GIỚI THIỆU CHUNG
Mục đích và phương pháp
Báo cáo của Cục Xúc tiến thương mại (VIETRADE) thuộc Bộ Công Thương nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam, hỗ trợ họ trong việc tăng cường xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Nội dung Báo cáo tập trung:
- Đánh giá tình hình sản xuất thủy sản của Việt Nam và tình hình xuất khẩu nói chung cũng như xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng;
Bài viết cung cấp thông tin chi tiết về đặc điểm và xu hướng thị trường thủy sản Nhật Bản, bao gồm tình hình tiêu thụ, giá cả, kênh phân phối, cũng như quy trình sản xuất và hoạt động xuất nhập khẩu.
- Đánh giá các quy định trong nhập khẩu thủy sản của thị trường Nhật Bản;
- Nhận định về môi trường cạnh tranh, cơ hội, thách thức và tiềm năng phát triển thị trường Nhật Bản đối với thủy sản Việt Nam
Báo cáo bao gồm năm phần chính, bắt đầu với phần giới thiệu chung Phần II đánh giá tình hình sản xuất và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đặc biệt là thị trường Nhật Bản Phần III cung cấp thông tin về đặc điểm, xu hướng tiêu thụ, giá cả, kênh phân phối và tình hình xuất/nhập khẩu thủy sản tại Nhật Bản Phần IV nêu rõ các quy định thị trường như thuế suất nhập khẩu, thủ tục nhập khẩu, quy định về an toàn thực phẩm, bao bì, nhãn mác và tiêu chuẩn chất lượng Cuối cùng, phần V đánh giá môi trường cạnh tranh, cơ hội và thách thức trong xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Nhật Bản Báo cáo cũng cung cấp nguồn thông tin hữu ích, danh sách nhà nhập khẩu thủy sản tại Nhật Bản và các sự kiện xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Phương pháp thực hiện Báo cáo chủ yếu dựa vào việc thu thập và xử lý thông tin từ các nguồn đáng tin cậy như Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), JETRO, AUSTRADE, và các cơ quan thương mại Việt Nam Các tổ chức như Cục Xúc tiến thương mại, Tổng cục Hải quan Việt Nam, VASEP, và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đóng góp vào quá trình này Kết quả trong Báo cáo được xây dựng dựa trên phần mềm nghiên cứu thị trường “Bản đồ thương mại – Trade Map” của ITC, kết hợp với thông tin và ý kiến từ các chuyên gia và doanh nghiệp thông qua hội thảo và tọa đàm xúc tiến thương mại.
Nhóm sản phẩm nghiên cứu
Báo cáo này tập trung nghiên cứu nhóm sản phẩm thủy sản, bao gồm các mặt hàng thủy sản tươi sống và chế biến, thuộc các chương 03 và 16 trong Hệ thống phân loại HS Các mặt hàng này được thống kê với các mã HS tương ứng.
Bảng 1: Các mặt hàng thủy sản
Mã hàng Mô tả hàng hoá
0302 Cá, tươi hoặc ướp lạnh, trừ Phi lê cá (fillets) và thịt cá khác thuộc nhóm 03.04
0303 Cá đông lạnh, trừ Phi lêcá (fillets) và các loại thịt cá khác thuộc nhóm
0304 Phi lêcá (fillets) và các loại thịt cá khác (băm hoặc không băm), tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh
Cá sấy khô, muối hoặc ngâm nước muối, cùng với cá hun khói, có thể đã hoặc chưa được làm chín, là những sản phẩm chế biến từ cá Ngoài ra, bột mịn, bột thô và bột viên từ cá cũng là những lựa chọn phù hợp để sử dụng làm thức ăn cho con người.
Động vật giáp xác bao gồm các loại đã hoặc chưa bóc mai, vỏ, có thể sống, tươi, ướp lạnh, đông lạnh, sấy khô, muối hoặc ngâm trong nước muối Các sản phẩm này cũng có thể là động vật giáp xác chưa bóc mai, vỏ, đã được hấp chín hoặc luộc chín trong nước, và có thể được chế biến bằng cách ướp lạnh, đông lạnh, sấy khô, muối hoặc ngâm nước muối Ngoài ra, bột thô, bột mịn và bột viên từ động vật giáp xác cũng rất phù hợp để sử dụng làm thức ăn cho con người.
Động vật thân mềm, bao gồm cả những loại đã hoặc chưa bóc mai, vỏ, có thể được cung cấp dưới dạng sống, tươi, ướp lạnh, đông lạnh, sấy khô, muối hoặc ngâm nước muối Ngoài ra, các loại động vật thuỷ sinh không xương sống khác, ngoại trừ động vật giáp xác và thân mềm, cũng có thể được chế biến tương tự Bột thô, bột mịn và bột viên từ động vật thuỷ sinh không xương sống, không bao gồm động vật giáp xác, là những sản phẩm thích hợp để sử dụng làm thức ăn cho con người.
Động vật thủy sinh không xương sống, ngoại trừ động vật giáp xác và động vật thân mềm, có thể được chế biến dưới nhiều hình thức như sống, tươi, ướp lạnh, đông lạnh, làm khô, muối hoặc ngâm nước muối Ngoài ra, động vật thủy sinh không xương sống cũng có thể được hun khói, có thể đã hoặc chưa được nấu chín trước đó Các sản phẩm như bột mịn, bột thô và viên từ động vật thủy sinh, không bao gồm động vật giáp xác và động vật thân mềm, thường được sử dụng làm thức ăn cho con người.
1604 Cá đã được chế biến hay bảo quản; trứng cá tầm muối và sản phẩm thay thế trứng cá tầm muối chế biến từ trứng cá
1605 Động vật giáp xác, động vật thân mềm và động vật thuỷ sinh không xương sống khác, đã được chế biến hoặc bảo quản
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM
Tình hình sản xuất
Việt Nam sở hữu bờ biển dài 3.260 km và hệ thống sông ngòi phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản Trong suốt 17 năm qua, sản lượng thủy sản của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng với mức trung bình đạt 9,07% mỗi năm.
Chính phủ đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động nuôi trồng thủy sản, giúp sản lượng tăng trưởng liên tục với mức bình quân đạt 12,77%/năm, đóng góp quan trọng vào tổng sản lượng thủy sản quốc gia Tuy nhiên, sản lượng thủy sản từ khai thác tự nhiên chỉ tăng trưởng trung bình 6,42%/năm, chủ yếu do sự cạn kiệt nguồn lợi và kỹ thuật khai thác chưa được cải thiện.
Biểu đồ 1: Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản từ năm 1995 - 2016
Nguồn: Tổng cục Thủy sản Việt Nam, 12/2016
Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Thủy sản, tổng sản lượng thủy sản sản xuất năm
2016 đạt hơn 6,726 triệu tấn, tăng 2,5% so với năm 2015
Năm 2016, sự cố ô nhiễm do công ty Formosa xả thải ra biển đã buộc ngư dân ở các tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ ngừng đánh bắt trong nhiều tháng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động khai thác thủy sản tại đây và cả nước Dù vậy, sản lượng khai thác thủy sản ở các tỉnh khác vẫn duy trì mức cao, giúp tổng sản lượng thủy sản cả nước đạt 3.076 nghìn tấn, tăng 3% so với năm 2015 Trong đó, khai thác biển đạt 2.876 nghìn tấn, tăng 2,21% so với năm trước, trong khi khai thác nội địa ước đạt 200 nghìn tấn.
Theo báo cáo địa phương, sản lượng cá ngừ của ba tỉnh trọng điểm miền Trung trong năm 2016 đạt khoảng 17.652 tấn Cụ thể, Bình Định sản xuất 9.368 tấn, tăng 5% so với năm 2015; Khánh Hòa ước đạt 4.072 tấn, giảm 12% so với cùng kỳ năm trước; và Phú Yên ước đạt khoảng 4.212 tấn, tương đương với năm 2015.
2015 Hiện giá cá ngừ đại dương dao động khoảng từ 95.000 - 115.000đ/kg
Trong năm 2016, mặc dù thời tiết không thuận lợi, ngành nuôi trồng thủy sản vẫn duy trì tăng trưởng về diện tích và sản lượng Các đối tượng nuôi chủ lực như tôm nước lợ, cá tra, rô phi và nhuyễn thể gặp nhiều khó khăn do biến đổi khí hậu và giá cả thị trường giảm Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 3.650 ngàn tấn, tăng 1,9% so với năm 2015.
Năm 2016, nuôi tôm nước lợ gặp khó khăn do hạn mặn và dịch bệnh trong 9 tháng đầu năm Tuy nhiên, lượng mưa dồi dào vào cuối năm đã làm giảm độ mặn, dẫn đến sự gia tăng sản lượng thu hoạch trong những tháng cuối năm.
