CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỐI VỚI HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN
Lý luận về thực hiện chính sách công
1.1.1 Khái niệm chính sách công
Chính sách công là một thuật ngữ phổ biến trên toàn cầu, với nhiều định nghĩa khác nhau từ các học giả Dưới đây là một số khái niệm cụ thể về chính sách công.
Chính sách công là tập hợp các quyết định liên quan từ một hoặc nhiều nhà chính trị, nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp để đạt được những mục tiêu đó (William Jenkin).
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L Cochran and Eloise F Malone, 1995)
James Anderson định nghĩa chính sách là “một đường lối hành động có mục đích do một nhà hoạt động hoặc một nhóm các nhà hoạt động ban hành nhằm giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề quan tâm.”
Tại Việt Nam, chính sách công đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều khái niệm khác nhau Một trong những quan điểm tiêu biểu là của tác giả Hồ Việt Hạnh, người định nghĩa chính sách công là những định hướng hành động mà nhà nước lựa chọn nhằm giải quyết các vấn đề trong đời sống cộng đồng Những định hướng này phải phù hợp với thái độ chính trị ở mỗi thời kỳ, nhằm đảm bảo sự phát triển xã hội theo một hướng tích cực.
Chính sách công, theo tác giả Nguyễn Khắc Bình, là những hoạt động mà chính phủ quyết định thực hiện hoặc không thực hiện nhằm điều hòa xung đột trong xã hội, từ đó thúc đẩy sự phát triển xã hội theo một định hướng cụ thể.
Trong cuốn "Giáo trình chính sách công," tác giả Lê Chi Mai nêu rõ ba nội dung chính của chính sách công: Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công Thứ hai, chính sách công bao gồm các quyết định hành động, phản ánh ý định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề cụ thể và các hành vi thực hiện những ý định đó Cuối cùng, mục đích của chính sách công là giải quyết các vấn đề trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu đã được xác định.
Trong bài viết “Về chính sách công hiện nay ở nước ta”, Đỗ Phú Hải nhấn mạnh rằng chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị liên kết của Nhà nước, nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã được xác định.
Như vậy có thể thấy mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách công nhưng đều phản ánh những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, chính sách công do nhà nước, đảng chính trị cầm quyền ban hành
Chính sách công đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội hiện tại, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững cho xã hội.
Chính sách công bao gồm nhiều quyết định liên quan lẫn nhau, với các chủ thể, đối tượng, công cụ và mục tiêu cụ thể Theo nghiên cứu, chính sách công được hiểu là những quyết định của chính phủ nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, sử dụng các công cụ chính sách để giải quyết các vấn đề xã hội, từ đó duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
1.1.2 Vai trò của chính sách công
Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là trong thời đại hiện đại, sự tiến bộ của các lĩnh vực đời sống phụ thuộc vào hệ thống chính sách của Nhà nước, cùng với các nguồn lực và vị thế địa chính trị của mỗi quốc gia Hệ thống chính sách không chỉ mở đường cho sự phát triển mà còn huy động trí tuệ tập thể và các nguồn lực tiềm năng của xã hội, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững.
Các lý thuyết hiện đại chỉ ra rằng phát triển bền vững dựa trên ba cột trụ chính: kinh tế thị trường, nhà nước và xã hội dân sự Kinh tế thị trường điều tiết hoạt động kinh tế, tạo ra của cải và tối ưu hóa quy trình phát triển thông qua việc tính toán chi phí và giá thành Trong khi đó, xã hội dân sự giải quyết các vấn đề vi mô của các nhóm xã hội Vai trò của nhà nước là điều tiết vĩ mô các quan hệ xã hội, xây dựng thể chế phát triển và tổ chức các hoạt động kinh tế, an ninh quốc phòng, cũng như phòng chống thiên tai và quản lý quan hệ quốc tế Chính sách của nhà nước thể hiện sự định hướng phát triển, giúp tập trung nguồn lực từ các lực lượng xã hội để phát triển các lĩnh vực quan trọng.
