Pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.Pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.Pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.Pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.Pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.Pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.Pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Tính cấp thiết của đề tài
Ngành ngân hàng đóng vai trò huyết mạch trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành nghề khác Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm và có thể gây tổn hại lớn nếu không có cơ chế vận hành phù hợp Trong bối cảnh thế giới và khu vực đang biến động với nhiều cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế, các quốc gia đã nhận ra rằng để phục hồi và duy trì sự phát triển kinh tế ổn định, cần phải chú trọng đến ngành ngân hàng.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII nhấn mạnh việc cơ cấu lại thị trường tài chính, tập trung vào hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tài chính, nhằm giải quyết nợ xấu và đảm bảo an toàn nợ công Để thực hiện chủ trương này, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 245/QĐ-TTg vào ngày 01/03/2012, phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn 2011-2015 Tiếp theo, vào ngày 18/4/2013, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 734/QĐ-NHNN để triển khai kế hoạch hành động cho đề án trên Đến ngày 19/07/2017, Thủ tướng Chính phủ đã thông qua Quyết định số 1058/QĐ-TTg, phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020” Những quyết định này thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc tái cấu trúc hệ thống NHTM Đến năm 2020, nhiều NHTM đã đạt mức vốn tự có theo chuẩn Basel II, với ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công các quy định này.
II (phương pháp tiêu chuẩn trở lên); có ít nhất từ 1 đến 2 NHTM nằm trong tốp 100 ngân hàng lớn nhất khu vực châu Á 1
XLTC đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý vốn, nợ xấu và tài sản, quyết định sự thành công của quá trình tái cấu trúc các ngân hàng thương mại Nhà nước đã ban hành nhiều quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện cho hoạt động XLTC diễn ra hiệu quả, hỗ trợ quá trình tái cấu trúc ngân hàng Các quy định chủ yếu được quy định trong các văn bản pháp lý như Luật Các TCTD năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014.
1 Vân Linh (2019), Cuộc đua Basel II trước cột mốc 2020, Website: vietgiaitri.com, cập nhật: 08:12 16/11/2019, https://vietgiaitri.com/cuoc-dua- basel-ii- truoc-cot-moc-2020-20191116i4452200/
Năm 2018, các quy định pháp luật như BLDS 2015, Luật Đất đai năm 2013 và nhiều thông tư của NHNN đã xác định những nội dung cơ bản về xử lý tài chính khi tổ chức tín dụng (TCTD) các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện sáp nhập, hợp nhất hoặc mua lại Các quy định này bao gồm xử lý vốn, nợ xấu và tài sản Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, vẫn tồn tại nhiều bất cập trong các quy định pháp luật về xử lý tài chính, như việc chưa rõ ràng trong tiêu chí định giá cổ phần và cách tính lãi suất đối với khoản tiền gửi Để đảm bảo thành công trong quá trình TCT các NHTM, cần thiết phải thực hiện công tác xử lý tài chính một cách hiệu quả và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu sinh đã quyết định chọn đề tài "Pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam" cho luận án tiến sĩ, nhằm khám phá các quy định pháp lý liên quan đến việc xử lý tài chính trong quá trình tái cấu trúc ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu
- Nội dung Chương 1 của luận án sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện cơ sở lý luận của pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM.
- Nội dung Chương 2 của luận án giúp đánh giá được ưu điểm, nhược điểm thực trạng pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM.
Chương 3 của luận án đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tín dụng tiêu dùng (XLTC) tại các tổ chức tín dụng (TCT) của ngân hàng thương mại (NHTM) và nâng cao hiệu quả thực thi trong thực tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, nghiên cứu sinh xác định luận án có những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
Bài viết này sẽ phân tích và làm rõ bản chất của các khái niệm quan trọng liên quan đến Tổ chức tín dụng (TCT) Ngân hàng thương mại (NHTM), bao gồm khái niệm TCT NHTM, khái niệm xử lý tín dụng (XLTC) trong bối cảnh TCT NHTM, và khái niệm pháp luật về XLTC khi TCT NHTM Việc hiểu rõ các khái niệm này không chỉ giúp nâng cao nhận thức về hoạt động của TCT NHTM mà còn tạo nền tảng vững chắc cho việc áp dụng pháp luật liên quan đến xử lý tín dụng trong lĩnh vực ngân hàng.
- Luận giải những vấn đề lý luận về XLTC khi tái cấu các NHTM, pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM.
- Nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam hiện
- hành về XLTC khi TCT các NHTM.
- Đánh giá thực tiễn thi hành quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về XLTC khi TCT các NHTM.
- Tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới (Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia…) và đề xuất những bài học cho Việt Nam.
Phân tích định hướng và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý nợ xấu (XLTC) tại các tổ chức tín dụng (TCT) ngân hàng thương mại (NHTM) là cần thiết để nâng cao hiệu quả thực thi Việc cải thiện khung pháp lý không chỉ giúp các NHTM quản lý nợ xấu hiệu quả hơn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của hệ thống tài chính Các kiến nghị cần tập trung vào việc điều chỉnh các quy định hiện hành, tăng cường minh bạch trong quy trình xử lý nợ xấu, đồng thời khuyến khích các giải pháp sáng tạo để xử lý nợ xấu một cách hiệu quả.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM ở Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM từ khoảng năm 2010 đến nay.
Phạm vi văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng (TCT) ngân hàng thương mại được nghiên cứu dựa trên các quy định pháp luật Việt Nam trong các lĩnh vực chính như pháp luật tài chính – ngân hàng, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật dân sự, pháp luật thương mại và pháp luật cạnh tranh.
- Đề tài nghiên cứu pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM của một số quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan…
Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về sự phát triển và tái cấu trúc của các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, với một số trường hợp nổi bật như NHTMCP Đệ Nhất, NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội và NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa, đã hợp nhất thành NHTMCP Sài Gòn vào năm 2011 Năm 2012, NHTMCP Nhà Hà Nội sáp nhập vào NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội, trong khi NHTMCP Đại Á hợp nhất với NHTMCP Phát triển TP.HCM Năm 2015, NHTMCP Phát triển Mê Kông sáp nhập vào NHTMCP Hàng Hải, và các ngân hàng như Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Đại Dương, Ngân hàng Dầu khí toàn cầu đã trở thành ngân hàng TNHH Một thành viên thuộc sở hữu 100% vốn Nhà nước với giá mua lại 0 đồng Gần đây, vào năm 2019, NH KEB Hana Bank của Hàn Quốc đã mua lại 15% cổ phần của NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV).
Đối tượng nghiên cứu
- Quan điểm, học thuyết, lý thuyết về TCT NHTM, XLTC khi TCT NHTM.
- Quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước về thực hiện TCT các NHTM ở Việt Nam.
