ngắn khoảng cách với các nước trên thế giới Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nước ta có lợi thế là được học hỏi từ kinh nghiệm thành công của các quốc gia đi trước, từ đó có thể rút ngắn thời gian thực hiện quá trình này.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa kết hợp với phát triển kinh tế tri thức là giải pháp cần thiết để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội hiện thực Đồng thời, quá trình này cũng phản ánh yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu sắc và toàn diện hơn.

Thứ tư, tiền hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri

Tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế thị trường (KTTT) với mục tiêu "đi nhanh vào công nghệ hiện đại" ở các ngành then chốt, nhằm tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế Đến Đại hội X, KTTT được xác định là yếu tố quyết định cho con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước, với việc tận dụng cơ hội quốc tế và lợi thế nội tại để rút ngắn quá trình phát triển Đại hội XI tiếp tục khẳng định định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ phát triển chiều rộng sang hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng và tính bền vững trong phát triển KTTT.

Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ là động lực quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường Điều này góp phần tăng cường năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời đảm bảo sự phát triển nhanh chóng và bền vững cho đất nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam đang tiến hành đồng thời hai quá trình quan trọng: chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp (CNH-HĐH) và từ kinh tế nông-công nghiệp lên kinh tế thị trường Khác với các nước đi trước, Việt Nam tận dụng cơ hội của mình để lồng ghép hai quá trình này, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, nhằm gắn kết CNH-HĐH với sự phát triển của kinh tế thị trường.

Trách nhiệm của sinh viên trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã đặt ra mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại Để đạt được mục tiêu này, thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên, cần nhận thức đúng đắn về vai trò của mình trong xây dựng đất nước giàu đẹp Với những thế mạnh như tính cần cù, thông minh, sáng tạo và lòng yêu nước nồng nàn, sinh viên Việt Nam có tiềm năng trở thành lực lượng xung kích đi đầu trong các hoạt động Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn, sinh viên cần phát hiện và khắc phục các nhược điểm của mình, như tác phong giờ giấc thiếu kỷ luật, thiếu tinh thần trách nhiệm và hay lơ là việc chung Bằng cách phát huy thế mạnh và khắc phục hạn chế, sinh viên có thể đáp ứng các tiêu chí về trình độ chuyên môn, tay nghề cao, đạo đức và lối sống trong sáng, sức khỏe thể chất và tinh thần cường tráng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Sinh viên ngày nay cần có tinh thần làm việc năng động, ham học hỏi và thái độ tích cực để đạt được thành công Thái độ tự tin và dám nghĩ dám làm sẽ giúp sinh viên vượt qua thử thách và tích lũy kinh nghiệm sống quý báu Họ cần duy trì tâm thế lạc quan, không đầu hàng trước thất bại, mà coi đó là bước đệm cho thành công Như câu nói "có chí thì nên", sinh viên hãy luôn nỗ lực và không ngừng vươn lên để phát triển bản thân.

Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên

Thanh niên cần chủ động trong việc tự học, rèn luyện và tu dưỡng bản thân để trở thành nguồn lao động chất lượng cao Họ phải tự tin và chịu trách nhiệm về hành động của mình, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Thứ nhất, thanh niên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng

Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập và tự học tập đề nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề

Thứ ba, thanh niên phải tích cực xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thế nhân dân

Thứ tư, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp

Thứ năm, thanh niên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh

Vào thứ sáu, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và giải quyết các vấn đề toàn cầu như giữ gìn hòa bình, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu Họ cũng nên tích cực tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng cao ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế Để kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, mỗi thanh niên Việt Nam cần nỗ lực học tập, trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời thi đua lao động và rèn luyện để trở thành thế hệ thanh niên xứng tầm với yêu cầu của đất nước và thời đại.

Ngày đăng: 27/01/2022, 19:45

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w