KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
THỰC TRẠNG BỆNH VIÊM MŨI XOANG MẠN TÍNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ Ở CÔNG NHÂN KHAI THÁC THAN NAM MẪU QUẢNG NINH
3.1.1 Đặc điểm thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
3.1.1.1 Đặc điểm về giới, trình độ học vấn và dân tộc của công nhân nghiên cứu
Bảng 3.1: Đặc điểm về giới- cấp học- dân tộc công nhân nghiên cứu
Chỉ số cơ bản Số lượng Tỷ lệ %
Nhận xét: Đặc điểm về giới tính của đối tượng nghiên cứu, chủ yếu nam giới chiếm tỷ lệ 97,73%, còn lại là nữ 2,27%.
Tất cả các đối tượng trong khảo sát đều có trình độ học vấn từ THCS trở lên, với tỷ lệ học sinh hoàn thành cấp Ba – THPT đạt 57,59% Ngoài ra, có 24,68% người tham gia có trình độ Trung cấp, Cao đẳng và Đại học.
Dân tộc kinh chiếm tỷ lệ chủ yếu 98,87%, còn lại các dân tộc khác 1,13%.
BÀN LUẬN
THỰC TRẠNG BỆNH VIÊM MŨI XOANG MẠN TÍNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ Ở CÔNG NHÂN KHAI THÁC THAN NAM MẪU QUẢNG NINH
4.1.1 Đặc điểm thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
4.1.1.1 Đặc điểm về giới, trình độ học vấn và dân tộc của công nhân nghiên cứu
Trong nghiên cứu, giới tính nam chiếm ưu thế với tỷ lệ 97,73%, trong khi nữ chỉ chiếm 2,27%, phản ánh đặc thù công việc trong ngành công nghiệp nặng So với các nghiên cứu trước, tỷ lệ nữ trong ngành luyện kim là 16,74% và trong ngành khai thác than là 8,2% Các nghiên cứu quốc tế cho thấy tỷ lệ nam giới trong ngành khai thác than ở Ấn Độ và Australia dao động từ 90-95%, trong khi tại Thụy Điển, tỷ lệ nữ giới chỉ khoảng 5-10% Tuy nhiên, có sự chuyển biến trong cơ cấu lao động giới tính, đặc biệt ở các nước phát triển, nơi mà công nghệ khai thác hiện đại có thể tạo điều kiện cho sự gia tăng số lượng nữ giới tham gia lao động, ngược lại, ở các nước đang phát triển, số lao động nữ có thể giảm dần.
Trong nghiên cứu, nhóm đối tượng có trình độ học vấn từ đại học, cao đẳng và trung cấp chiếm 24,46%, tương đương với trình độ văn hóa của đối tượng nghiên cứu của Lê Thanh Hải Tỷ lệ này dao động trong các phân xưởng sản xuất thép là 26,40%, 26,93% và 23,23%, cho thấy sự tương đồng về mặt trình độ học vấn Đặc biệt, tỷ lệ đối tượng hoàn thành trung học phổ thông trong nghiên cứu đạt 57,59%, so với nhóm trung học phổ thông và trung cấp của Lê Thanh.
Hải có trình độ học vấn tương đương với các nhóm 51,87%, 55,60% và 61,69% Theo Lê Văn Dương, 77,7% công nhân khai thác than có trình độ THPT, cho thấy sự chênh lệch không lớn và phụ thuộc vào cách phân chia của từng tác giả Trình độ học vấn THCS chiếm 17,73%, không có ai dưới THCS Lê Thanh Hải ghi nhận trong ngành thép, tỷ lệ công nhân có trình độ THCS là 21,13%, 17,47% và 15,08% Lê Văn Dương phân loại dưới THPT là 22,3% Nghiên cứu của Gao WX và Ou CQ cho thấy, trong số những người bị VMXMT ở một số ngành công nghiệp, tỷ lệ có trình độ ĐH, CĐ là 34,8%, THPT 34,6%, THCS 17,4% và tiểu học 13,2% Nghiên cứu này chỉ ra rằng nhóm có trình độ ĐH, CĐ cao hơn, trong khi nhóm THPT thấp hơn, còn nhóm THCS tương đương với nghiên cứu của chúng tôi.
Người lao động chủ yếu tại Quảng Ninh là người dân tộc Kinh, chiếm tới 98,87%, trong khi các dân tộc khác chỉ chiếm 1,13% Vị trí địa lý và đặc điểm dân số của khu vực lân cận cũng cho thấy tỷ lệ lao động là người dân tộc Kinh cao hơn hẳn so với các dân tộc khác.
4.1.1.2 Phân loại nhóm tuổi đời của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được chia thành các nhóm tuổi cách nhau 10 năm, cho thấy nhóm tuổi lớn nhất trên 50 tuổi có tỷ lệ 3,97% Tần suất cao nhất xuất hiện ở nhóm tuổi 31 – 40 và 41 – 50, chiếm lần lượt 45,96% và 43,40%, phản ánh đặc điểm của lực lượng lao động trong độ tuổi vàng Phân bố độ tuổi trong nghiên cứu của Lê Văn Dương liên quan đến công nhân mỏ Quang Hanh – Quảng Ninh.
Nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ người lao động trong độ tuổi 31 – 40 chiếm 49,1%, trong khi nhóm tuổi trên 50 chỉ chiếm 3% Đáng chú ý, nhóm tuổi 20 – 31 chiếm 21,1% và nhóm tuổi 41 – 50 chiếm 26,8% Sự khác biệt giữa các nghiên cứu có thể do cơ cấu lao động ổn định hơn tại công ty than Nam Mẫu, dẫn đến tỷ lệ người lao động có tuổi đời cao hơn Một nghiên cứu khác ở mỏ than Tổng công ty than Đông Bắc cho thấy, tỷ lệ người lao động từ 46 tuổi trở lên chiếm 7,84% Điều này cho thấy, ngành than thu hút nhiều lao động ở độ tuổi trung niên, đây cũng là thời kỳ vàng của sự nghiệp lao động, đặc biệt là ở những người gắn bó lâu dài với nghề khai thác mỏ.
Theo nghiên cứu của Linda JMc và Patricia JL, độ tuổi trung bình của người lao động trong ngành khai thác than là 43,8 tuổi, phù hợp với độ tuổi lao động chính Nghiên cứu của Hỹseyin ửzdemin cũng cho thấy độ tuổi trung bình tương tự, khoảng 41 ± 3 tuổi.
4.1.1.3 Nhóm tuổi nghề của đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu theo thâm niên tuổi nghề đánh giá mối tương quan của môi trường lao động ảnh hưởng đến bệnh VMX của người lao động. Trong nghiên cứu của chúng tôi tuổi nghề trong giai đoạn từ 16 – 20 năm chiếm tỷ lệ cao nhất 40,28%, 20 năm chiếm tỷ lệ 14,75%, so sánh với nghiên cứu của Linda JMc, Patricia JL cho thấy thời gian trung bình về thâm niên tuổi nghề của công nhân khai thác than là 16 năm, Nghiên cứu của Lê Văn Dương 10 – 20 năm tuổi nghề chiếm tỷ lệ 50,37%, mức tuổi này phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi độ tuổi nằm trong khoảng 11 – 20 năm chiếm tỷ lệ cao nhất [30],[115].
Nghiên cứu của Lê Thanh Hải cho thấy, trong ngành công nghiệp nặng sản xuất thép, nhóm công nhân có tuổi nghề từ 10 – 20 năm đứng thứ hai về tỷ lệ mắc bệnh VMXMT, với con số lên đến 94,47%.
4.1.1.4 Phân nhóm đối tượng nghiên cứu theo phân xưởng lao động
Nghiên cứu được phân nhóm theo 5 phân xưởng, trong đó phân xưởng KT chiếm tỷ lệ cao nhất với 31,49%, tiếp theo là phân xưởng VC với 28,51%, và phân xưởng có tỷ lệ thấp nhất là các đơn vị nhỏ khác, gọi chung là đơn vị Khác, chỉ chiếm 6,52% Môi trường làm việc với nồng độ bụi cao, hơi khí độc và độ ẩm lớn đã ảnh hưởng đến các đối tượng lao động khác nhau, do đó việc phân nhóm theo từng phân xưởng là cần thiết.
4.1.2 Thực trạng bệnh VMXMT của đối tượng nghiên cứu
4.1.2.1 Thực trạng mắc bệnh lý chung của tai mũi họng
Theo nghiên cứu, tỷ lệ mắc bệnh lý tai mũi họng (TMH) trong nhóm đối tượng khảo sát đạt 90,49%, cao hơn so với nghiên cứu của Vũ Thành Khoa tại Xí nghiệp than Thống Nhất (66,93%) và gần với nghiên cứu của Lê Thanh Hải tại Nhà máy luyện thép Thái Nguyên (98,93%) Điều này cho thấy mức độ mắc bệnh TMH trong một số ngành công nghiệp trong nước vẫn còn cao, chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như ý thức của người lao động và điều kiện bảo hộ vệ sinh cá nhân cùng trang thiết bị công nghệ hỗ trợ.
Tỷ lệ mắc bệnh lý về tai chiếm 11,35% so sánh với một số tác giả như
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh lý tai của Lê Thanh Hải là 2,84%, Đỗ Văn Tùng là 6,5% và Lê Văn Dương cũng 6,5% Những con số này cao hơn so với các nghiên cứu trước đó, có thể do nghiên cứu này bao gồm cả bệnh lý tai ngoài Thêm vào đó, yếu tố nguy cơ môi trường lao động, đặc biệt ở những khu vực sâu hơn 50m dưới mực nước biển và môi trường ẩm thấp, có thể góp phần làm gia tăng tình trạng bệnh lý này.