Các thay đổi xã hội lớn thường bắt nguồn từ sự thay đổi chính sách, mở đường cho các thể chế mới Công cuộc đổi mới từ năm 1986 tại Việt Nam là một ví dụ điển hình cho sự dẫn dắt của chính sách trong phát triển kinh tế xã hội, giúp khắc phục khủng hoảng và huy động lực lượng sản xuất, từ đó nâng cao mức sống và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội Vai trò của chính sách công được thể hiện rõ ràng qua những khía cạnh này.
Chính sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, giúp họ đạt được những giá trị tương lai mà chính phủ mong muốn Những giá trị này phản ánh mục tiêu phát triển phù hợp với nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội Khi các chủ thể kinh tế và xã hội hoạt động theo định hướng của chính sách, họ không chỉ dễ dàng đạt được mục tiêu phát triển mà còn nhận được nhiều ưu đãi từ nhà nước và xã hội Điều này cho thấy, ngoài việc xác định mục tiêu, cách thức tác động của chính sách công cũng có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn hành động của các chủ thể.
- Khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động KT-XH theo định hướng;
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh thúc đẩy sự đầu tư vào sản xuất và đổi mới công nghệ, mang lại lợi ích cho xã hội với hàng hóa và dịch vụ phong phú, chất lượng cao và giá cả hợp lý Tuy nhiên, thị trường cũng phát sinh những vấn đề tiêu cực như độc quyền, bất công, chênh lệch giàu nghèo, và thất nghiệp gia tăng Để khắc phục những hạn chế này, nhà nước cần áp dụng các chính sách công nhằm giải quyết các bất cập kinh tế, thông qua việc trợ cấp và cung ứng dịch vụ công cho người dân.
Để đảm bảo phát triển bền vững, Nhà nước cần xây dựng các chính sách điều tiết nhằm tạo lập sự cân đối giữa các vùng miền trong quốc gia Việc này không chỉ giúp phát triển đồng đều mà còn góp phần vào sự ổn định kinh tế xã hội.
Lý luận về thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn
1.2.1 Khái niệm và tiêu chí xác định Xã đặc biệt khó khăn
Căn cứ theo Quyết định số 50/2016/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm
Theo Nghị quyết 2016 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí xác định thôn đặc biệt khó khăn và xã thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn 2016 – 2020, các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi được phân chia thành ba khu vực Trong đó, xã khu vực III được xác định là những xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Xã II có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhưng đã tạm ổn định, trong khi xã khu vực I bao gồm các xã còn lại Nghiên cứu của luận văn xác định xã đặc biệt khó khăn thuộc nhóm xã khu vực III.
Xã khu vực III là xã có ít nhất 2 trong 3 tiêu chí sau:
1) Số thôn đặc biệt khó khăn còn từ 35% trở lên (tiêu chí bắt buộc);
2) Tổng tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo từ 65% trở lên (trong đó tỷ lệ hộ nghèo từ 35% trở lên) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020;
3) Tổng tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo từ 55% trở lên (các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, khu vực đồng bằng sông Cửu Long từ 30% trở lên) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 và có ít nhất 3 trong 6 điều kiện sau (đối với xã có số hộ dân tộc thiểu số từ 60% trở lên, cần có ít nhất 2 trong 6 điều kiện):
- Trục chính đường giao thông đến Ủy ban nhân dân xã hoặc đường liên xã chưa được nhựa hóa, bê tông hóa theo tiêu chí nông thôn mới;
- Trường mầm non, trường tiểu học hoặc trường trung học cơ sở chưa đạt chuẩn quốc gia theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Chưa đạt Tiêu chí quốc gia về y tế xã theo quy định của Bộ Y tế;
- Chưa có Trung tâm Văn hóa, Thể thao xã theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
- Còn từ 20% số hộ trở lên chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh;
- Còn từ 40% số hộ trở lên chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh theo quy định của Bộ Y tế
1.2.2 Khái niệm học sinh trung học phổ thông xã đặc biệt khó khăn
Trường phổ thông trung học, hay còn gọi là trường trung học phổ thông, là hình thức giáo dục chính quy tại Việt Nam, phục vụ cho lứa tuổi từ 15 đến 18.