Năm 2016, diện tích thả nuôi tôm nước lợ đạt 683.422 ha, trong đó tôm sú quảng canh và quảng canh cải tiến chiếm 564.078 ha, tôm sú thâm canh và bán thâm canh là 39.344 ha, và tôm thẻ chân trắng là 80.000 ha Nhiều hộ nuôi đã chuyển sang nuôi tôm chân trắng do thời gian nuôi ngắn, lợi nhuận cao và tỷ lệ nuôi thành công cao, dẫn đến diện tích nuôi ngày càng mở rộng Sản lượng tôm nước lợ năm 2016 đạt 680.000 tấn, tăng 3,17% so với năm 2015, trong đó tôm sú nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến đạt 206.106 tấn, tôm sú nuôi thâm canh và bán thâm canh là 79.759 tấn, và tôm thẻ chân trắng đạt 394.135 tấn.
Cả nước hiện có khoảng 160 doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu tôm, chủ yếu tập trung ở miền Trung và Nam Trung Bộ như Khánh Hòa, Phú Yên, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, cùng với Đồng Bằng Sông Cửu Long bao gồm Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, và Kiên Giang Tổng công suất chế biến tôm đạt gần 1 triệu tấn sản phẩm mỗi năm.
Năm 2016, Việt Nam đã xuất khẩu tôm sang 93 thị trường, đạt tổng giá trị gần 3,1 tỷ USD Những thị trường chủ lực cho tôm Việt Nam bao gồm Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Australia, Brazil và Mexico.
Các địa phương đang phát triển chuỗi giá trị cá tra bằng cách hợp tác giữa các hộ nuôi nhỏ lẻ và liên kết với doanh nghiệp cung ứng vật tư cũng như doanh nghiệp chế biến, nhằm giảm thiểu tình trạng mất cân đối cung cầu, giảm chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất Diện tích nuôi cá tra năm 2016 ước đạt 5.050 ha, đạt 99% kế hoạch, với sản lượng thu hoạch ước đạt 1,15 triệu tấn.
Sản lượng cá tra trong năm 2016 ước đạt 1.150 nghìn tấn, giảm 5,6% so với năm 2015, nhưng có sự tăng trưởng vào những tháng cuối năm Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 99,2% tổng sản lượng cả nước, với sản lượng ước đạt 1.189 nghìn tấn, tăng 4,2% so với năm trước Đồng Tháp dẫn đầu với 403,4 nghìn tấn (+0,8%), theo sau là An Giang với 280,5 nghìn tấn (+12,8%) Ngành cá tra đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thu hút hơn 200.000 lao động và có hơn 70 cơ sở chế biến phi lê cá tra đông lạnh, đạt kim ngạch xuất khẩu 1,71 tỷ USD trong năm 2016.
Từ cuối năm 2012, nghề khai thác cá ngừ đại dương bằng câu tay kết hợp ánh sáng gặp nhiều khó khăn do số lượng tàu và sản lượng tăng nhanh, nhưng chất lượng và giá trị sản phẩm lại giảm Sản phẩm cá ngừ dùng để ăn sashimi, có giá trị cao nhất, gặp khó khăn trong tiêu thụ, dẫn đến hiệu quả sản xuất giảm và thua lỗ, ảnh hưởng đến đời sống ngư dân Tình trạng này không chỉ gây thất thoát giá trị và nguồn lợi mà còn ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu cá ngừ Việt Nam, làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
Năm 2016, sản lượng cá ngừ của ba tỉnh trọng điểm miền Trung đạt khoảng 17,6 nghìn tấn, với Bình Định dẫn đầu đạt 9,4 nghìn tấn, tiếp theo là Khánh Hòa và Phú Yên với 4 nghìn tấn và 4,2 nghìn tấn tương ứng Xuất khẩu cá ngừ của cả nước đạt gần 510 triệu USD, tăng 12% so với năm 2015.
Bảng 2: Sản xuất thủy sản năm 2016 Đvt: Sản lượng: 1000 tấn, diện tích: 1000 ha
STT Chỉ tiêu Kế hoạch 2016 Thực hiện
Nguồn: Tổng cục Thủy sản Việt Nam, 12/2016
Tình hình xuất khẩu
Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, năm 2016, thủy sản vẫn giữ vị trí hàng đầu trong ngành xuất khẩu với giá trị đạt 7,05 tỷ USD Tổng sản lượng thủy sản trong năm ước tính vượt 6,7 triệu tấn.
Năm 2016, Hoa Kỳ và Nhật Bản là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong đó xuất khẩu thủy sản sang Hoa Kỳ chiếm 20,4% tổng kim ngạch, đạt 1,44 tỷ USD.
Trong năm 2015, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 11 tỷ USD, tăng 9,7% so với năm trước Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm 15,6% với giá trị 1,1 tỷ USD, tăng 6% Trung Quốc đứng thứ hai, chiếm 9,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, đạt 685,1 triệu USD, tăng 52% Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ tư, chiếm 8,6% với giá trị 608 triệu USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu thủy sản năm 2016 ghi nhận sự tăng trưởng dương so với năm 2015 ở hầu hết các thị trường chính Đặc biệt, xuất khẩu sang Indonesia đạt mức tăng cao nhất là 72%, mặc dù giá trị kim ngạch không lớn Ngoài ra, xuất khẩu sang Trung Quốc cũng tăng mạnh gần 52%, I-rắc tăng 43,5%, và Ucraina tăng 34,3% so với cùng kỳ năm trước.
Bảng 3: Số liệu thống kê sơ bộ xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2016 Đvt: USD, %
Thị trường Năm 2016 Năm 2015 Năm 2016 so với năm 2015
Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam, 12/2016
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Trong năm 2016, giá trị xuất khẩu của ba sản phẩm chủ lực là tôm, cá tra và cá ngừ đều tăng so với cùng kỳ năm trước Trong đó:
Kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt 3,1 tỷ USD trong năm 2016, tăng gần 4% so với năm 2015, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn Theo Tổng cục Hải quan, xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ trong 10 tháng đầu năm 2016 đạt 604,4 triệu USD, chiếm 23,4% tổng kim ngạch xuất khẩu Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu tôm chân trắng lớn nhất của Việt Nam, chiếm 75%, tiếp theo là tôm sú 22% và tôm biển 3% Việt Nam hiện đứng thứ 5 về khối lượng tôm cung cấp cho thị trường Hoa Kỳ, chiếm trên 10% tổng khối lượng tôm nhập khẩu vào nước này.
Trung Quốc là một thị trường xuất khẩu quan trọng cho tôm Việt Nam, đặc biệt trong năm 2016 khi dịch bệnh làm giảm sản lượng tôm chân trắng tại các vùng nuôi trọng điểm của nước này từ 30-40% Sự thiếu hụt khoảng 500.000 – 700.000 tấn tôm đã dẫn đến nhu cầu nhập khẩu tôm tăng cao Thêm vào đó, giá tôm nguyên liệu không ổn định cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến ngành sản xuất và chế biến tôm tại Trung Quốc.
Năm 2016, ngành tôm đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ trong việc chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng nhằm phục vụ xuất khẩu và cung ứng cho thị trường nội địa Sự đa dạng hóa này hứa hẹn sẽ mang lại diện mạo mới cho ngành tôm trong tương lai gần.
Theo dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu tôm của Việt Nam trong năm 2017 sẽ tiếp tục tăng trưởng nhờ nhu cầu nhập khẩu cao và các biện pháp kiểm soát hóa chất, kháng sinh hiệu quả, đảm bảo chất lượng sản phẩm Giai đoạn 2016 - 2018 là thời điểm nhiều hiệp định thương mại mới có hiệu lực, tạo cơ hội cho tôm Việt Nam mở rộng thị phần Đồng thời, sản lượng tôm của các quốc gia như Ấn Độ, Indonesia và Trung Quốc đang giảm, dẫn đến giá tôm có khả năng tăng từ 10 - 15%.
Năm 2016, xuất khẩu cá tra đối mặt với nhiều thách thức lớn, bao gồm sự biến động giá nguyên liệu, áp lực cạnh tranh từ các quốc gia nhập khẩu, và các rào cản phi thuế quan Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các sản phẩm thay thế như cá Alaska Pollock và cá tuyết cũng gây khó khăn cho ngành cá tra.