Tình hình tái cấu trúc các ngân hàng thương mại (NHTM) trên thế giới cho thấy nhiều quốc gia đã thành công trong việc này, đặc biệt là những quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với Việt Nam Việc áp dụng các mô hình tái cấu trúc phù hợp đã giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của các NHTM, tăng cường khả năng cạnh tranh và ổn định hệ thống tài chính Việt Nam có thể học hỏi từ những kinh nghiệm này để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc ngân hàng, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
- Tình hình TCT các NHTM ở Việt Nam trong những năm gần đây.
Các quy định pháp luật hiện hành về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam chủ yếu được quy định trong Luật Các TCTD năm 2010, đã được sửa đổi và bổ sung Những quy định này nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và bền vững trong hệ thống tài chính.
2017), Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014, Luật Đầu tư năm 2020, Luật
Năm 2018, cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật quan trọng, bao gồm Bộ luật Dân sự 2015, Luật Đất đai 2013, và các thông tư của Ngân hàng Nhà nước như Thông tư số 04/2010/TT-NHNN về sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng, Thông tư số 36/2014/TT-NHNN quy định giới hạn và tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cũng như Thông tư số 03/2014/TT-NHNN về quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân Thêm vào đó, Thông tư số 06/2017/TT-NHNN đã sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư trước đó, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
- Thực tiễn thi hành quy định pháp luật XLTC khi TCT các NHTM ở nước ta.
- Một số kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan … trong xây dựng pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM.
Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền ban hành và thực thi pháp luật một cách nghiêm ngặt Nhà nước có trách nhiệm xây dựng các quy định pháp luật để định hướng và điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xử lý tài chính khi thực hiện các chính sách của các ngân hàng thương mại.
- Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Luận án áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp, khái quát, quy nạp, diễn dịch, bình luận, lập luận, thu thập số liệu và logic trong suốt quá trình thực hiện Mỗi chương và phần của luận án sẽ tập trung vào những phương pháp khác nhau nhằm đạt hiệu quả tối ưu cho từng nội dung nghiên cứu.
Trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài, nghiên cứu sinh áp dụng các phương pháp phân tích, đánh giá và tổng hợp để khảo sát các công trình nghiên cứu khoa học liên quan Qua đó, nghiên cứu sinh chỉ ra những vấn đề còn bỏ ngỏ mà luận án sẽ làm sáng tỏ.
Trong Chương 1 của luận án, nghiên cứu sinh áp dụng các phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp, khái quát và diễn giải để làm rõ những vấn đề lý luận được đặt ra.
Trong Chương 2 của luận án, nghiên cứu sinh áp dụng các phương pháp phân tích, bình luận, lập luận, diễn giải, đánh giá, so sánh và tổng hợp để làm rõ những thành công cũng như hạn chế trong các quy định pháp luật về xử lý tình huống tín dụng tại các tổ chức tín dụng thương mại, đồng thời đánh giá thực tiễn thi hành các quy định này.
Trong Chương 3, tác giả áp dụng các phương pháp bình luận, tổng hợp, suy luận logic, so sánh và lập luận để xác định định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng thương mại.
Những điểm mới của luận án
- Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về XLTC khi TCT các NHTM, pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM.
- Luận án góp phần làm rõ khái niệm XLTC khi TCT các NHTM.
- Luận án phân tích, giải mã nội hàm của khái niệm pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM.
- Luận án đánh giá ưu điểm, nhược điểm của pháp luật hiện hành về XLTC khi TCT các NHTM ở Việt Nam và thực tiễn thi hành.
- Luận án phân tích các định hướng đặt ra nhằm hoàn thiện pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM.
- Luận án đề xuất các giải pháp mang tính khoa học nhằm mục đích hoàn thiện pháp luật vềXLTC khi TCT các NHTM ở Việt Nam.
Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án này trình bày nhiều vấn đề lần đầu tiên được nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống, góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện cơ sở lý luận về xử lý tín dụng tiêu cực (XLTC) trong các tổ chức tín dụng (TCT) ngân hàng thương mại (NHTM) và pháp luật liên quan đến XLTC tại Việt Nam.
Luận án này có giá trị thực tiễn cao, có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật liên quan đến xử lý tín dụng tiêu cực tại các ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam Nó cũng sẽ hỗ trợ các NHTM trong việc thực hiện các quy trình tín dụng, đồng thời là nguồn tài liệu quý giá cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu về tín dụng tại các NHTM và pháp luật liên quan đến xử lý tín dụng.
Đóng góp của luận án không chỉ mang lại giá trị cho khoa học pháp lý mà còn cung cấp nguồn tài liệu quý báu cho các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học tài chính, ngân hàng và tiền tệ.
Kết cấu của luận án
- Ngoài Mục lục, Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được kết cấu như sau:
- Phần tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử lý tài chính và pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại và nâng cao hiệu quả thực thi
- PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Những công trình liên quan đến khái niệm tái cấu trúc ngân hàng thương mại, xử lý tài chính khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại
Khi nghiên cứu pháp luật về xử lý nợ xấu (XLTC) trong trường hợp tổ chức tín dụng (TCT) các ngân hàng thương mại (NHTM), điều quan trọng đầu tiên là làm rõ khái niệm TCT NHTM và XLTC Việc không xác định chính xác hai khái niệm này sẽ dẫn đến khó khăn trong việc hiểu và áp dụng các nội dung pháp luật liên quan đến XLTC trong TCT NHTM.
Trong nghiên cứu về TCT NHTM, tác giả kế thừa những thành công từ các công trình khoa học trước đó, đồng thời phân tích và trình bày quan điểm của một số nhà khoa học nổi bật về khái niệm này Mỗi nghiên cứu đều có những nhận định riêng, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về TCT NHTM.
Trong bài nghiên cứu “Tiếp tục TCT hệ thống ngân hàng Việt Nam” trên Tạp chí Khoa học đào tạo ngân hàng số 128/2013, Lê Thị Tuấn Nghĩa và Phạm Mạnh Hùng đã trình bày quan điểm của Ngân hàng Thế giới về TCT ngân hàng Theo đó, TCT ngân hàng bao gồm các biện pháp phối hợp nhằm duy trì hệ thống thanh toán quốc gia và khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng, đồng thời giải quyết các vấn đề tồn tại trong hệ thống tài chính gây ra khủng hoảng Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh rằng TCT ngân hàng không chỉ áp dụng cho các ngân hàng thương mại mà còn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng Khái niệm này giúp các nhà nghiên cứu, bao gồm cả nghiên cứu sinh, hiểu rõ hơn về TCT ngân hàng và TCT NHTM, từ đó xác định nhiệm vụ cấp bách trong việc duy trì hệ thống thanh toán và cải thiện khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng.