Học sinh trung học phổ thông, từ 15 đến 18 tuổi, bao gồm ba khối lớp 10, 11 và 12, được xác định là những em đang theo học tại trường trung học phổ thông Đặc biệt, học sinh có hoàn cảnh khó khăn là những em có bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại xã khu vực III.
1.2.3 Khái niệm chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn
Chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn được hiểu là các quyết định của chính phủ nhằm xác định mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách để hỗ trợ học sinh tại những vùng này Mục tiêu của chính sách là đạt được các kết quả hợp lý và thúc đẩy sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.4 Mục tiêu và nội dung chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông xã đặc biệt khó khăn
Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP của Chính phủ đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Nghiên cứu này tập trung vào chính sách hỗ trợ học sinh thông qua Nghị định 116/2016/NĐ-CP để phân tích tác động và lợi ích của nó trong bối cảnh giáo dục hiện nay.
Chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông tại các xã đặc biệt khó khăn quy định rõ đối tượng được hưởng, mức hỗ trợ cụ thể, hồ sơ và thủ tục cần thiết Đồng thời, chính sách cũng xác định thẩm quyền, quy trình cấp phát hỗ trợ và nguồn kinh phí thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi cho học sinh ở vùng đặc biệt khó khăn.
Chính sách quy định về đối tượng áp dụng là học sinh gồm có những đối tượng sau:
Học sinh tiểu học và trung học cơ sở đủ điều kiện tham gia chương trình bán trú phải đáp ứng một số yêu cầu cụ thể Đối tượng bao gồm học sinh đang học tại trường phổ thông dân tộc bán trú, có hộ khẩu thường trú tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn, và đang theo học tại các trường thuộc khu vực III hoặc thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi Ngoài ra, học sinh cũng phải sống xa trường, với khoảng cách từ 4 km trở lên đối với tiểu học và từ 7 km trở lên đối với trung học cơ sở, hoặc gặp phải khó khăn trong di chuyển do địa hình, như phải qua sông, suối không có cầu, đèo, núi cao, hoặc vùng sạt lở đất, đá.
Đối với học sinh trung học phổ thông là người dân tộc thiểu số, cần đảm bảo các điều kiện sau: đang theo học tại trường trung học phổ thông hoặc cấp trung học phổ thông tại trường có nhiều cấp học; bản thân và bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi, cũng như các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo Ngoài ra, nhà ở của học sinh phải cách trường từ 10 km trở lên hoặc gặp khó khăn trong việc di chuyển do địa hình, như phải qua sông, suối không có cầu, đèo, núi cao, hoặc khu vực có nguy cơ sạt lở đất, đá.
Học sinh trung học phổ thông thuộc dân tộc Kinh cần đáp ứng các điều kiện giống như học sinh dân tộc thiểu số, đồng thời phải thuộc nhân khẩu trong gia đình thuộc hộ nghèo.
Chính sách hỗ trợ tài chính cho học sinh bao gồm khoản hỗ trợ tiền ăn, với mức hỗ trợ mỗi tháng đạt 40% mức lương cơ sở Mỗi học sinh có thể nhận hỗ trợ này trong tối đa 9 tháng mỗi năm học.
Học sinh tự túc chỗ ở do trường không có chỗ ở bán trú sẽ được hỗ trợ tiền nhà mỗi tháng bằng 10% mức lương cơ sở, tối đa 9 tháng trong năm học Ngoài ra, mỗi học sinh còn nhận được hỗ trợ 15 kg gạo mỗi tháng, cũng với thời gian hỗ trợ không quá 9 tháng trong năm học.
Trường phổ thông dân tộc bán trú nhận được hỗ trợ đầu tư cho cơ sở vật chất và thiết bị, bao gồm nhà ở, giường nằm, nhà bếp, phòng ăn, nhà tắm, công trình vệ sinh, và hệ thống nước sạch, cùng các thiết bị cần thiết, đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn thiết kế trường học hiện hành.