Năm 2016, ngành nuôi cá tra Việt Nam tiếp tục gặp khó khăn khi giá nguyên liệu biến động lớn và không ổn định, dẫn đến thua lỗ cho người kinh doanh trong suốt 8 năm liên tiếp Đầu ra của cá tra phụ thuộc vào thị trường thế giới, với gần 200 doanh nghiệp tham gia cung cấp sản phẩm, tình trạng bán phá giá vẫn diễn ra Giá cá tra vào đầu năm 2016 là 21.000 đồng/kg, nhưng đến tháng 8 đã giảm xuống còn 18.000 đồng/kg, khiến người nuôi lỗ từ 2.000 - 3.000 đồng/kg Mặc dù giá cá tăng lên 22.500 đồng/kg vào tháng 10, nhưng ngư dân lại không còn cá để bán, cho thấy sự biến động giá cả đã gây thiệt hại nặng nề cho cả người nuôi lẫn doanh nghiệp.
Cá tra Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ nội bộ ngành mà còn từ các quốc gia nhập khẩu Các rào cản phi thuế quan như thuế chống bán phá giá tại Hoa Kỳ và chương trình giám sát dư lượng kháng sinh, chất cấm tại Châu Âu đã tạo ra nhiều thách thức cho ngành cá tra.
Xuất khẩu cá tra Việt Nam năm 2016 ước đạt 1,67 tỷ USD, tăng 7% so với năm 2015, chiếm 24% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản Cá tra Việt Nam đã có mặt trên thị trường quốc tế trong năm này.
Trên toàn cầu có 137 thị trường cá tra, trong đó Hoa Kỳ dẫn đầu với 23% thị phần, tiếp theo là Trung Quốc với 17%, và EU đã giảm xuống vị trí thứ 3 với 16% Dự báo từ Tổng cục Thủy sản cho thấy xuất khẩu cá tra năm 2017 sẽ tăng nhẹ khoảng 4%, đạt trên 1,7 tỷ USD.
+ Xuất khẩu cá ngừ và các sản phẩm hải sản khác
Sau ba năm liên tiếp sụt giảm, thị trường cá ngừ đã phục hồi với mức tăng trưởng 9% trong năm 2016, đạt giá trị 500 triệu USD Hoa Kỳ vẫn là thị trường chính nhập khẩu cá ngừ từ Việt Nam, với giá trị đạt 200 triệu USD Trong phân khúc sản phẩm đông lạnh mã HS 03, cá ngừ vây vàng dạng loin, cắt thanh, fillet hoặc cắt khúc chiếm 52% tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ, trong khi cá ngừ đóng hộp chiếm 27%.
Ngoài nhuyễn thể hai mảnh vỏ, các mặt hàng như cua, ghẹ, mực và bạch tuộc cũng đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản Nhuyễn thể hai mảnh vỏ đang trở thành mặt hàng xuất khẩu được ưa chuộng trên thị trường quốc tế, với tổng giá trị xuất khẩu trong quý III/2016 đạt 19,5 triệu USD, tăng 2,3% Tính đến hết 9 tháng, giá trị xuất khẩu mặt hàng này đạt 60,4 triệu USD, tăng 1,8%.
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản
Trong suốt một thập kỷ qua, Nhật Bản đã trở thành thị trường xuất khẩu thủy sản hàng đầu của Việt Nam, chiếm khoảng 20% tổng giá trị xuất khẩu Theo thống kê của Bộ Công thương, năm 2016, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản đạt 1,098 tỷ USD, tăng 6,18% so với năm 2015.
Bảng 4: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản trong giai đoạn 2012 - 2016 Đvt: triệu USD
Tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước (%) - 2,58 7,47 -13,4 6,18
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 12/2016
Tôm, mực và cá ngừ là ba sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Nhật Bản, chiếm 80% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Tuy nhiên, hiện nay, xuất khẩu cả ba mặt hàng này đều đang giảm, với sự sụt giảm đặc biệt ở mặt hàng tôm.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khó khăn trong xuất khẩu thực phẩm của Nhật Bản không chỉ do thị trường tiêu thụ kém và giá xuất khẩu giảm, mà còn do sự gia tăng áp dụng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm tại quốc gia này.
Hiện nay, các doanh nghiệp thương mại Nhật Bản đang tìm kiếm nguồn nhập khẩu giá rẻ hơn từ các quốc gia như Ấn Độ và Indonesia.
Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang Nhật Bản
Xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Nhật Bản, thị trường nhập khẩu tôm lớn thứ hai của nước ta, đạt 561 triệu USD trong năm 2016, giảm 1,35% so với năm 2015 Việt Nam vẫn duy trì vị trí là nhà cung cấp tôm lớn nhất cho Nhật Bản, chiếm 25% tổng nhập khẩu tôm vào thị trường này, trong khi Thái Lan đứng thứ hai với 398 triệu USD Indonesia và Ấn Độ lần lượt xếp thứ ba và thứ tư với giá trị xuất khẩu đạt 350 triệu USD và 337 triệu USD.
Bảng 5: Các nước xuất khẩu tôm chủ yếu sang Nhật Bản Đvt: nghìn USD
Nhà xuất khẩu Giá trị NK năm
Việt Nam hiện là quốc gia dẫn đầu trong xuất khẩu cá tra sang Nhật Bản, chiếm 99,25% tổng kim ngạch nhập khẩu cá tra năm 2016 Nhật Bản chủ yếu nhập khẩu các sản phẩm cá tra đông lạnh (mã HS 030324), phi lê cá tra tươi hoặc ướp lạnh (mã HS 030432) và phi lê cá tra đông lạnh (mã HS 030462).
Bảng 6: Các nước xuất khẩu cá tra chủ yếu sang Nhật Bản Đvt: nghìn USD
Nhà xuất khẩu Giá trị NK năm
Nhật Bản chủ yếu nhập khẩu cá ngừ từ Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu cá ngừ từ Việt Nam còn rất hạn chế, chỉ chiếm 1,21% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản vào năm 2016.
Chất lượng cá ngừ Việt Nam giảm sút là nguyên nhân chính khiến sản phẩm khó đáp ứng tiêu chuẩn Nhật Bản, đặc biệt là trong việc cung cấp cá ngừ cho sashimi, dẫn đến tiêu thụ khó khăn và hiệu quả sản xuất thấp Điều này không chỉ gây thua lỗ cho ngư dân mà còn làm giảm giá trị và nguồn lợi, ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu cá ngừ Việt Nam, từ đó giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.
Cá ngừ xuất khẩu sang Nhật Bản đang phải đối mặt với mức thuế nhập khẩu cao từ 6,4% đến 7,2% Trong khi đó, cá ngừ từ Thái Lan và Philippines được hưởng mức thuế 0% khi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Bảng 7: Các nước xuất khẩu cá ngừ chủ yếu sang Nhật Bản Đvt: nghìn USD
Nhà xuất khẩu Giá trị NK năm
Theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu mực và bạch tuộc của Việt Nam sang Nhật Bản năm 2016 đạt 109,6 triệu USD, tăng 8,1% so với năm 2015 Nhật Bản hiện là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, chiếm 25% tỷ trọng, tăng so với 23,6% của năm trước.
Riêng năm 2016, kim ngạch xuất khẩu bạch tuộc của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 16,27 triệu USD, tăng 7,46% so với cùng kỳ năm 2015
Bảng 8: Các nước xuất khẩu bạch tuộc chủ yếu sang Nhật Bản Đvt: nghìn USD
Nhà xuất khẩu Giá trị nhập khẩu
Hàn Quốc 26.807.292 25.025.945 -6,65 Đài Loan 23.282.655 22.960.449 -1,38 Đức 20.281.704 22.043.489 8,69
Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất 23.521.357 17.303.606
ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN NHẬT BẢN
Đặc điểm, xu hướng thị trường
Nhật Bản, quốc gia nằm giữa đại dương, có ngành thủy sản phát triển mạnh mẽ từ lâu đời Ngành này không chỉ đóng góp đáng kể cho nền kinh tế mà còn góp phần quan trọng trong việc quảng bá văn hóa thông qua ẩm thực.
Nhật Bản nổi tiếng với truyền thống tiêu thụ cá và thủy sản, với các món ăn như sushi, sashimi và tempura được ưa chuộng toàn cầu nhờ vào giá trị dinh dưỡng cao, ít chất béo và calo thấp Thị trường thủy sản Nhật Bản đa dạng, bao gồm cá vây, thủy sản có vỏ, rong biển ăn được, cùng với các sản phẩm đông lạnh, đóng hộp và đóng gói khác.