Trong bài viết này, tác giả Lê Thị Tuấn Nghĩa và Phạm Mạnh Hùng đã trình bày quan điểm của Claudia Dziobek (1998) và Ceyla Pazarbasioglu về TCT ngân hàng, nhấn mạnh rằng TCT ngân hàng nhằm nâng cao hiệu suất hoạt động, phục hồi khả năng thanh toán và sinh lời, đồng thời cải thiện năng lực của toàn hệ thống ngân hàng Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các hoạt động cụ thể của TCT ngân hàng bao gồm TCT tài chính, TCT hoạt động và giám sát an toàn, trong đó TCT tài chính đóng vai trò quan trọng Nhận thức này giúp xác định mối quan hệ giữa XLTC và TCT NHTM, với XLTC thành công đóng góp lớn vào quá trình phát triển.
Trong bài viết “TCT hệ thống NHTM ở Việt Nam” trên Tạp chí Phát triển và hội nhập tháng 10/2013, tác giả Vũ Văn Thực định nghĩa TCT NHTM là quá trình thay đổi các yếu tố như nguồn vốn, tài sản, tài chính, cơ cấu tổ chức và quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM TCT NHTM có thể được thực hiện với quy mô lớn hoặc nhỏ, tùy thuộc vào từng ngân hàng cụ thể Mục tiêu cuối cùng của TCT NHTM là đảm bảo sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả trong hoạt động của các NHTM.
Trong cuốn sách "Tổ chức tín dụng ngân hàng thương mại", tác giả Lê Trung Thành đã phân tích định nghĩa về TCT NHTM theo chuẩn mực Basel II, do Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng đưa ra Theo đó, TCT NHTM bao gồm việc điều chỉnh các yếu tố như cấu trúc chiến lược, sở hữu, quản trị, tài chính và hoạt động, nhằm tạo ra một cấu trúc tổng thể phù hợp với các quy định của Hiệp ước Basel II Điều này cho thấy rằng Ủy ban Basel đã xây dựng định nghĩa TCT NHTM dựa trên các tiêu chuẩn mà họ thiết lập, và các quốc gia thành viên cần thực hiện những quy định này.
TCT NHTM cần phải quan tâm tới các chuẩn mực này như một nghĩa vụ
Trong Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2014, tác giả Nguyễn Quỳnh Hoa đã đưa ra quan điểm về Tổ chức Cải cách Tài chính Ngân hàng Thương mại (TCT NHTM) nhằm khắc phục các khiếm khuyết của hệ thống ngân hàng, từ đó duy trì sự phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả trong chức năng trung gian tài chính Tác giả nhấn mạnh rằng TCT NHTM không chỉ cần thiết khi có khiếm khuyết trong hệ thống, mà còn cần được xem xét trong điều kiện hoạt động bình thường để nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Điều này đặt ra câu hỏi liệu TCT NHTM có nên được thực hiện ngay cả khi hệ thống ngân hàng đang hoạt động ổn định hay không.
John Hawkins và Philip Turner (1999) trong bài viết "Bank restructuring in practice: An overview" đã phân tích tổng quát quá trình tái cấu trúc ngân hàng thương mại (TCT NHTM) Các tác giả trình bày các lập luận nhằm làm rõ sự cần thiết của TCT NHTM, bản chất của quá trình này, cùng với những nội dung quan trọng cần thiết trong TCT NHTM Những thông tin này có giá trị tham khảo lớn cho nghiên cứu sinh, giúp họ hiểu rõ hơn về bản chất và các hoạt động chủ yếu trong quá trình TCT NHTM.
Sau khi xem xét các quan điểm của các nhà khoa học trước đây về khái niệm TCT NHTM, nghiên cứu sinh nhận thấy rằng mặc dù cách diễn đạt của mỗi định nghĩa có sự khác biệt, nhưng nội dung cơ bản vẫn có nhiều điểm tương đồng.
TCT NHTM là quá trình sửa chữa và cải thiện các yếu kém nhằm phát triển và hoàn thiện ngân hàng thương mại Quá trình này diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, không phải liên tục trong suốt hoạt động của các NHTM.
- TCT NHTM bao gồm nhiều hoạt động như: TCT tài chính, TCT hoạt động sản xuất kinh doanh, TCT nhân sự…
- Mục đích của TCT là làm cho các NHTM hoạt động hiệu quả hơn, an toàn hơn.
Dựa trên các nghiên cứu trước đây về khái niệm Tổ chức tín dụng ngân hàng thương mại (TCT NHTM), nghiên cứu sinh sẽ phát triển và trình bày khái niệm TCT NHTM độc đáo của mình.
- Thứ hai, về khái niệm XLTC khi TCT NHTM
Khái niệm XLTC trong TCT NHTM vẫn chưa được nghiên cứu sâu sắc, vì chưa có công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề này một cách đầy đủ Tác giả dự kiến sẽ phân tích các khái niệm thành phần như Xử lý, Tài chính và XLTC, sau đó kết hợp với khái niệm TCT NHTM đã được phân tích trước đó để đưa ra định nghĩa rõ ràng về XLTC trong bối cảnh TCT NHTM.
Khái niệm "xử lý" sẽ được nghiên cứu sinh tìm hiểu trong Từ điển Tiếng Việt, vì đây là một thuật ngữ phổ thông, không thuộc về chuyên ngành nào cụ thể.
Tài chính là một phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị, như được phân tích trong bài viết “Khái niệm về tài chính” của Đặng Thị Việt Đức và Phan Anh Tuấn trên website quantri.vn Hai tác giả nhấn mạnh rằng tài chính không chỉ bao gồm các quỹ tiền tệ mà còn từ những tài sản hiện vật có thể chuyển hóa thành tiền Do đó, khái niệm tài chính cần được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp: nghĩa rộng là quá trình phân phối của cải vật chất, còn nghĩa hẹp là tiền tệ và tài sản hiện vật có khả năng chuyển đổi thành tiền Trong nghiên cứu về “Pháp luật về XLTC khi TCT NHTM ở Việt Nam”, khái niệm tài chính sẽ được áp dụng theo nghĩa hẹp.
Trong Luận án tiến sĩ Kinh tế “Giải pháp TCT tài chính các doanh nghiệp trong ngành thép ở Việt Nam” của tác giả Đặng Phương Mai, TCT tài chính được định nghĩa là quá trình thay đổi căn bản cấu trúc tài chính của doanh nghiệp, nhằm thiết lập một cấu trúc phù hợp với từng giai đoạn phát triển và sự biến đổi của môi trường kinh doanh Mục tiêu chính của quá trình này là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Những công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về xử lý vốn khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại
Khi nghiên cứu về pháp luật xử lý vốn tại các TCT NHTM, tác giả nhận thấy rằng chưa có nghiên cứu nào đề cập đến lý luận này Do đó, tác giả sẽ phân tích và trình bày quan điểm riêng của mình về vấn đề này Nội dung sẽ được chia thành hai nhóm chính: pháp luật về xử lý vốn chủ sở hữu và pháp luật về xử lý vốn huy động tại các TCT NHTM.
Nhiều công trình khoa học của các tác giả trước đây đã nghiên cứu về thực trạng pháp luật liên quan đến việc xử lý vốn tại các tổ chức tín dụng ngân hàng thương mại (TCT NHTM) Các nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về những vấn đề pháp lý hiện hữu trong lĩnh vực này.