Tỷ lệ bệnh lý viêm mũi xoang (VMX) chung trong nghiên cứu của chúng tôi là 79,15%, thấp hơn so với 93,63% trong nghiên cứu của Lê Thanh Hải, có thể do môi trường luyện kim độc hại hơn Trong khi đó, nghiên cứu của Lê Văn Dương cho thấy tỷ lệ VMX cấp và mạn là 51,8%, nhưng không bao gồm các trường hợp VMX dị ứng, dẫn đến tỷ lệ bệnh lý của chúng tôi cao hơn Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ VMX cao trong các ngành công nghiệp, do môi trường lao động ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp đến hệ hô hấp và mũi xoang.
Theo nghiên cứu, bệnh lý về họng và hạ họng thanh quản chiếm tỷ lệ 63,83%, trong đó bệnh lý về họng chiếm 53,8% theo Lê Văn Dương Lê Thanh Hải cho thấy tỷ lệ bệnh lý về họng lên tới 94,84%, trong khi bệnh lý về thanh quản chỉ chiếm 1,12% Chúng tôi đã xếp chung bệnh lý họng và thanh quản, nhưng tỷ lệ cao hơn trong nghiên cứu của Lê Thanh Hải có thể do ảnh hưởng của môi trường lao động và hơi khí độc từ quá trình oxy hóa các oxít sắt.
4.1.2.2 Đặc điểm bệnh lý chung về tai mũi họng phân bố theo phân xưởng
Tỷ lệ mắc bệnh lý tai mũi họng (TMH) trong các phân xưởng không có sự chênh lệch lớn, với tỷ lệ mắc bệnh ở các phân xưởng Đào lò là 91,28%, Khai thác 88,74%, Sàng tuyển 93,75%, Vận chuyển 90,55% và các phân xưởng Khác là 91,30% Mặc dù sự khác biệt trong tỷ lệ mắc bệnh giữa các phân xưởng là không đáng kể (p>0,05), nhưng kết quả này vẫn thấp hơn so với tỷ lệ mắc TMH chung trong các phân xưởng luyện kim của Lê Thanh Hải, do điều kiện môi trường lao động trong ngành luyện kim khắc nghiệt hơn nhiều Hơn nữa, tỷ lệ mắc bệnh ở các nhà máy cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ RỬA MŨI HỖ TRỢ TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ VIÊM MŨI XOANG MẠN TÍNH Ở CÔNG NHÂN KHAI THÁC THAN
LÝ VIÊM MŨI XOANG MẠN TÍNH Ở CÔNG NHÂN KHAI THÁC THAN 4.2.1 Đặc điểm chung của đối tượng VMXMT trong nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện bằng cách phân chia đối tượng thành hai nhóm: nhóm NK và nhóm NK+RM, mỗi nhóm gồm 118 bệnh nhân Phương pháp nghiên cứu áp dụng là can thiệp cộng đồng ngẫu nhiên có đối chứng, nhằm đánh giá tình trạng bệnh thông qua các giai đoạn can thiệp.
Tuổi đời trung bình của nhóm NK là 39,32 ± 6,04 tuổi, trong khi nhóm NK+RM là 39,33 ± 5,92 tuổi, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm với p > 0,05 Về tuổi nghề, nhóm NK có trung bình 15,33 ± 4,16 năm, so với 15,69 ± 4,12 năm của nhóm NK+RM, cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Trong nghiên cứu về VMXMT, hai nhóm NK và NK+RM được phân loại thành ba độ: độ I, độ II và độ III Cụ thể, ở độ I, tỷ lệ VMXMT giữa nhóm NK và nhóm NK+RM là 50% Ở độ II, nhóm NK chiếm 51,16%, trong khi nhóm NK+RM là 48,84% Đối với độ III, tỷ lệ của nhóm NK là 47,54% và nhóm NK+RM là 52,46% Tuy nhiên, không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các phân độ VMXMT trong hai nhóm, với p > 0,05.
4.2.2 Kết quả can thiệp trên thang điểm SNOT-22 và thang điểm VAS
4.2.2.1 Thay đổi thang điểm SNOT-22 của nhóm NK+RM và nhóm NK
Trước khi can thiệp, điểm trung bình của nhóm NK+RM là 41,41 ± 11,85, trong khi nhóm NK có điểm trung bình là 40,27 ± 10,52 Sự khác biệt giữa hai nhóm NK+RM và NK không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê với p.
Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm trung bình là 41,7 khi khảo sát 2077 bệnh nhân trước phẫu thuật, phù hợp với nghiên cứu của Hopkins và cộng sự So với nghiên cứu của Pablo PM và Manuela GL, điểm trung bình là 53 trong số 78 bệnh nhân bị VMXMT, cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong mức độ đánh giá.
Sau 3 tháng đánh giá lại thấy mức điểm trung bình của nhóm NK+RM là 29,69 ± 10,05, của nhóm NK là 34,05 ± 9,64 Hai nhóm NK+RM và nhóm
Nhóm NK+RM cho thấy sự giảm điểm rõ rệt hơn so với nhóm NK, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p