Thế hệ trẻ tại Nhật Bản hiện nay đang tiêu thụ cá và sản phẩm thủy sản ít hơn, thay vào đó họ ưa chuộng thịt và thực phẩm chế biến sẵn Khi có nhu cầu về cá, họ thường tìm đến các dịch vụ ăn uống cung cấp sản phẩm dễ chế biến hoặc đã chế biến sẵn Kết quả là, cá nguyên con đang dần được thay thế bởi các dạng philê và sản phẩm cắt sẵn tại các cửa hàng bán lẻ.
Nhu cầu tiêu thụ cá và thủy sản tại Nhật Bản đang giảm, và có khả năng rằng người tiêu dùng Nhật Bản sẽ không còn ưa chuộng các thực phẩm chế biến từ cá trong tương lai Nguyên nhân chính là sự gia tăng nhu cầu đối với ẩm thực Nhật Bản tại các thị trường lớn như Trung Quốc, Bắc Mỹ và Châu Âu, nơi đang diễn ra sự bùng nổ về các món ăn Nhật Bản.
Người tiêu dùng Nhật Bản đang chuyển hướng sang thủy sản giá rẻ hơn nhưng vẫn rất chú trọng đến chất lượng, độ tươi, lợi ích sức khỏe và an toàn thực phẩm Họ ưu tiên các tiêu chuẩn trong nước như “Tiêu chuẩn nông sản Nhật Bản” (JAS) và “Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản” (JIS) hơn là các tiêu chuẩn quốc tế.
Tình hình tiêu thụ
Với quy mô dân số khoảng 127 triệu người, Nhật Bản là thị trường trọng yếu đối với các sản phẩm cá và thủy sản
Nhật Bản dự báo sẽ là một trong số ít quốc gia chứng kiến sự sụt giảm mức tiêu thụ bình quân đầu người các sản phẩm cá và thủy sản Nguyên nhân chính bao gồm tỷ lệ sinh giảm, dân số già hóa và xu hướng "Tây hóa" bữa ăn với sự gia tăng tiêu thụ thịt và sữa Thêm vào đó, thời gian dành cho việc nấu ăn cũng giảm, cùng với giá cả hàng hóa tăng cao.
1 Theo báo cáo của Trade Commissioner Services 2016
2 2016 The State of World Fisheries and Aquaculture, FAO
Giá thủy sản cao hơn so với các loại thực phẩm khác đã dẫn đến sự giảm sút trong tiêu thụ thủy sản tại Nhật Bản Kể từ năm 2006, người Nhật bắt đầu ưa chuộng thịt hơn cá và các loại thủy sản, khiến Nhật Bản trở thành nước nhập khẩu thịt lợn lớn nhất Đến năm 2016, lượng tiêu thụ thịt đã vượt xa lượng tiêu thụ cá hơn 30%, cho thấy khoảng cách tiêu thụ giữa hai loại thực phẩm này ngày càng gia tăng.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu chủ yếu cho nhiều sản phẩm thủy sản và giáp xác như cá hồi, sò điệp và tôm hùm Các sản phẩm tiện lợi và chế biến sẵn đang có triển vọng tiêu thụ tốt tại đây Những chiến dịch tuyên truyền về sức khỏe người tiêu dùng đang làm tăng sự quan tâm trở lại đối với sản phẩm thủy sản, góp phần thay đổi cách thức bán và đóng gói cá cũng như các loại thủy sản khác.
Tình hình giá cả
Nhu cầu toàn cầu về sản phẩm cá và thủy sản, đặc biệt tại các nước phương Tây và Trung Quốc, đã gia tăng, trong khi nguồn cung giảm, dẫn đến xu hướng tăng giá thủy sản trong năm 2016 Thêm vào đó, sự suy yếu của đồng Yên so với đồng Đô la Mỹ cũng góp phần làm tăng giá.
Theo thống kê tháng 12/2016, giá bán lẻ cá ngừ tại Tokyo đạt 413 Yên/100g, tăng so với 405 Yên/100g cùng kỳ năm 2015 Giá bán lẻ cá song tại Tokyo và Osaka cũng có sự biến động đáng chú ý.
Giá bán lẻ của một số loại thủy sản tại Nhật Bản đã tăng so với cùng kỳ năm 2015, với giá cá ngừ đạt 99 Yên/100g tại Tokyo và 92 Yên/100g tại Osaka, tăng lần lượt 13,8% và 2,2% Cá hồi cũng ghi nhận mức giá cao, với 297 Yên/100g tại Tokyo và 289 Yên/100g tại Osaka, tương ứng tăng 3,8% và 10,7% so với tháng 12/2015 Thông tin chi tiết về giá bán lẻ của các loại thủy sản khác được trình bày trong bảng bên dưới.
Bảng 9: Giá bán lẻ một số loại thủy sản tại Nhật Bản Đvt: Yên/100g
Cá mòi Cá bơn Mực nang Bạch tuộc Tôm
Tokyo Osaka Tokyo Osaka Tokyo Osaka Tokyo Osaka Tokyo Osaka
Nguồn: Cục Thống kê – Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản, 1/2017
Giai đoạn 2014 – 2016, thị trường Nhật Bản chứng kiến sự biến động về lượng và giá bán của một số sản phẩm thủy sản Bài viết phân tích sự thay đổi này và so sánh lượng bán cùng giá bán của các quốc gia xuất khẩu hàng đầu sản phẩm thủy sản sang Nhật Bản trong cùng thời gian.
- Mực và mực nang đông lạnh:
Biểu đồ 2: Biến động về lượng bán và giá bán của mực và mực nang đông lạnh tại thị trường Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 3 so sánh lượng bán và giá bán của các quốc gia xuất khẩu hàng đầu mực và mực nang đông lạnh sang Nhật Bản trong giai đoạn 2014-2016 Thông qua biểu đồ, có thể thấy sự biến động trong doanh số và giá cả của các sản phẩm này, phản ánh xu hướng tiêu thụ và thị trường hải sản tại Nhật Bản.
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
- Cá ngừ vây xanh phi lê đông lạnh:
Biểu đồ 4: Biến động về lượng bán và giá bán của cá ngừ vây xanh phi lê đông lạnh tại thị trường Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 5 thể hiện sự so sánh giữa lượng bán và giá bán của các quốc gia xuất khẩu hàng đầu cá ngừ vây xanh phi lê đông lạnh sang Nhật Bản trong giai đoạn 2014-2016 Qua đó, có thể nhận thấy sự biến động về giá và khối lượng xuất khẩu, phản ánh xu hướng tiêu thụ và thị trường cá ngừ tại Nhật Bản trong thời gian này.
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
- Cá hồi Coho phi lê đông lạnh
Biểu đồ 6: Biến động về lượng bán và giá bán của cá hồi Coho phi lê đông lạnh tại thị trường Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 7 trình bày sự so sánh giữa lượng bán và giá bán của các quốc gia xuất khẩu hàng đầu cá hồi Coho phi lê đông lạnh sang Nhật Bản trong giai đoạn 2014-2016 Qua đó, có thể nhận thấy xu hướng biến động về cả số lượng và giá cả của sản phẩm này, phản ánh tình hình thị trường và nhu cầu tiêu thụ tại Nhật Bản.
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 8: Biến động về lượng bán và giá bán của bạch tuộc đông lạnh tại thị trường Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 9: So sánh về lượng bán và giá bán của một số quốc gia xuất khẩu hàng đầu bạch tuộc đông lạnh sang Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 10: Biến động về lượng bán và giá bán của cá thu đông lạnh tại thị trường
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 11: So sánh về lượng bán và giá bán của một số quốc gia xuất khẩu hàng đầu cá thu đông lạnh sang Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
- Tôm nước ấm đông lạnh
Biểu đồ 12: Biến động về lượng bán và giá bán của tôm nước ấm đông lạnh tại thị trường Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 13: So sánh về lượng bán và giá bán của một số quốc gia xuất khẩu hàng đầu tôm nước ấm đông lạnh sang Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
- Tôm chế biến/ bảo quản
Biểu đồ 14: Biến động về lượng bán và giá bán của tôm chế biến/ bảo quản tại thị trường Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Biểu đồ 15: So sánh về lượng bán và giá bán của một số quốc gia xuất khẩu hàng đầu tôm chế biến/ bảo quản sang Nhật Bản giai đoạn 2014-2016
Nguồn: GLOBEFISH Monthly Trade Statistics, FAO, 11/2016
Tình hình sản xuất, xuất/ nhập khẩu
Nhật Bản là quốc gia đứng thứ hai thế giới về nhập khẩu thủy sản, chỉ sau Hoa Kỳ, và cũng là nước có mức tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người cao nhất với 67kg/người/năm Người Nhật rất coi trọng nguồn protein từ thủy sản, với hàng trăm lễ hội diễn ra trong năm, mỗi lễ hội thường có các món ăn từ tôm cá Năm 2016, kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản đạt 13,59 tỷ USD, tăng 4,45% so với năm trước Nguồn cung thủy sản của Nhật Bản rất đa dạng, với sản phẩm nhập khẩu từ 123 quốc gia khác nhau Trung Quốc là đối tác cung cấp lớn nhất, chiếm 18,15% tổng kim ngạch, tiếp theo là Hoa Kỳ (9%), Liên bang Nga (7,54%), Chile (7,42%), Na Uy (7%), Thái Lan (6,93%) và Việt Nam (6,39%).