- Berger, A, Deyoung, R., Flannery, M., Lee, D., & Oztekin, O., 2008 How do large banking organizations manage their capital ration? Journal of Financial Servicearch.
Bài viết này phân tích tỷ lệ vốn của các ngân hàng lớn trên thế giới, nhằm rút ra bài học kinh nghiệm từ các ngân hàng này về vấn đề tỷ lệ vốn Nghiên cứu sinh sẽ xem xét và đánh giá những kiến thức quý báu từ các ngân hàng để áp dụng một cách có chọn lọc.
- 4 Ratha, D., Mohapatra, S and P Suttle, 2003 Corporate Financial Structures and Performance in Developing Countries World Bank Global Development Finance 2003, Tr109 – 122.
- 5 Berger, A, Deyoung, R., Flannery, M., Lee, D., & Oztekin, O., 2008 How do large banking organizations manage their capital ration? Journal of Financial Servicearch, 34, Tr 123 – 149.
- 6 Zeitun, R., 2012 Determinants of Islamic and Conventional Banks Performance In Gcc Counties Using Panel Data Analysis Global Economy and Finance journal, 5(1) Tr 53 - 72
- nghiên cứu sinh đánh giá, đề xuất về việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam.
- John Armour – Center for Business Research, University of Cambridge:
Trong bài viết "Vốn pháp định: Một khái niệm lỗi thời?", tác giả phân tích các vấn đề liên quan đến vốn pháp định đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Ông nghiêng về quan điểm cần bỏ quy chế vốn pháp định Nghiên cứu sinh sẽ xem xét tính cần thiết của quy định này trong bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam và đặc thù của ngành ngân hàng, nhằm đánh giá liệu có cần thiết duy trì quy định về vốn pháp định hay không.
Trong bài viết "Những lợi ích và hạn chế của những thương vụ thâu tóm và sáp nhập ngân hàng" trên website nghiencuuphapluat.vn, ThS Hồ Tuấn Vũ đã nêu rõ rằng trong quá trình sáp nhập, quyền lợi và ý kiến của cổ đông thiểu số thường bị bỏ qua do số phiếu của họ không đủ để phủ quyết các nghị quyết tại Đại hội đồng cổ đông Khi ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM) chuyển đổi thành tổ chức cổ phần (TCT NHTM), tỷ lệ cổ phiếu của cổ đông thiểu số càng giảm, dẫn đến việc họ càng ít có cơ hội thể hiện quan điểm trong các cuộc họp Quan điểm này của tác giả là cơ sở cho nghiên cứu về xử lý vốn chủ sở hữu và bảo đảm quyền lợi của cổ đông trong các ngân hàng thương mại thực hiện TCT.
Trong bài viết “Quyền của cổ đông lớn của bên sáp nhập trong quá trình sáp nhập và sáp nhập từ một số thương vụ sáp nhập NHTM,” tác giả Nguyễn Minh Hằng và Lương Linh Chi đã phân tích trường hợp sáp nhập giữa NHTM cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) và NHTM cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB) năm 2011 Sự kiện này không chỉ nhằm chấm dứt hoạt động của Habubank mà còn tác động mạnh mẽ đến quyền lợi của các cổ đông, đặc biệt là cổ đông lớn Nghiên cứu sinh sẽ sử dụng kết quả nghiên cứu này để làm minh chứng cho phân tích về ảnh hưởng của quá trình TCT NHTM đến quyền lợi của cổ đông Để giải quyết những vấn đề phát sinh, nghiên cứu sinh sẽ đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến xử lý vốn khi TCT NHTM, nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông.
Trong bài viết “Hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp” của TS Nguyễn Thị Gấm trên thitruongtaichinhtiente.vn, có quan điểm cho rằng việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại các ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước, đặc biệt là các NHTM lớn, có thể ảnh hưởng đến tính an toàn của ngân hàng và hệ thống tài chính quốc gia Nghiên cứu sinh cần tìm hiểu tác động của việc nhà đầu tư nước ngoài trở thành cổ đông lớn tại các NHTM, đồng thời xem xét các quy định pháp luật cần thiết để đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng nếu cho phép đầu tư nước ngoài.
- Trong luận văn tiến sĩ Luật học: “Pháp luật về mua lại và sáp nhập NHTM ở
Trong bài viết "Việt Nam hiện nay" năm 2016 của tác giả Phạm Minh Sơn, Học viện Khoa học xã hội, đã phân tích sâu sắc cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam Tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi trong lĩnh vực này Nghiên cứu sinh đã tiếp thu nhiều lập luận từ tác giả, đặc biệt là về quyền và nghĩa vụ của NHTM đối với các chủ thể liên quan như người gửi tiền, người mua giấy tờ có giá, và người cho NHTM vay trong quá trình mua lại và sáp nhập Qua đó, nghiên cứu sinh khẳng định giới hạn quyền và nghĩa vụ của NHTM, nhấn mạnh rằng NHTM chỉ có nghĩa vụ thông báo cho các chủ thể mà không cần lấy ý kiến về việc mua lại, sáp nhập hay hợp nhất.
Sau khi phân tích các công trình khoa học liên quan đến pháp luật xử lý vốn tại các TCT NHTM, nghiên cứu sinh rút ra một số nhận xét quan trọng về vấn đề này.
Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng cần thiết phải có các giải pháp để bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong các TCT NHTM Nội dung này sẽ được nghiên cứu sinh kế thừa và phát triển dựa trên những thành công của các công trình nghiên cứu trước đó.
Nghiên cứu đã chỉ ra rõ ràng giới hạn quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại (NHTM) đối với các chủ thể như người gửi tiền, người mua giấy tờ có giá, và người cho NHTM vay trong bối cảnh mua bán, sáp nhập, và hợp nhất NHTM.
Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào thực hiện phân tích toàn diện và sâu sắc về pháp luật xử lý vốn tại các tổ chức tín dụng thương mại (TCT NHTM) Điều này cho thấy sự cần thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu hơn để làm rõ các quy định và nội dung liên quan.
Khái niệm xử lý vốn tại TCT NHTM vẫn chưa được làm rõ, bao gồm cả cơ sở lý luận pháp luật liên quan và các quy định về xử lý vốn chủ sở hữu Đặc biệt, hiện nay chưa có nghiên cứu nào phân tích sâu về pháp luật xử lý vốn huy động tại TCT NHTM, điều này dẫn đến nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ trong lĩnh vực này.
Lãi suất của vốn huy động tại TCT NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền Nếu không đảm bảo, người gửi tiền có thể ồ ạt rút tiền, gây ra hệ lụy nghiêm trọng không chỉ cho TCT mà còn cho toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia Những vấn đề này sẽ được nghiên cứu sinh làm rõ trong luận án của mình.