Hỗ trợ 100.000 đồng/học sinh bán trú mỗi năm cho việc mua sắm và sửa chữa dụng cụ thể dục, thể thao, nhạc cụ, máy thu hình, phục vụ cho sinh hoạt văn hóa, thể dục, thể thao và các vật dụng khác.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh trường phổ thông ở các xã thôn đặc biệt khó khăn
2.1 Khái quát về đặc điểm điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng là một tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, có vị trí địa lý đặc biệt khi giáp ranh với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) ở phía Bắc và Đông Bắc với đường biên giới dài 311 km Phía Tây tỉnh Cao Bằng tiếp giáp với các tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, trong khi phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn Tỉnh có chiều dài Bắc - Nam khoảng 80 km, tạo nên một vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực.
230 0 7'12" - 22 0 21'21" vĩ bắc (tính từ xã Trọng Con, huyện Thạch An đến xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm) Theo chiều Đông - Tây là 170 km, từ
105 0 16'15" - 106 0 50'25" kinh đông (tính từ xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang)
Tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương, bao gồm 1 thành phố là Cao Bằng và 12 huyện: Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hòa An, Nguyên Bình, Quảng Uyên, Phục Hòa và Thạch An.
Cao Bằng có khí hậu lục địa miền núi cao với bốn mùa rõ rệt, đặc biệt là mùa Hè và mùa Đông Biên độ nhiệt độ tại đây thay đổi lớn, với lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.500 mm, chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 8 Các huyện như Nguyên Bình, Bắc Hà Quảng, Thông Quảng Hòa và Hạ Lang nhận lượng mưa cao từ 1.500 đến 1.900 mm, trong khi các huyện Hòa An, Nam Hà Quảng và Trùng Khánh có lượng mưa trung bình từ 1.300 đến 1.500 mm Ngoài ra, khu vực này còn có hiện tượng gió lốc, gió bấc và tuyết.
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỐI VỚI HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CAO BẰNG
Khái quát về đặc điểm điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, có vị trí địa lý đặc biệt với đường biên giới dài 311 km giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) ở phía Bắc và Đông Bắc Tỉnh này tiếp giáp với tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang ở phía Tây, trong khi phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn Chiều dài tỉnh theo hướng Bắc - Nam là 80 km.
230 0 7'12" - 22 0 21'21" vĩ bắc (tính từ xã Trọng Con, huyện Thạch An đến xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm) Theo chiều Đông - Tây là 170 km, từ
105 0 16'15" - 106 0 50'25" kinh đông (tính từ xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang)
Tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương, bao gồm 1 thành phố là Cao Bằng và 12 huyện: Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hòa An, Nguyên Bình, Quảng Uyên, Phục Hòa và Thạch An.
Cao Bằng có khí hậu lục địa miền núi cao với bốn mùa rõ rệt, đặc biệt là mùa Hè và mùa Đông Biên độ nhiệt độ thay đổi lớn, với lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.500 mm, tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 8 Các huyện như Nguyên Bình, Bắc Hà Quảng, Thông Quảng Hòa và Hạ Lang nhận lượng mưa cao từ 1.500 - 1.900 mm, trong khi các huyện Hòa An, Nam Hà Quảng, Trùng Khánh có lượng mưa trung bình từ 1.300 - 1.500 mm Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 0°C đến 35°C, với mùa hè (tháng 6 đến tháng 8) có nhiệt độ từ 30 - 34°C và tháng 7 là tháng nóng nhất Mùa đông, nhiệt độ trung bình giảm xuống còn 5-6°C, tháng 1 là tháng lạnh nhất, thường xuyên có hiện tượng sương muối vào tháng 1 và tháng 2.
Cao Bằng có diện tích 6.724,6 km², là một cao nguyên đá vôi xen lẫn núi đất với độ cao trung bình trên 200 m, trong khi vùng sát biên có độ cao từ 600 - 1.300 m so với mặt nước biển Tỉnh có địa hình núi non trùng điệp, với hơn 90% diện tích là rừng núi, trong đó núi đá vôi chiếm 25% và núi đất chiếm 65% Điểm cao nhất đạt 1.980 m, còn điểm thấp nhất dưới 200 m, với độ cao trung bình từ 600 - 1.000 m Địa hình được chia thành ba vùng rõ rệt: miền đông nhiều núi đá, miền tây núi đất xen lẫn núi đá, và miền tây nam chủ yếu là núi đất với rừng rậm phong phú.