Bảng 10: Nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản theo nước và vùng lãnh thổ từ năm
Trong thời gian gần đây, Nhật Bản đã tăng cường nhập khẩu cá đông lạnh nguyên con và cá sống với khối lượng lớn, cùng với sự gia tăng nhập khẩu các sản phẩm thủy sản thân mềm, cho thấy nhu cầu tiêu dùng đang tăng cao Đặc biệt, Nhật Bản hiện đứng thứ hai sau Trung Quốc về nhập khẩu tôm từ Việt Nam, trong đó tôm thẻ chân trắng chiếm 55%, tôm sú chiếm 25%, và phần còn lại là tôm biển.
Năm 2016, nhu cầu tiêu thụ thủy sản tại Nhật Bản chưa phục hồi như ở thị trường Hoa Kỳ, do đồng Yên mất giá và đồng USD tăng, dẫn đến giá cả giảm ở phân khúc bán lẻ Nhiều dịch vụ thực phẩm đã loại bỏ tôm khỏi thực đơn do giá cao và chưa đưa trở lại như trước Mặc dù khối lượng nhập khẩu tôm của Nhật Bản có thể tăng nhẹ trong năm 2016, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình của các năm trước.
Bảng 11: Nhập khẩu thủy sản của Nhật Bản theo mã HS từ năm 2010 – 2016 Đvt: nghìn USD
Mã HS Tên sản phẩm 2012 2013 2014 2015 2016
0304 File cá và các loại thịt cá tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh
0306 Động vật giáp xác đông lạnh 3.071.167 2.817.406 2.739.980 2.235.286 2.458.089
1604 Cá đã được chế biến, trứng cá tầm muối, 1.907.154 1.586.488 1.458.996 1.439.740 1.443.869
1605 Động vật giáp xác, thân mềm, thủy sinh đã được chế biến và bảo quản
0307 Động vật thân mềm đông lạnh 1.498.529 1.281.578 1.110.401 1.087.517 1.146.284
0302 Cá tươi hoặc ướp lạnh 739.111 617.621 515.099 435.741 508.744
0305 Cá sấy khô, muối hoặc hun khói 307.793 270.102 236.932 174.105 180.947
Bảng 12: Nhập khẩu tôm theo mã HS của Nhật Bản Đvt: nghìn USD
Mã HS Sản phẩm 2015 2016 So với năm
160521 Tôm chế biến không đóng hộp kín khí 643.774 629.381 -2,24
030616 Tôm nước lạnh đông lạnh 155.670 167.609 7,67
030611 Tôm hùm đá và tôm biển khác 29.836 31.616 5,97
030622 Tôm hùm tươi, ướp lạnh 21.380 20.776 -2,83
Bảng 13: Nhập khẩu cá tra theo mã HS của Nhật Bản Đvt: nghìn USD
Mã HS Sản phẩm 2015 2016 So với năm
030432 Phi lê cá tra tươi hoặc ướp lạnh - 595 -
030462 Phi lê cá tra đông lạnh 8.616 12.964 50,46
Bảng 14: Nhập khẩu cá ngừ theo mã HS của Nhật Bản Đvt: nghìn USD
Mã HS Sản phẩm 2015 2016 So với năm
160414 Cá ngừ vằn, sọc dưa phile chế biến 622.478 605.572 -2,72
030487 Cá ngừ vằn, sọc dưa phile đông lạnh
030345 Cá ngừ vây xanh đông lạnh 48.719 18.707 -61,60
030343 Cá ngừ vằn, sọc dưa nguyên con đông lạnh
030341 Cá ngừ Albocore đông lạnh 54.973 52.969 -3,65
030342 Cá ngừ vây vàng đông lạnh 153.321 191.532 24,92
Các kênh phân phối
Hệ thống phân phối thủy sản ở Nhật Bản rất phức tạp, bao gồm nhiều khâu trung gian Thông thường, cá và hải sản trải qua 6 giai đoạn phân phối trước khi đến tay người tiêu dùng Tuy nhiên, một số nhà bán lẻ lớn đã tìm cách giảm chi phí bằng cách mua trực tiếp từ nhà sản xuất.
Chợ đầu mối ở Nhật Bản có khoảng 900 chợ chuyên cung cấp hải sản, nơi hải sản được phân loại để chế biến, chăn nuôi hoặc tiêu thụ tươi sống, tùy thuộc vào chất lượng và kích cỡ Giá cả tại các chợ này được xác định dựa trên mục đích sử dụng; cụ thể, giá cá dùng cho chế biến chỉ bằng 50% so với giá cá tươi sống, trong khi giá cá dùng cho chăn nuôi chỉ khoảng 10% giá cá tươi sống.
Các công ty nhập khẩu và thương mại thủy sản tại Nhật Bản thu mua cá và sản phẩm từ thị trường nước ngoài để bán lại trong nước Nichirei là một trong những công ty lớn trong lĩnh vực này, chuyên cung cấp các sản phẩm như tôm hồng, tôm sú và cá hồi Nauy Hiện tại, Nichirei có 11 chi nhánh và 56 trung tâm dịch vụ hậu cần trên toàn quốc.
Trung tâm thương mại bán buôn được tại theo từng địa phương được thành lập bởi
Chính phủ Nhật Bản quản lý việc bán các sản phẩm dễ hỏng như cá và hải sản tươi sống, với giá cả được xác định qua đàm phán trực tiếp hoặc đấu giá công khai Giao dịch thủy sản diễn ra thông qua các nhà bán buôn tại chợ hoặc qua các đầu mối trung gian và người ủy quyền.
Thị trường bán buôn trung gian ở Nhật Bản gắn liền với các nhà bán lẻ lớn, đã phát triển mạnh mẽ từ những năm 90 Sự thống trị của các nhà bán lẻ này đã dẫn đến xu hướng giảm chi phí, đồng thời tối ưu hóa số lượng đầu mối trung gian trong chuỗi cung ứng.
Hệ thống bán lẻ tại Nhật Bản rất đa dạng, bao gồm siêu thị, dịch vụ giao nhận tại nhà và các cửa hàng thủy sản Theo khảo sát của Hiệp hội Thủy sản Nhật Bản, phi lê cá là mặt hàng phổ biến nhất trong các kênh bán lẻ ở quốc gia này.
CÁC QUY ĐỊNH CỦA THỊ TRƯỜNG THỦY SẢN NHẬT BẢN
Thuế nhập khẩu
Hệ thống thuế quan của Nhật Bản được chia thành một số nhóm chính trên cơ sở hình thức áp dụng bao gồm:
- Hệ thống thuế áp dụng phổ cập
- Hệ thống thuế áp dụng đối với các quốc gia thành viên WTO
Hệ thống thuế áp dụng cho các đối tượng được hưởng ưu đãi thuế là tạm thời, đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam và Nhật Bản Những quốc gia này có nhiều chính sách ưu đãi hoặc miễn thuế theo Hệ thống ưu đãi phổ cập GSP (Generalised System of Preferences).
Nhật Bản áp dụng mức thuế suất nhập khẩu thấp hoặc bằng 0% cho nhiều sản phẩm, bao gồm thủy sản và thực phẩm chế biến Thông tin chi tiết về biểu thuế nhập khẩu có thể tìm thấy trên website của Cục Hải quan Nhật Bản Để được hưởng thuế suất ưu đãi, nhà nhập khẩu cần nộp chứng nhận xuất xứ GSP do cơ quan hải quan hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp cho Hải quan Nhật Bản trước khi tiến hành thủ tục thông quan.
Thủ tục nhập khẩu
Hàng hóa nhập khẩu vào Nhật Bản phải tuân thủ hệ thống luật pháp nghiêm ngặt nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, lợi ích kinh tế, và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng và chấp hành đầy đủ các quy định và luật pháp về nhập khẩu tại thị trường Nhật Bản.
Hàng hóa nhập khẩu vào Nhật Bản phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định liên quan, đặc biệt là đối với mặt hàng thủy sản.