Những công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về xử lý nợ xấu khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại
Khoản nợ tại ngân hàng thương mại (NHTM) được hiểu là số tiền mà khách hàng vay, được phân loại thành nợ thông thường và nợ xấu Nợ thông thường là khoản nợ đang được thanh toán đúng hạn theo hợp đồng tín dụng, trong khi nợ xấu là những khoản mà khách hàng không còn khả năng trả gốc và lãi Khi NHTM tiến hành tái cấu trúc (TCT), nợ thông thường thường không thay đổi, nhưng nợ xấu cần được xử lý để đảm bảo sự thành công trong tái cấu trúc và hiệu quả hoạt động của ngân hàng Luận án sẽ tập trung vào nội dung pháp luật liên quan đến việc xử lý nợ xấu trong quá trình TCT của NHTM.
- Bài viết: “Tác động của dịch Covid-19 đến hoạt động kinh doanh của các
Bài viết của TS Đặng Hà Giang trên Tạp chí Tài chính (Kỳ 2 - Tháng 6/2020) đã chỉ ra rằng, vào năm 2020, dịch bệnh Covid-19 đã gây ra tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế, dẫn đến việc tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM) gia tăng đáng kể Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng nợ xấu là một thách thức lớn mà các TCT NHTM phải đối mặt, đồng thời quá trình xử lý nợ xấu còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố kinh tế - xã hội khác.
Bài viết của ThS Phan Huy Đức, được đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2013, phân tích mô hình AMC trong việc giải quyết nợ xấu tại các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc và Malaysia Mô hình này đã chứng tỏ hiệu quả trong việc xử lý nợ xấu, cung cấp tài liệu quý giá cho nghiên cứu sinh nhằm phân tích và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, đặc biệt trong việc giải quyết nợ xấu trong quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng ngân hàng thương mại.
Trong bài viết “AMC các ngân hàng có đang hoạt động hiệu quả?” trên vnfinance.vn, tác giả Hà Phương chỉ ra những bất cập trong hoạt động của các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của NHTM, nhấn mạnh rằng nhiều công ty này ít tham gia vào thị trường mua bán nợ, dẫn đến việc chưa xử lý nợ xấu một cách hiệu quả Bài viết phân tích những khó khăn trong việc xử lý nợ xấu tại các TCT NHTM, chủ yếu do cơ chế pháp luật chưa tạo ra môi trường thuận lợi Tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty này Đồng thời, trong bài viết “Nợ xấu và VAMC” trên tapchitaichinh.vn, tác giả Anh Khoa đã nêu rõ vai trò của Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) trong việc xử lý nợ xấu, cho rằng việc “tạm nhốt” nợ xấu tại VAMC đã giúp các TCTD có thêm thời gian và nguồn lực để giải quyết các khoản nợ vấn đề khác Kết quả là nhiều ngân hàng đã có thể mua lại nợ xấu đã bán cho VAMC, hoặc hoàn thành việc trích lập dự phòng Những phân tích này là tài liệu tham khảo quý giá cho các nghiên cứu sinh trong việc đề xuất giải pháp xử lý nợ xấu tại các NHTM.
Trong bài viết "Tìm giải pháp để tái cơ cấu, xử lý nợ xấu các ngân hàng cần đi vào chiều sâu" của tác giả Anh Minh, đăng trên Báo điện tử Chính phủ ngày 30/09/2020, tác giả đã phân tích thực trạng xử lý nợ xấu và tái cơ cấu các ngân hàng thương mại (TCT NHTM) tại Việt Nam Bài viết chỉ ra những vướng mắc và tồn tại trong quá trình này, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục khó khăn, góp phần nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu và thúc đẩy thành công của TCT NHTM Nghiên cứu sinh có thể tham khảo nhiều ý tưởng quý giá từ tác giả Anh Minh để phân tích thực trạng pháp luật xử lý nợ xấu và đề xuất hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Trong bài viết “Hiện trạng thị trường mua bán nợ Việt Nam và chính sách phát triển” trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 8/2013, Đào Duy Huân chỉ ra rằng các ngân hàng thương mại (NHTM) không muốn bán nợ cho cá nhân hay tổ chức do lo ngại về việc bảo mật thông tin kinh doanh Việc xử lý nợ xấu thông qua việc bán nợ cho bên ngoài tiềm ẩn nguy cơ lộ thông tin quan trọng của NHTM Do đó, nghiên cứu sinh cần tìm hiểu và đề xuất giải pháp cho vấn đề này.
Trong bài viết “Bàn về xử lý nợ xấu” trên Tạp chí Ngân hàng số 23 (tháng 1/2017), TS Tôn Thanh Tâm đã phân tích phương thức hoán đổi nợ xấu thành cổ phần, đưa ra ví dụ thực tế từ một số ngân hàng thương mại (NHTM) như Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội và NHTM CP Công thương Việt Nam, với các trường hợp cụ thể như hoán đổi nợ thành vốn góp vào CTCP thuỷ sản Bình An và tham gia cổ phần hoá các cảng thuộc Vinalines Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) cũng thực hiện hoán đổi nợ với 12,6 triệu cổ phần tại Công ty vận tải biển Nghiên cứu sinh nhận định rằng phương pháp này có những ưu điểm nhất định, giải thích lý do nhiều NHTM lựa chọn áp dụng Những phân tích này được sử dụng làm minh chứng cho luận án về pháp luật liên quan đến hoán đổi nợ xấu thành vốn góp trong ngành ngân hàng.
Các bài viết như “Vốn hóa nợ: Con dao hai lưỡi” và “Chuyển nợ thành vốn góp: Chỉ nên là giải pháp tình thế” đã chỉ ra rằng việc chuyển nợ xấu thành vốn góp đang mang lại hiệu quả trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD Tuy nhiên, hoạt động này vẫn thiếu các quy định pháp luật điều chỉnh, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các bên liên quan Do đó, nghiên cứu sinh sẽ đề xuất các giải pháp pháp lý nhằm quản lý và tăng cường tính an toàn cho hoạt động này.
Sau khi nghiên cứu các công trình khoa học liên quan đến pháp luật xử lý nợ xấu tại các Tổ chức tín dụng thương mại (TCT NHTM), nghiên cứu sinh đã đưa ra một số nhận xét quan trọng về vấn đề này.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra những phương thức hiệu quả để các ngân hàng thương mại (NHTM) xử lý nợ xấu, trong đó hai phương thức chính là mua bán nợ xấu và hoán đổi nợ xấu thành vốn góp Bên cạnh đó, một số nghiên cứu cũng đã đánh giá các khía cạnh pháp lý liên quan đến việc xử lý nợ xấu trong các tổ chức tín dụng NHTM Những kết quả này sẽ được các nghiên cứu sinh tham khảo khi phân tích nội dung pháp luật về xử lý nợ xấu trong lĩnh vực ngân hàng.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu về giải pháp xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại (NHTM), nhưng chưa có công trình nào đi sâu và hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan đến việc xử lý nợ xấu khi tổ chức tín dụng (TCT) là NHTM Nhiều vấn đề quan trọng vẫn chưa được giải quyết, bao gồm khái niệm và nội dung pháp luật về xử lý nợ xấu trong bối cảnh TCT NHTM, cũng như việc đánh giá những ưu điểm và tồn tại trong thực trạng quy định pháp luật hiện nay Những vấn đề này sẽ được nghiên cứu sinh làm rõ trong luận án của mình.