- Dân số: Dân số tỉnh Cao Bằng là khoảng 550 nghìn người (năm
Tính đến năm 2018, tỉnh có mật độ dân số là 78 người/km² với 28 dân tộc sinh sống Trong đó, dân tộc Tày chiếm tỷ lệ cao nhất với 42,54%, theo sau là dân tộc Nùng với 32,86% Dân tộc Dao và Mông lần lượt chiếm 9,63% và 8,45%, trong khi dân tộc Kinh chỉ chiếm 4,68% Các dân tộc Sán Chay, Lô Lô, Hoa, Ngái và các dân tộc khác chiếm tỷ lệ nhỏ hơn, tổng cộng khoảng 1,47%.
Tỉnh Cao Bằng, với bề dày lịch sử và văn hóa phong phú, là nơi lưu giữ bản sắc đa dạng của nhiều dân tộc Trong suốt 520 năm hình thành và phát triển, Cao Bằng đã khẳng định vị trí quan trọng của mình như một phên giậu vững chắc nơi biên cương phía Bắc của Tổ quốc Đây là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử oanh liệt, như sự trở về của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự ra đời của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam Cao Bằng cũng đã góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp qua chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cục diện chiến trường.
Năm 1979, Cao Bằng đã thể hiện tinh thần kiên cường và dũng cảm, tích cực đóng góp sức người và sức của để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc Những nỗ lực này đã góp phần viết tiếp trang sử hào hùng trong cuộc chiến chống ngoại xâm, giữ gìn nền hòa bình và độc lập dân tộc của đất nước.
Cao Bằng hiện vẫn là một tỉnh khó khăn ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, với chất lượng và hiệu quả kinh tế còn thấp Các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ chưa có sự gắn kết chặt chẽ, dẫn đến việc chưa hình thành các cụm liên kết ngành và khu vực để mở rộng quy mô và thúc đẩy tăng trưởng Ngành công nghiệp phát triển chậm với quy mô nhỏ, góp phần hạn chế vào tăng trưởng kinh tế, trong khi tốc độ phát triển du lịch chưa tương xứng với tiềm năng Hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, khiến thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 54% so với mức trung bình cả nước, và tỷ lệ hộ nghèo cùng hộ cận nghèo của tỉnh nằm trong nhóm cao nhất cả nước.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc đầu tư cho văn hóa và văn học - nghệ thuật Sự hạn chế trong việc xây dựng các thiết chế văn hóa từ cấp tỉnh đến cơ sở đã ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của lĩnh vực này.
Chất lượng giáo dục và đào tạo hiện nay còn thấp, dẫn đến trình độ dân trí không đồng đều Hệ thống chăm sóc sức khỏe, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa và biên giới, vẫn gặp nhiều hạn chế, với tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng vẫn còn cao Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, khi tỉ lệ hộ tái nghèo và số hộ cận nghèo vẫn ở mức cao.
Tình hình thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh
2.2.1 Giới thiệu về quy mô phát triển trường, lớp, học sinh tại tỉnh Cao Bằng qua các năm học
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12434 học sinh
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11965 chiếm tỉ lệ: 96,2%;
Tổng số giáo viên: 854, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,3
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12681 học sinh
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11763 chiếm tỉ lệ: 96,3%;
Tổng số giáo viên: 830, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,26;
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12214 học sinh
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11847 chiếm tỉ lệ: 97%;
Tổng số giáo viên: 835, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,1;
Các trường Trung học phổ thông tại tỉnh Cao Bằng, bao gồm cả những trường có cấp Trung học cơ sở, thường nằm cách xa trung tâm thành phố Hệ thống giao thông tại đây gặp nhiều khó khăn do địa hình phức tạp với nhiều núi đá, núi đất và rừng rậm, gây ảnh hưởng đến việc di chuyển của học sinh và giáo viên.
Theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 12 huyện Tỉnh này có tổng cộng 199 xã, phường, thị trấn, trong đó khu vực I có 11 xã, khu vực II có 49 xã và khu vực III có 139 xã Đặc biệt, tổng số thôn, xóm, bản thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn lên tới 1.598 xóm.