- Luật vệ sinh thực phẩm
- Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (JAS)
- Các quy định về dán nhãn sản phẩm
- Luật về trách nhiệm sản phẩm
Luật trách nhiệm sản phẩm áp dụng cho tất cả các sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm nhập khẩu Theo quy định, nếu sản phẩm có khiếm khuyết gây thương tích hoặc thiệt hại tài sản, nạn nhân có quyền yêu cầu nhà sản xuất bồi thường cho các thiệt hại liên quan Luật này nhằm ràng buộc nhà nhập khẩu chịu trách nhiệm, vì việc truy cứu trách nhiệm của nhà sản xuất nước ngoài đối với người tiêu dùng gặp nhiều khó khăn Do đó, việc đòi bồi thường từ nhà sản xuất nước ngoài sẽ do nhà nhập khẩu thực hiện, tách biệt với quy định về trách nhiệm sản phẩm.
Nhà nhập khẩu Nhật Bản cần xin giấy phép nhập khẩu tại Hải quan để tiến hành nhập khẩu hàng hóa Hàng hóa sẽ được kiểm tra, và nếu đáp ứng yêu cầu, nhà nhập khẩu phải thanh toán thuế và các lệ phí cần thiết để nhận giấy phép nhập khẩu.
Theo quy định tại Luật hải quan từ điều 67 đến điều 72, bộ tờ khai hải quan cần được điền đầy đủ thông tin liên quan Nhà nhập khẩu phải khai tờ khai theo mẫu và nộp cho hải quan cùng với các giấy tờ cần thiết.
- Giấy chứng nhận xuất xứ - CO
- Phiếu đóng gói, biên lai cước vận chuyển, giấy chứng nhận bảo hiểm và những giấy tờ liên quan cần thiết
- Giấy phép, giấy chứng nhận mà các quy định, luật khác ngoài luật hải quan yêu cầu (áp dụng theo các quy định, luật liên quan)
- Giấy đề nghị miễn giảm các khoản phí, thuế trong đó mô tả chi tiết các thông tin cần thiết, các quy định, luật liên quan
- Biên lai thuế hải quan (nếu hàng hóa thuộc diện chịu thuế).
Quy định bắt buộc
+ Quy định vệ sinh an toàn thực phẩm
Các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm tại Nhật Bản được quy định trong Luật vệ sinh thực phẩm, áp dụng cho tất cả thực phẩm và đồ uống trên thị trường Doanh nghiệp cần nộp giấy tờ cần thiết khi làm đơn kiểm dịch cho cơ quan kiểm soát thực phẩm nhập khẩu thuộc Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản Kiểm dịch sẽ diễn ra nếu cơ quan kiểm dịch xác định cần kiểm tra tiêu chuẩn an toàn thực phẩm ngay từ bước đầu Nếu không phát hiện vấn đề gì, nhà nhập khẩu sẽ nhận chứng nhận đăng ký và nộp cho hải quan cùng các giấy tờ liên quan Ngược lại, nếu sản phẩm không phù hợp, sẽ có biện pháp như huỷ hoặc trả hàng Do đó, doanh nghiệp Việt Nam cần nắm rõ quy định về vệ sinh thực phẩm để tránh vi phạm.
+ Quy định bao gói, nhãn mác
Nhật Bản nghiêm cấm việc sử dụng rơm rạ làm chất liệu đóng gói hàng hóa Các nhà xuất khẩu cần làm rõ phương thức đóng gói với nhà nhập khẩu Hàng hóa cũng phải được dán nhãn mác theo quy định thương mại.
Nhãn hàng hoá thủy sản và thực phẩm chế biến phải được in bằng tiếng Nhật và tuân thủ theo các luật và quy định sau đây:
- Luật tiêu chuẩn hoá và nhãn mác hàng nông lâm sản
- Luật an toàn vệ sinh thực phẩm
- Luật bảo vệ sức khoẻ
- Luật khuyến khích sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên
- Luật chống lại việc đánh giá cao sai sự thật và mô tả gây hiểu lầm
- Luật bảo vệ sở hữu trí tuệ (ví dụ Luật tránh cạnh tranh không lành mạnh, Luật về bằng sáng chế)
Khi nhập khẩu và bán sản phẩm thủy sản tươi sống, nhà nhập khẩu cần cung cấp thông tin đầy đủ trên nhãn mác sản phẩm, tuân thủ các tiêu chuẩn về nhãn mác thực phẩm tươi sống theo Luật tiêu chuẩn hoá và nhãn mác nông lâm sản.
- Tên và địa chỉ nhà nhập khẩu
Khi nhập khẩu và phân phối sản phẩm thủy sản chế biến, nhà nhập khẩu cần cung cấp thông tin phù hợp với Luật tiêu chuẩn hoá và nhãn mác nông lâm sản, cũng như các quy định liên quan đến thực phẩm chế biến đóng gói trong container theo Luật an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tên sản phẩm phải được in trên nhãn theo đúng quy định của Luật tiêu chuẩn hoá và nhãn mác nông lâm sản, cũng như Luật an toàn vệ sinh thực phẩm.
Các thành phần của sản phẩm cần được ghi chú theo thứ tự giảm dần từ thành phần có hàm lượng cao nhất đến thấp nhất trên nhãn mác Điều này phải tuân thủ theo Luật tiêu chuẩn hóa và nhãn mác nông lâm sản, cũng như Luật an toàn vệ sinh thực phẩm.
Theo Luật an toàn vệ sinh thực phẩm, tên các chất phụ gia phải được liệt kê theo thứ tự giảm dần từ hàm lượng cao nhất đến thấp nhất trên nhãn mác Cần ghi rõ tên và cách sử dụng của tám chất phụ gia như bột ngọt, chất chống ôxy hóa, phẩm nhuộm nhân tạo, chất tạo màu, chất bảo quản, chất làm trắng, chất làm dày/ổn định, và các chất trị nấm Để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng và tránh ngộ độc thực phẩm, việc dán nhãn thành phần là bắt buộc, đặc biệt với sản phẩm chứa tôm cua, và khuyến khích với sản phẩm chứa trứng cá hồi Nếu các thành phần này đã có trong danh sách thành phần chính, không cần dán nhãn bổ sung Tuy nhiên, nếu tên các thành phần không rõ ràng, cần phải có nhãn riêng cho từng thành phần thực phẩm.
Nhãn thủy sản và thực phẩm chế biến cần ghi rõ các thành phần dinh dưỡng và hàm lượng calo, tuân thủ các tiêu chuẩn về dán nhãn dinh dưỡng Thông tin bắt buộc phải bao gồm thành phần dinh dưỡng và cơ cấu thành phần để đảm bảo người tiêu dùng nhận được thông tin đầy đủ và chính xác.
33 dụ, các loại axit amin trong protein) và loại thành phần thực phẩm (ví dụ, các loại axit béo có trong chất béo)
Các thành phần thực phẩm cần được ghi theo thứ tự và đơn vị như sau:
* Hàm lượng calo (kcal hoặc kilocalo)
* Các thành phần dinh dưỡng khác cần ghi trên nhãn
Nhãn mác của các loại thực phẩm dinh dưỡng hoặc các sản phẩm ăn kiêng phải tuân theo các tiêu chuẩn tương ứng và cần có giấy chứng nhận
Khi nhập khẩu và bán thủy sản cùng thực phẩm chế biến, nhà nhập khẩu cần ghi rõ trọng lượng sản phẩm theo Luật đo lường, với trọng lượng tính theo gam trên nhãn mác Sản phẩm phải được ghi chú trọng lượng chính xác, và sự chênh lệch giữa trọng lượng thực tế và số liệu trên nhãn chỉ được phép trong giới hạn quy định.
Hạn sử dụng của sản phẩm cần được ghi rõ trên nhãn theo quy định của Luật tiêu chuẩn hóa và dán nhãn sản phẩm nông lâm sản cũng như Luật an toàn vệ sinh thực phẩm Nhãn hạn sử dụng phải bao gồm thông tin về ngày hết hạn và hạn sử dụng tốt nhất (“best by”) Ngày hết hạn áp dụng cho thực phẩm có chất lượng giảm nhanh trong vòng năm ngày, trong khi hạn sử dụng tốt nhất dành cho thực phẩm có chất lượng không thay đổi trong khoảng thời gian tương tự.
Cách thức bảo quản sản phẩm đảm bảo giữ nguyên hương vị của thực phẩm cho đến hạn
Theo Luật tiêu chuẩn hóa và dán nhãn các sản phẩm nông lâm sản cũng như Luật an toàn vệ sinh thực phẩm, việc ghi rõ “sử dụng tốt nhất” trên nhãn là bắt buộc Các sản phẩm thực phẩm cần có nhãn ngày hết hạn sử dụng phải ghi rõ “bảo quản dưới 10°C”, trong khi những sản phẩm ghi hạn sử dụng tốt nhất cần chỉ dẫn “Tránh ánh nắng mặt trời, giữ ở nhiệt độ phòng” Tuy nhiên, đối với các sản phẩm có thể bảo quản ở nhiệt độ phòng, không cần thiết phải ghi cách thức bảo quản trên nhãn.