Những công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về xử lý tài sản khi tái cấu trúc các ngân hàng thương mại
Nghiên cứu sinh đã tham khảo bài viết của Trần Thị Bảo Anh về quy định pháp luật liên quan đến định giá tài sản trí tuệ trong các thương vụ mua lại và sáp nhập NHTM, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 11/2018 Từ bài viết, nghiên cứu sinh đã học hỏi được phương pháp định giá tài sản sở hữu trí tuệ, nhưng nhận thấy phương pháp này chủ yếu mang tính chất định tính Điều này phù hợp với đặc tính của tài sản sở hữu trí tuệ, tuy nhiên, việc định giá tài sản vô hình của NHTM trong các thương vụ như mua bán, sáp nhập, hợp nhất, kiểm soát đặc biệt lại gặp khó khăn do tình trạng hoạt động yếu kém của NHTM TCT, dẫn đến giá trị của các yếu tố như thương hiệu và bằng sáng chế thường rất thấp.
- Trong Luận văn thạc sĩ luật học: “Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các
NHTM theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn NHTM cổ phần Bản Việt” – năm 2019,
Học viện Khoa học xã hội, qua tác phẩm của Nguyễn Như Quỳnh, đã phân tích lý luận và thực trạng pháp luật liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm, với minh chứng từ thực tiễn của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bản Việt (Viet Capital Bank) Nghiên cứu sinh đã áp dụng những đánh giá này để khảo sát tình hình xử lý tài sản bảo đảm tại các ngân hàng thương mại hiện nay Từ đó, nghiên cứu sinh nhận diện những bất cập và vướng mắc mà các ngân hàng gặp phải, nhằm đề xuất các giải pháp phù hợp để cải thiện tình hình.
- Trong luận văn tiến sĩ Luật học: “Pháp luật về mua lại và sáp nhập NHTM ở
Trong bài viết "Việt Nam hiện nay" năm 2016 của tác giả Phạm Minh Sơn tại Học viện Khoa học xã hội, đã phân tích về việc chuyển giao toàn bộ tài sản của ngân hàng thương mại (NHTM) cho một tổ chức mới trong trường hợp mua bán, sáp nhập Bài viết cung cấp thông tin quý giá cho nghiên cứu sinh trong việc xác định giới hạn trách nhiệm của NHTM đối với chủ nợ trong các giao dịch này Cụ thể, NHTM chỉ cần thông báo cho chủ nợ, thường là chủ sở hữu tài sản bảo đảm, mà không cần phải xin ý kiến của họ trong quá trình mua bán, sáp nhập, hợp nhất và kiểm soát đặc biệt.
Các bài viết “Khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm của TCTD” và “Các vướng mắc phát sinh từ thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm và kiến nghị” đã chỉ ra những khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm tại các tổ chức tín dụng, đặc biệt là ngân hàng thương mại Những khó khăn này có thể do chính sách và pháp luật của nhà nước hoặc do sự thiếu hợp tác trong thực thi từ các cơ quan nhà nước Dựa trên những bất cập này, nghiên cứu sinh đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực xử lý tài sản bảo đảm.
Bài viết "Trình tự xử lý tài sản thế chấp tại các TCTD" đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 29/09/2020 nêu rõ những khó khăn trong việc xử lý tài sản thế chấp của bên thứ ba để bảo lãnh khoản vay tại các TCTD Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm và điều kiện mà TCTD được phép xử lý tài sản Nghiên cứu sinh đã tiếp thu nhiều nội dung từ bài viết để đánh giá sự thiếu hoàn thiện của pháp luật liên quan đến việc xử lý tài sản tại các ngân hàng thương mại.
- Như vậy, sau khi nghiên cứu, đánh giá những công trình nghiên cứu khoa học nói trên, nghiên cứu sinh nhận thấy rằng:
Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào việc xử lý tài sản trong điều kiện hoạt động bình thường của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là ngân hàng thương mại Tuy nhiên, vẫn thiếu hụt các nghiên cứu đánh giá về việc xử lý tài sản trong các trường hợp mua bán, hợp nhất, sáp nhập và kiểm soát đặc biệt ngân hàng thương mại.
Chưa có nghiên cứu khoa học nào thực hiện một cách riêng biệt và toàn diện về việc xử lý tài sản khi TCT các NHTM Đây là điểm mới nổi bật của luận án này so với các công trình nghiên cứu trước đây.
Cơ sở lý thuyết của đề tài
Lý thuyết nghiên cứu
Lý thuyết trong ngành tài chính – ngân hàng, đặc biệt là các học thuyết và quan điểm về Tổ chức tín dụng thương mại (TCT NHTM) và xử lý tài chính (XLTC), giúp giải thích những vấn đề quan trọng như đặc điểm, cấu trúc, nguyên lý hoạt động cơ bản, sự liên kết và vai trò của NHTM đối với nền kinh tế Những lý thuyết này có tính phổ biến cao, đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về chức năng và tác động của NHTM trong hệ thống tài chính.
- nghiên cứu sinh thực hiện luận án dưới góc độ luật học nhưng vẫn có thể tiếp cận.
Lý thuyết kinh tế học đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến thị trường tài chính – tiền tệ, đặc biệt là trong quá trình xử lý tín dụng tại các ngân hàng thương mại Các quy luật của thị trường như cung - cầu và quy luật tài chính, được coi là huyết mạch của nền kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng, đồng thời cũng dễ bị tác động bởi biến động kinh tế - xã hội Các nhà nghiên cứu pháp luật nhận thấy rằng việc xây dựng và thực thi pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ yếu tố kinh tế, do đó, pháp luật liên quan đến xử lý tín dụng tại các ngân hàng thương mại cũng không nằm ngoài quy luật này.
Lý thuyết tự do thỏa thuận trong góp vốn thành lập doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông, đặc biệt là trong các TCT NHTM Nó giúp ngăn chặn tình trạng cổ đông lớn thâu tóm quyền lực, từ đó bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ Ngoài ra, lý thuyết này còn được áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền lợi của các NHTM khi tham gia vào TCT thông qua hình thức mua bán, sáp nhập và hợp nhất.
Lý thuyết hợp đồng được áp dụng nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng, đặc biệt là người gửi tiền, khi ngân hàng thực hiện thủ tục chuyển nhượng Khách hàng có quyền thỏa thuận các điều khoản liên quan đến quyền lợi của mình trong quá trình ngân hàng tiến hành chuyển nhượng tài sản.
Lý thuyết an toàn hệ thống tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự an toàn của nền kinh tế quốc gia Hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) rất nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế Do đó, các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức tín dụng NHTM cần được xây dựng và thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết này để đảm bảo tính hiệu quả và an toàn cho hệ thống tài chính.