Huyện/TP Tổng số xã/phường
Phân chia khu vực Thôn/xóm ĐBKK
KV I KV II KV III
Chất lượng học tập ở các trường THPT hiện nay không đồng đều, với tỷ lệ học sinh khá và giỏi chủ yếu tập trung tại các trường nằm trong trung tâm thành phố, như Trường THPT Chuyên, THPT DTNT tỉnh Cao Bằng và THPT Thành Phố Ngoài ra, một số trường thuộc trung tâm các huyện như huyện Trùng Khánh (THPT Trùng Khánh), huyện Hòa An (THPT Hòa An) và huyện Nguyên Bình (THPT Nguyên Bình) cũng có chất lượng học tập đáng chú ý.
Các trường THPT tại tỉnh Cao Bằng chủ yếu có sức học trung bình đến yếu, do khoảng cách từ nhà đến trường khá xa Nhiều học sinh ở các xã như Vĩnh Phong, Đức Hạnh, Yên Thổ (huyện Bảo Lâm) phải di chuyển từ 35 đến 40 km để đến trường THPT Bảo Lâm Tương tự, học sinh từ xã Cô Ba, Cốc Pàng (huyện Bảo Lạc) cũng phải đi từ 36 đến 40 km đến trường THPT Bảo Lạc, trong khi học sinh ở xã Lũng Nặm, Tổng Cọt (huyện Hà Quảng) di chuyển khoảng 35 đến 40 km đến trường THPT Đàm Quang Trung Địa hình khó khăn, giao thông bất tiện với nhiều đoạn phải qua sông, suối không có cầu, đèo dốc, và vùng đất sạt lở, càng làm tăng thêm khó khăn cho việc học tập của các em.
Tỉ lệ học sinh bỏ học tại các trường THPT ở tỉnh Cao Bằng không đồng đều Theo số liệu thống kê từ phòng GDTrH - Sở GD&ĐT tỉnh Cao Bằng trong năm học 2018 - 2019, tình hình này cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các trường.
Các trường THPT nằm ở khu vực địa hình khó khăn, như phải qua sông, suối không có cầu, đèo, núi cao và vùng sạt lở, thường có tỉ lệ học sinh bỏ học cao Cụ thể, Trường THPT Bảo Lâm có tỉ lệ bỏ học là 10,9%, Trường THPT Lý Bôn là 7,3%, Trường THPT Thông Nông là 6,9%, và Trường THPT Đàm Quang Trung là 6,0%.
Một số trường có điều kiện giao thông thuận lợi hơn đã ghi nhận tỉ lệ học sinh bỏ học thấp hơn Cụ thể, trường THPT Thành phố Cao Bằng có tỉ lệ bỏ học chỉ 0,5%, trường THPT Cao Bình là 0,9%, trường THPT Trùng Khánh thuộc huyện Trùng Khánh có tỉ lệ 1,9%, và trường THPT Quảng Uyên thuộc huyện Quảng Uyên với tỉ lệ 0,8%.
2.2.2 Tình hình thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
2.2.2.1 Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quản lý
Kể từ khi chính sách hỗ trợ học sinh phổ thông tại các xã đặc biệt khó khăn có hiệu lực từ ngày 01 tháng 9 năm 2016, tỉnh Cao Bằng đã triển khai và tổ chức thực hiện Nghị định 116/2016/NĐ-CP thông qua việc xây dựng và ban hành nhiều văn bản hướng dẫn.
Nhà nước đã ban hành nhiều quyết định nhằm hỗ trợ học sinh trung học phổ thông tại các xã đặc biệt khó khăn ở tỉnh Cao Bằng trong những năm qua Các chính sách này nhằm cải thiện điều kiện học tập và tạo cơ hội cho học sinh ở vùng khó khăn phát triển.
- Quyết định 85/2010/QĐ-TTg ngày 21 tháng 12 năm 2010;
- Quyết định 12/2013/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2013
- Quyết định 36/2013/QĐ-TTg ngày 18 tháng 6 năm 2013
Để tích hợp và hạn chế sự chồng chéo trong các chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú, cũng như hỗ trợ học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2016 Nghị định này quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn, đóng vai trò là văn bản căn cứ quan trọng cho việc triển khai thực hiện chính sách.