Các tiêu chuẩn dán nhãn chất lượng cho thực phẩm chế biến được quy định bởi Luật tiêu chuẩn hóa và dán nhãn sản phẩm nông lâm sản, yêu cầu thông tin về nước xuất xứ, bao gồm tên vùng biển, phải được ghi rõ trên nhãn thực phẩm nhập khẩu Luật này cũng quy định rằng một số loại sản phẩm thủy sản và thực phẩm chế biến cần có thông tin về nước xuất xứ trên nhãn Tuy nhiên, không phải tất cả các loại thực phẩm chế biến đều bắt buộc phải dán nhãn nước xuất xứ.
34 thức để trong ngoặc () theo danh sách thành phần thực phẩm hoặc chỉ rõ nước xuất xứ trong một cột thông tin riêng biệt
- Tên và địa chỉ nhà nhập khẩu
Theo quy định của Luật tiêu chuẩn hóa và dán nhãn các sản phẩm nông lâm sản cũng như Luật an toàn vệ sinh thực phẩm, tên và địa chỉ của nhà nhập khẩu phải được ghi rõ trên nhãn Đối với sản phẩm chế biến tại Nhật Bản sử dụng nguyên liệu nhập khẩu, cần ghi rõ tên và địa chỉ của nhà sản xuất hoặc nhà kinh doanh trên nhãn.
Mô tả sản phẩm không chính xác hoặc gây nhầm lẫn bị cấm theo Luật bảo vệ sức khỏe và các quy định liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm Luật chống cạnh tranh không lành mạnh và Luật thương hiệu Các quy định này áp dụng cho tất cả sản phẩm, không chỉ riêng thực phẩm.
Yêu cầu về chứng nhận và tiêu chuẩn chất lượng
Người tiêu dùng Nhật Bản thường dựa vào dấu chất lượng trên bao bì để quyết định mua hàng, coi đó là sự đảm bảo cho độ tin cậy của sản phẩm Để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản, các nhà xuất khẩu thủy sản cần tìm hiểu về chứng nhận JAS (Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản) và Ecomark, cũng như các quy định xác nhận thực phẩm nhập khẩu, nhằm đảm bảo sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu Sản phẩm được chấp nhận tại thị trường Nhật Bản sẽ có khả năng cạnh tranh tốt hơn ở các thị trường khác.
JAS – Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản
Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (JAS) quy định các tiêu chuẩn chất lượng và đưa ra quy tắc ghi nhãn chất lượng cho thực phẩm Hệ thống JAS hiện nay là cơ sở quan trọng cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn thực phẩm chế biến Danh sách sản phẩm được điều chỉnh bởi luật JAS bao gồm đồ uống, thực phẩm chế biến, dầu ăn, mỡ và các nông lâm sản chế biến Mặc dù không phải tất cả sản phẩm đều nằm trong danh sách này, nhưng tiêu chuẩn JAS vẫn áp dụng cho cả sản phẩm nội địa và sản phẩm nhập khẩu.
Việc sử dụng dấu chứng nhận JAS trên nhãn sản phẩm là hoàn toàn tự nguyện, không bắt buộc các nhà sản xuất và nhà bán lẻ phải sản xuất hoặc kinh doanh sản phẩm đạt tiêu chuẩn JAS.
Quy định tiêu chuẩn môi trường Ecomark
Người tiêu dùng Nhật Bản ngày càng chú trọng đến vấn đề môi trường, với sự khuyến khích từ Cục Môi trường Nhật Bản trong việc lựa chọn các sản phẩm thân thiện với môi sinh Những sản phẩm này, bao gồm cả hàng nội địa và hàng nhập khẩu, được xác nhận bằng dấu hiệu "Ecomark".
35 Để được đóng dấu Ecomark, sản phẩm phải đạt được ít nhất một trong các tiêu chuẩn sau:
- Việc sử dụng sản phẩm đó không gây ô nhiễm môi trường hoặc có nhưng ít
- Việc sử dụng sản phẩm đó mang lại nhiều lợi ích cho môi trường
- Chất thải sau khi sử dụng không gây hại cho môi trường hoặc gây hại rất ít
- Sản phẩm đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường ngoài các cách kể trên
ĐÁNH GIÁ CƠ HỘI THÁCH THỨC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THỦY SẢN VIỆT NAM KHI XUẤT KHẨU SANG NHẬT BẢN
Đánh giá môi trường cạnh tranh cho doanh nghiệp thủy sản Việt Nam
Nhật Bản được coi là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, với các mặt hàng chủ yếu như tôm, cá ngừ, mực, lươn, surimi và cua Hầu hết sản phẩm thủy sản Việt Nam đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản, tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các nước như Ấn Độ và Indonesia, vốn có thế mạnh trong xuất khẩu thủy sản Bên cạnh đó, chất lượng sản phẩm thủy sản Việt Nam chưa đạt tiêu chuẩn cao và chủng loại còn hạn chế, khiến việc cạnh tranh với các nước như Australia, Nauy và Chile trở nên khó khăn hơn Báo cáo này sẽ phân tích tình hình cạnh tranh của ba sản phẩm thủy sản xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản.
Gần 10 năm qua, Nhật Bản là thị trường nhập khẩu tôm quan trọng nhất của Việt Nam Nhưng nhu cầu thị trường nước này lại có sự suy yếu khi sản lượng và giá trị nhập khẩu trong một vài năm qua liên tục giảm.Tại Nhật Bản, Việt Nam là nước xuất khẩu tôm lớn nhất Giá bán tôm Việt Nam tại thị trường này cũng cao nhất và duy trì tốt, thường cao hơn nguồn khác 10 - 14% Theo Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJFTA) được ký năm 2008, mặt hàng tôm đông lạnh được miễn thuế khi xuất sang Nhật, đây là lợi thế rất lớn của Việt Nam so với nước khác
Trong thời gian qua, tôm xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ tôm giá rẻ của các nước như Ấn Độ và Indonesia Khủng hoảng kinh tế và sự mất giá của đồng yên đã khiến các nhà nhập khẩu Nhật Bản ưu tiên lựa chọn nguồn cung tôm giá rẻ Do chi phí sản xuất gia tăng, tôm Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc cạnh tranh về giá với các đối thủ từ Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan và Trung Quốc trên thị trường Nhật Bản.
Kể từ năm 2013, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang Nhật Bản đã liên tục giảm, từ vị trí thứ 3 xuống thứ 4 và có khả năng rơi xuống thứ 5 vào cuối năm nay Theo Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), nguyên nhân chính là do mức thuế nhập khẩu cá ngừ vào Nhật Bản khá cao, khoảng 6,4-7,2%, trong khi các đối thủ như Thái Lan và Philippines chỉ phải chịu mức thuế 0%.
Giá thành sản xuất cao là nguyên nhân khiến giá chào bán của các doanh nghiệp Việt Nam thường cao hơn so với các doanh nghiệp Trung Quốc, Indonesia và Philippines Điều này tạo ra khó khăn trong việc cạnh tranh của cá ngừ Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Nhật Bản hiện đang là quốc gia nhập khẩu cá ngừ tươi sống đông lạnh lớn nhất, tuy nhiên, lượng cá ngừ nhập khẩu từ Việt Nam đang giảm dần do lo ngại về chất lượng không đảm bảo cho việc chế biến sashimi.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu mực và bạch tuộc lớn thứ hai của Việt Nam, chỉ sau Hàn Quốc, với nguồn nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc Việt Nam nằm trong top 5 quốc gia xuất khẩu mực và bạch tuộc sang Nhật Bản, trong khi Thái Lan có giá xuất khẩu cao nhất Nhật Bản đang gia tăng nhập khẩu nhuyễn thể chân đầu để tiêu thụ nội địa, một phần do cơ quan nghề cá Nhật Bản thắt chặt giới hạn khai thác nhằm ngăn chặn tình trạng lạm thác trong vùng biển của mình.
Cơ hội, thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam
Nhật Bản là một trong những thị trường quan trọng nhất cho ngành thủy sản Việt Nam, đóng góp đáng kể vào nguồn ngoại tệ và sự phát triển kinh tế của đất nước Cả Nhật Bản và Việt Nam đều tham gia vào Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu thủy sản Tuy nhiên, doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức khi gia nhập thị trường tiềm năng này.