Luận án được xây dựng dựa trên lý luận về nhà nước và pháp luật từ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê-nin, kết hợp với các chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến TCT NHTM và XLTC Những quan điểm này đã được nêu rõ trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đây là những tư tưởng chính trị và pháp lý quan trọng cho nghiên cứu sinh trong việc thực hiện đề tài luận án.
Trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh đã tiếp thu có chọn lọc các quan điểm và kinh nghiệm từ các quốc gia khác về Tổ chức tín dụng ngân hàng thương mại (TCT NHTM) và xử lý tín dụng (XLTC) Đặc biệt, nghiên cứu tập trung vào kinh nghiệm XLTC của những quốc gia thành công trong TCT NHTM và có nền kinh tế tương đồng với Việt Nam Qua đó, nghiên cứu sinh sẽ đề xuất những bài học hữu ích cho Việt Nam trong việc cải thiện và phát triển hệ thống ngân hàng.
Câu hỏi nghiên cứu
TCT NHTM, hay còn gọi là Tổ chức tín dụng ngân hàng thương mại, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính XLTC, hay Xử lý tín dụng, khi TCT NHTM không chỉ là một hoạt động đơn lẻ mà là một phần thiết yếu trong toàn bộ quá trình hoạt động của tổ chức này Việc hiểu rõ về XLTC trong ngữ cảnh của TCT NHTM giúp chúng ta nắm bắt được cách thức hoạt động và quản lý tín dụng trong ngân hàng, từ đó nâng cao hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ tài chính.
- Thứ hai, nhà nước can thiệp như thế nào để đảm bảo quá trình XLTC khi TCT
NHTM đã diễn ra thành công, bảo vệ quyền lợi của cổ đông và khách hàng, đồng thời đảm bảo an toàn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại Điều này cũng góp phần bảo vệ sự ổn định của nền tài chính quốc gia.
Pháp luật về xử lý tín dụng tiêu dùng (XLTC) khi tổ chức tín dụng (TCT) ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong hoạt động tín dụng Cách tiếp cận nội dung của pháp luật về XLTC cần được xây dựng dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các TCT NHTM trong việc quản lý rủi ro tín dụng Việc áp dụng các quy định pháp lý một cách hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.
NHTM được xây dựng, hoàn thiện và thực thi trên cơ sở những nguyên tắc nào?
- Thứ tư, thực trạng pháp luật về XLTC khi TCT NHTM ở Việt Nam như thế nào?
Các quy định hiện nay đã được hoàn thiện và đủ mạnh để đảm bảo quá trình xử lý tình huống tín dụng của các tổ chức tín dụng ngân hàng thương mại diễn ra thuận lợi, bảo vệ quyền lợi của cổ đông và khách hàng, đồng thời đảm bảo an toàn cho nền tài chính quốc gia.
Vào thứ năm, việc hoàn thiện pháp luật về xử lý tín dụng tiêu cực (XLTC) đối với tổ chức tín dụng ngân hàng thương mại (TCT NHTM) cần tuân theo những định hướng cụ thể để nâng cao hiệu quả thực thi trong thực tiễn Cần xác định các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về XLTC và tìm kiếm các biện pháp để cải thiện quy trình thực thi pháp luật, từ đó đảm bảo sự hiệu quả trong quản lý và giám sát hoạt động của TCT NHTM.
Các giả thuyết nghiên cứu
Hoạt động xử lý nợ xấu (XLTC) đóng vai trò then chốt trong quá trình tái cấu trúc ngân hàng thương mại (TCT NHTM), vì nếu XLTC không thành công, toàn bộ quá trình TCT cũng sẽ thất bại Tuy nhiên, đây là một quá trình phức tạp, liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của nhiều bên như ngân hàng thương mại, cổ đông và khách hàng Do đó, cần thiết có một hệ thống pháp luật mạnh mẽ để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình này.
XLTC tập trung vào ba hoạt động chính: xử lý vốn, xử lý nợ xấu và xử lý tài sản, mặc dù sự phân chia này chỉ mang tính tương đối Các bộ phận của XLTC trong các TCT các NHTM có sự tương tác chặt chẽ với nhau, với sự thành công của một hoạt động tác động tích cực đến các hoạt động khác và ngược lại.
XLTC cần được tích hợp một cách đồng bộ với các hoạt động khác trong quá trình TCT của NHTM, bao gồm TCT nhân sự và TCT hoạt động kinh doanh, nhằm đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả trong quản lý.
- Thứ tư, XLTC phải giúp cho các NHTM hoạt động hiệu quả hơn góp phần tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
-KẾT LUẬN PHẦN TỔNG QUAN
1 Trong thời gian qua, vấn đề TCT NHTM, XLTC khi TCT NHTM đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế Đã có nhiều bài tạp chí, đề tài, sách, bài hội thảo nghiên cứu về nội dung này Mỗi công trình nghiên cứu khoa học tiếp cận dưới góc độ khác nhau nhưng nhìn chung vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm hàng đầu đó là khái niệm TCT NHTM; mua bán, sáp nhập, hợp nhất NHTM; xử lý nợ xấu; xử lý tài sản bảo đảm.
2 Khi đánh giá tình hình nghiên cứu, nghiên cứu sinh nhận thấy các công trình liên quan tới đề tài luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản gồm phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin; phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo sát thực tế, suy luận logic, đánh giá, bình luận, quy nạp… Những phương pháp này được các nhà nghiên cứu vận dụng khéo léo, hợp lý Nghiên cứu sinh cũng kế thừa những phương pháp này trong quá trình nghiên cứu luận án.
3 Qua tìm hiểu những công trình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án, nghiên cứu sinh nhận thấy các công trình này đã giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn như sau:
- Đưa ra các quan điểm riêng về TCT NHTM, các hoạt động trong TCT NHTM;
- Đánh giá được một số nội dung pháp luật về xử lý vốn, xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của các NHTM.
- Chỉ ra được nhiều khó khăn của NHTM trong xử lý vốn, xử lý nợ xấu, xử lý tài sản.
4 Nhìn chung, các công trình liên quan tới đề tài của luận án đã thu được nhiều thành tựu và là nguồn tài liệu quý giá cho nghiên cứu sinh khi nghiên cứu luận án của mình Tuy nhiên, có thể khẳng định chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, sâu sắc vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật về XLTC khi TCT các NHTM Các công trình nghiên cứu tập trung vào XLTC trong điều kiện NHTM hoạt động bình thường (không phải TCT) Đây là lý do nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Pháp luật về XLTC khi TCT các
NHTM ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ của mình
6 PHẦN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
8.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ
Tái cấu trúc các ngân hàng thương mại đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề tài chính, bao gồm việc đánh giá và xử lý các tài sản, nợ phải trả cũng như các nguồn vốn Quá trình này không chỉ nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động mà còn đảm bảo tính bền vững của ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gia tăng Việc áp dụng các phương pháp tài chính hợp lý sẽ giúp các ngân hàng tái cấu trúc thành công, từ đó nâng cao khả năng phục hồi và phát triển trong tương lai.