Văn bản số 5129/BGD ĐT-CTHSSV ngày 14 tháng 10 năm 2016 hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn Chính sách này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tại những khu vực gặp nhiều khó khăn, đảm bảo quyền lợi và cơ hội học tập cho mọi học sinh.
- Nghị định số 06/2018/NĐ-CP 05/01/2018 của Chính phủ và các chính sách hiện hành đối với học sinh, sinh viên người DTTS;
- Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017;
Quyết định số 103/QĐ-TTg ngày 22/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Danh sách các thôn đặc biệt khó khăn, xã thuộc khu vực III, khu vực II và khu vực I trong vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 Quyết định này nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho các khu vực khó khăn, nâng cao đời sống người dân và giảm nghèo bền vững.
Năm 2020, Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng và Sở Giáo dục tỉnh Cao Bằng đã ban hành nhiều văn bản hàng năm nhằm triển khai Nghị định 116/2016 của Chính phủ.
Văn bản số 951/SGD&ĐT-GDDT& HSSV ngày 25/8/2017 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2017-2018 trong lĩnh vực giáo dục dân tộc, giáo dục chính trị và công tác học sinh, sinh viên Nội dung văn bản nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số và tăng cường giáo dục chính trị nhằm phát triển toàn diện cho sinh viên Các cơ sở giáo dục cần thực hiện các biện pháp cụ thể để hỗ trợ học sinh, sinh viên trong quá trình học tập và rèn luyện.
Văn bản số 930/SGD&ĐT-GDDT& HSSV ngày 07/9/2018 cung cấp hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ cho năm học 2017-2018 liên quan đến giáo dục dân tộc, giáo dục chính trị và công tác học sinh, sinh viên Nội dung văn bản nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh thuộc các dân tộc thiểu số, đồng thời khuyến khích các hoạt động giáo dục chính trị nhằm phát triển nhận thức và trách nhiệm của sinh viên Việc triển khai các nhiệm vụ này sẽ góp phần vào sự phát triển toàn diện của học sinh, sinh viên trong bối cảnh hiện nay.
Đánh giá chung
2.3.1 Một số kết quả nổi bật
Theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP, trong năm học 2018 - 2019, tỉnh đã hỗ trợ tiền ăn cho 31.163 học sinh và tiền ở cho 14.642 học sinh tại 417 trường, với tổng kinh phí lên đến 170 tỷ 492 triệu đồng Đồng thời, tỉnh cũng đã đầu tư hơn 459 triệu đồng để mua sắm, sửa chữa dụng cụ thể dục thể thao, nhạc cụ và máy tính cho các trường bán trú Trong học kỳ 1 năm học 2019 - 2020, số học sinh được hỗ trợ tiền ăn tăng lên 31.960 và tiền ở cho 15.452 học sinh, với tổng kinh phí là 84 tỷ 946 triệu đồng, cùng với việc mua sắm dụng cụ học tập và lập tủ thuốc cho khu bán trú trị giá trên 459 triệu đồng.
2018 đến học kỳ 1 năm học 2019 - 2020, toàn tỉnh hỗ trợ trên 6.800 tấn gạo cho 97.016 học sinh
Trong giai đoạn 2017 - 2020, tỉnh Cao Bằng đã hỗ trợ đáng kể cho học sinh tại các trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn Cụ thể, hơn 18.102 học sinh được hỗ trợ tiền ăn, 15.694 học sinh nhận tiền ở tại 30 trường THPT, với tổng kinh phí vượt quá 115 tỷ 585 triệu đồng Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã cung cấp hơn 2.439 tấn gạo cho 18.102 học sinh, góp phần cải thiện điều kiện học tập cho các em.
Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn mang lại giá trị và ý nghĩa lớn lao, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và tạo cơ hội học tập bình đẳng cho trẻ em ở những vùng khó khăn.
Chính sách hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số và hộ nghèo tại các xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn tại tỉnh Cao mang tính nhân văn sâu sắc Chính sách này đã giúp hàng nghìn học sinh trung học phổ thông nhận được hỗ trợ tiền ăn và tiền nhà ở hàng tháng, tạo điều kiện để các em yên tâm học tập Nhờ đó, sĩ số lớp học được duy trì và chất lượng dạy và học cũng được nâng cao.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là một vấn đề mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, nhằm tạo điều kiện cho dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, thường sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo Nhà nước cần đảm bảo rằng người nghèo có cơ hội học tập và những người tài năng được phát huy khả năng của mình, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển bền vững cho đất nước.