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm, mục đích tái cấu trúc các ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm tái cấu trúc các ngân hàng thương mại
9 Trong tiếng Anh, thuật ngữ “tái cấu trúc” (Restructuring) hay còn có cách gọi khác là
"Tái cơ cấu" là quá trình tổ chức lại nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức dựa trên cấu trúc hiện có Thuật ngữ này ngày càng phổ biến trên toàn cầu, với mục tiêu chính là giúp các tổ chức thay đổi và làm mới để hoạt động hiệu quả hơn, dựa trên sứ mệnh, tầm nhìn và chiến lược đã được xác định Một kế hoạch tái cơ cấu toàn diện thường bao gồm các lĩnh vực như cơ cấu tổ chức, nguồn nhân lực, và cơ chế quản lý Ngoài ra, tái cơ cấu cũng có thể được thực hiện cục bộ tại một hoặc nhiều bộ phận để cải thiện khả năng hoạt động của các bộ phận đó.
10 Từ khái niệm TCT, chúng ta có thể đi đếm tìm hiểu khái niệm TCT NHTM. Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới: TCT ngân hàng bao gồm một loạt các biện pháp được phối hợp chặt chẽ nhằm duy trì hệ thống thanh toán quốc gia và khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng, đồng thời xử lý các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống tài chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng (WB, 1998) 7 Như vậy, Ngân hàng thế giới đưa ra quan điểm về TCT ngân hàng nói chung chứ không chỉ riêng TCT NHTM Với cách định nghĩa này, Ngân hàng thế giới nhấn mạnh vào mục tiêu của quá trình TCT ngân hàng Theo đó, TCT ngân hàng giúp duy trì hệ thống thanh toán quốc gia và khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng, đồng thời xử lý các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống tài chính là nguyên nhân gây ra khủng hoảng Nghiên cứu sinh cho rằng, Ngân hàng thế giới đưa ra định nghĩa này trong bối cảnh nền kinh tế thế giới trải qua nhiều cuộc khủng hoảng và các quốc gia đã nhận thức được rằng cần thiết phải có các biện pháp đảm bảo cho hoạt động của hệ thống tín dụng Vì vậy, Ngân hàng thế giới đưa ra mục tiêu cụ thể trong định nghĩa về TCT ngân hàng.
11 Trong nghiên cứu của mình Claudia Dziobek (1998) và Ceyla Pazarbasioglu định nghĩa TCT ngân hàng là biện pháp hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu suất hoạt động của ngân hàng, bao gồm phục hồi khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, cải
13 7 Lê Thị Tuấn Nghĩa, Phạm Mạnh Hùng (2013), Tiếp tục tái cẩu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam, Tạp chí khoa học đào tạo ngân hàng số 128, 129.
15 thiện năng lực hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng để làm tròn trách nhiệm của một trung gian tài chính và khôi phục lòng tin của công chúng 8 Theo quan điểm này thì TCT ngân hàng bao gồm TCT tài chính, TCT hoạt động và giám sát an toàn Như vậy, TCT tài chính là một bộ phận của quá trình TCT ngân hàng Đó không phải là toàn bộ quá trình TCT ngân hàng nhưng là bộ phận không thể thiếu và quyết định thành công của quá trình TCT ngân hàng Với định nghĩa này, chúng ta còn biết thêm rằng, TCT tài chính hướng đến việc phục hồi khả năng thanh khoản bằng cách cải thiện bảng cân đối của các NHTM thông qua các biện pháp như tăng vốn, giảm nợ, hoặc nâng giá trị tài sản.
16 Tác giả Vũ Văn Thực đã đưa ra định nghĩa về TCT NHTM như sau: “TCT NHTM là việc thay đổi một, một vài hoặc tất cả các phương diện ngồn vốn, tài sản, tài chính, cơ cấu tổ chức, tư duy quản lý, cách thức quản tri điều hành… để giúp các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh, có hiệu quả hơn” 9 Theo quan điểm này, TCT NHTM có thể diễn ra với quy mô lớn nhưng cũng có thể diễn ra với quy mô nhỏ tùy thuộc vào từng NHTM cụ thể Mục đích cuối cùng của hoạt động TCT NHTM đó là giúp các NHTM hoạt động an toàn, lành mạnh, có hiệu quả.
17 Ủy ban Basel đưa ra định nghĩa TCT NHTM dựa trên chuẩn mực mà Ủy ban này đã đưa ra Cụ thể: “TCT NHTM theo chuẩn mực Basel II là việc thay đổi, điều chỉnh các yếu tố liên quan như cấu trúc chiến lược, cấu trúc sở hữu, quản trị, tài chính, hoạt động và các thành phần khác… tạo nên cấu trúc tổng thể của NHTM cho phù hợp với các quy định của Hiệp ước Basel II” 10 Theo đó, các quốc gia là thành viên của hiệp ước khi thực hiện TCT NHTM cần phải quan tâm tới các chuẩn mực này như một nghĩa vụ quan trọng Và khi xem xét các tiêu chuẩn của Basel II, nghiên cứu sinh thấy rằng, mục đích của cuối cùng của quá trình TCT NHTM cũng chỉ để giúp thiết chế này hoạt động hiệu quả hơn, làm tốt vai trò trung gian tài chính và góp phần giữ gìn sự ổn định của nền kinh tế quốc gia.
18 Theo quan điểm của tác giả Nguyễn Quỳnh Hoa: “TCT NHTM là thực hiện các biện pháp nhằm khắc phục các khiếm khuyết của hệ thống NHTM nhằm mục đích duy trì sự phát triển ổn định, bền vững, an toàn và hiệu quả chức năng trung gian tài chính của hệ thống NHTM trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng thanh toán và trung gian tín dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM” 11 Nhìn chung, quan điểm của tác giả Nguyễn Quỳnh Hoa có nhiều điểm giống so với các nhà khoa học khác Tuy nhiên, tác giả lại nhấn mạnh quá trình TCT NHTM nhằm khắc phục những
21 8 Lê Thị Tuấn Nghĩa, Phạm Mạnh Hùng (2013), Tiếp tục tái cẩu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam, Tạp chí khoa học đào tạo ngân hàng số 128, 129.
22 9 Vũ Văn Thực (2013), “TCT hệ thống NHTM ở Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và hội nhập, 10, 17-21.
23 10 Lê Trung Thành (2017), “TCT hệ thống tài chính ở Việt Nam”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Hà Nội, tr.68
24 11 Nguyễn Quỳnh Hoa (2014) “TCT hệ thống NHTM Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, tr.26
26 khiếm khuyết của hệ thống NHTM Trong quá trình hoạt động, các NHTM có thể tự TCT để hoạt động được hiệu quả hơn.