Nhà nước chú trọng đến việc hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân Điều này không chỉ giúp giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và vùng miền trong cả nước, mà còn đảm bảo thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đang phấn đấu.
Chính sách này không chỉ mang lại giá trị cho con em người dân tộc thiểu số tại tỉnh Cao Bằng mà còn hỗ trợ tất cả học sinh là người dân tộc thiểu số và người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo ở các xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trên toàn quốc.
2.3.2 Những bất cập trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
Học sinh nhận được chính sách hỗ trợ của nhà nước không nhất thiết phải đến từ gia đình có hoàn cảnh khó khăn hoặc sống ở khu vực địa hình cách trở, với giao thông đi lại khó khăn.
- Hội đồng nhân nhân tỉnh Cao Bằng quy định lại khoảng cách “từ
Quy định "4,5 km trở lên đối với học sinh trung học phổ thông, tính từ nhà đến trường phổ thông gần nhất" không phản ánh đúng thực tế tại địa phương Tại trường THPT Bế Văn Đàn, hàng năm Sở GD&ĐT Cao Bằng giao chỉ tiêu tuyển sinh đầu cấp là 210 học sinh, nhưng số hồ sơ tuyển sinh vào lớp 10 chỉ dao động từ 80 đến 100 hồ sơ Điều này dẫn đến tình trạng một số học sinh từ các huyện xa như Nguyên Bình (cách TP Cao Bằng 45 km) và Thạch An (cách TP Cao Bằng 50 km) không thể ghi danh.
Khánh (35km) do không trúng tuyển vào trường THPT ở huyện đã nộp hồ sơ, theo học tại trường
Nhiều học sinh từ hộ nghèo và cận nghèo không thuộc nhóm đối tượng được hưởng chính sách theo Nghị định 116/2016/NĐ-CP, dẫn đến tình trạng bỏ học gia tăng Đồng thời, Nghị định 86/2015/NĐ-CP sẽ hết hiệu lực vào năm học 2020-2021, tạo ra lo ngại về việc hỗ trợ cho những học sinh này.
Trong năm học 2017 - 2018, tỉnh Cao Bằng có tổng cộng 12.434 học sinh cấp THPT, trong đó có cả học sinh cấp THCS Số học sinh bỏ học là 417 em, chiếm tỷ lệ 3,3% Đặc biệt, trong số học sinh bỏ học, có 252 em thuộc hộ nghèo và cận nghèo, tương đương 60,4%.
Trong năm học 2018 - 2019, tỉnh Cao Bằng có tổng cộng 12.681 học sinh cấp THPT, trong đó có cả học sinh cấp THCS Số học sinh bỏ học là 385, chiếm tỷ lệ 3,03% Đặc biệt, trong số học sinh bỏ học, có 300 em thuộc hộ nghèo và cận nghèo, tương đương với 77,9% tổng số học sinh bỏ học.
Trong năm học 2019 - 2020, tỉnh Cao Bằng ghi nhận tổng số học sinh cấp THPT là 12.214 em, trong đó có 406 em bỏ học, chiếm tỷ lệ 3,33% Đặc biệt, trong số học sinh bỏ học, có đến 317 em thuộc hộ nghèo và cận nghèo, tương đương với tỷ lệ 78,1%.
Mặc dù tỷ lệ học sinh bỏ học trong năm học 2018 - 2019 đã giảm, nhưng tỷ lệ học sinh thuộc hộ nghèo và cận nghèo lại có xu hướng tăng Cụ thể, trong năm học 2018 - 2019, tỷ lệ này tăng 17,5% so với năm trước, và tiếp tục tăng 17,7% trong năm học 2019 - 2020.
Nhiều xã đặc biệt khó khăn đã tiến hành sát nhập với các xã khác, dẫn đến việc không còn giữ tên gọi theo quyết định của Nhà nước Tuy nhiên, việc cập nhật thông tin về các xã này vẫn chưa được thực hiện kịp thời.