Theo các chuyên gia ngành chế biến và xuất khẩu thủy sản, TPP mang lại nhiều lợi thế cho các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản Hiệp định này không chỉ giảm thuế nhập khẩu cho sản phẩm thủy sản Việt Nam mà còn hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nhập khẩu nguyên liệu chế biến.
Tôm, mực và cá ngừ là ba mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản, chiếm 80% tổng giá trị xuất khẩu Tham gia TPP, Việt Nam có cơ hội mở rộng thị phần xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản khi thuế nhập khẩu cho tôm, mực và cá ngừ sẽ giảm xuống 0%.
Theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Nhật Bản (VJFTA), thuế suất nhập khẩu đối với tôm hiện dao động từ 1% đến 2%, trong khi các sản phẩm chế biến từ tôm chịu thuế từ 3,2% đến 5,3% Đặc biệt, thuế nhập khẩu cho mực đông lạnh đã được giảm xuống còn 3,5% trong vòng 5 năm kể từ khi FTA có hiệu lực.
Mức thuế xuất khẩu thủy sản của Nhật Bản hiện dao động từ 6,4% đến 7,2%, cao nhất trong khu vực ASEAN Gia nhập Hiệp định TPP mang lại lợi thế lớn cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam, khi thuế sẽ giảm xuống 0%, giúp giảm giá thành sản phẩm Thêm vào đó, việc xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan theo cam kết trong TPP sẽ mở ra cơ hội mới cho xuất khẩu thủy sản Hiện tại, hơn 80% thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản phải qua các nhà bán buôn địa phương, do hàng rào phi thuế quan phức tạp liên quan đến kiểm dịch.
Hiện tại, thuế suất nhập khẩu tại Việt Nam là 15% đối với cá sống và 30% đối với thủy sản chế biến từ Nhật Bản Khi TPP có hiệu lực, các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu nguyên liệu thấp hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chế biến và tái xuất khẩu.
Xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nhật Bản mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là việc đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm Tình trạng vi phạm các tiêu chuẩn này và dư lượng kháng sinh cao trong sản phẩm xuất khẩu là vấn đề nghiêm trọng Theo VASEP, năm 2015, giá trị xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản đã giảm xuống mức thấp nhất trong 5 năm qua, với nguy cơ tiếp tục suy giảm Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân không chỉ do thị trường tiêu thụ kém, giá xuất khẩu giảm và biến động của đồng Yên, mà chủ yếu là do Nhật Bản ngày càng áp dụng nhiều tiêu chuẩn nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm.
Theo VASEP, gần đây, một số lô hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đã bị cảnh báo về dư lượng kháng sinh Enrofloxacin Nhật Bản quy định mức MRL cho tổng dư lượng Enrofloxacin và Ciprofloxacin là 0,01 mg/kg, trong khi EU chỉ quy định mức 0,1 mg/kg, thấp hơn 10 lần so với Nhật Bản Enrofloxacin là kháng sinh phổ biến trong điều trị bệnh nhiễm trùng cho gia súc, gia cầm và thủy sản Quy định MRL nghiêm ngặt của Nhật Bản đã gây ra khó khăn lớn cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong những năm gần đây.
Nhật Bản áp dụng quy định kiểm tra 100% lô hàng thủy sản nhập khẩu từ tất cả các nước, trong đó có Việt Nam, tập trung vào chỉ tiêu kháng sinh mà không phân biệt doanh nghiệp có lịch sử kiểm soát chất lượng tốt hay xấu Điều này dẫn đến việc tăng chi phí lưu kho và lưu bãi do thời gian chờ kết quả kiểm tra, ảnh hưởng tiêu cực đến sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tại thị trường Nhật Bản.
Dư lượng kháng sinh trong sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở mức cao, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc khắc phục tình trạng này trong thời gian ngắn Để nâng cao chất lượng và đáp ứng yêu cầu theo quy định của TPP, các doanh nghiệp cần đầu tư và thời gian dài để cải thiện.
Để nâng cao chất lượng thủy sản, việc tham gia vào chuỗi sản xuất và xuất khẩu là rất cần thiết Tuy nhiên, năng suất và chất lượng nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam vẫn còn thấp, dẫn đến chi phí và giá thành cao, làm giảm khả năng cạnh tranh Các doanh nghiệp trong ngành cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, vì vậy đầu tư cho thương hiệu, marketing và tiếp thị trên thị trường quốc tế vẫn còn hạn chế và yếu kém.
Hiện nay, các doanh nghiệp thương mại Nhật Bản đang tìm kiếm nguồn nhập khẩu giá rẻ từ Ấn Độ và Indonesia Sản phẩm thủy sản của Việt Nam gặp khó khăn về chất lượng và giá cả so với các thị trường xuất khẩu khác Đặc biệt, Việt Nam còn thiệt thòi hơn so với Indonesia và Malaysia, hai quốc gia này nhận được nhiều ưu đãi hơn khi xuất khẩu vào Nhật Bản.
Việc xoá bỏ hàng rào thuế quan qua TPP có thể dẫn đến sự gia tăng nhập khẩu thức ăn nuôi trồng thủy sản, do giá thành giảm, làm tăng sự phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài Hiện tại, doanh nghiệp nước ngoài chiếm tới 70% thị phần thức ăn nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam, khiến chúng ta phụ thuộc vào giá cả và chất lượng sản phẩm Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của thủy sản xuất khẩu Việt Nam, cả về giá và chất lượng.
Khi gia nhập TPP, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, mặc dù thuế suất giảm xuống 0% Điều này là do Việt Nam phải cạnh tranh với các đối thủ như Indonesia và Ấn Độ, nơi có giá thành sản phẩm thấp hơn Cụ thể, nuôi tôm ở Ấn Độ có nhiều lợi thế với giá thức ăn rẻ hơn 30%, giá giống rẻ hơn 50% và tỷ lệ nuôi thành công đạt 70%, trong khi Việt Nam chỉ đạt 30% Kết quả là giá tôm của Ấn Độ thấp hơn từ 1 – 3 USD/kg, tương đương 10 – 30% so với Việt Nam.
Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam
Để tận dụng cơ hội trên thị trường Nhật Bản và vượt qua rào cản kỹ thuật, doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm Việc đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và thích nghi với đặc điểm thị trường là yếu tố quan trọng để tăng thị phần.
Doanh nghiệp cần phát triển chiến lược sản xuất và xuất khẩu bền vững thông qua việc nghiên cứu thị trường một cách toàn diện Việc tìm hiểu các tiêu chuẩn sản phẩm, đặc biệt là an toàn vệ sinh thực phẩm, là yếu tố quan trọng để xây dựng hình ảnh uy tín cho sản phẩm xuất khẩu.
Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản cần cải thiện chất lượng sản phẩm để đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và quy định bảo vệ môi trường của Nhật Bản Đặc biệt, đối với sản phẩm tôm, doanh nghiệp cần đầu tư và nỗ lực kiểm soát Trifluralin, hóa chất dùng trong nuôi tôm Việc này là cần thiết để tăng trưởng xuất khẩu tôm vào thị trường Nhật Bản.
40 thị trường Nhật một cách bền vững
Mặc dù sản phẩm thủy sản sấy khô, ướp và xông khói chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản, nhưng việc bao gói chúng là rất quan trọng Bao bì giúp giữ ẩm và bảo vệ hương vị, đồng thời ngăn ngừa sự gia nhiệt làm nóng sản phẩm, giảm thiểu sự phát triển của vi khuẩn và nấm men.
Doanh nghiệp cần đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm thủy sản chế biến và phát triển các loại thủy sản chủ lực đặc trưng của Việt Nam, nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh trên thị trường.
Để tối ưu hóa xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nhật Bản, cần tăng tỉ trọng hàng thủy sản tươi sống và giảm tỉ trọng hàng đông lạnh, vì hàng tươi sống có giá cao hơn từ 20-25% và phù hợp với xu hướng tiêu dùng của người Nhật, đặc biệt là sản phẩm sashimi Bên cạnh đó, cần chú trọng vào việc nâng cao tỉ trọng hàng thủy sản cao cấp và sản phẩm thủy sản ăn liền để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Các doanh nghiệp chế biến cần tuân thủ quy định về trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường Đối với nhà nhập khẩu Nhật Bản, việc tuân thủ các quy định này là bắt buộc và được kiểm tra, công nhận bởi chính các nhà nhập khẩu.
Để xây dựng thương hiệu và thiết lập mối quan hệ kinh doanh lâu dài với các nhà nhập khẩu Nhật Bản, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần chú trọng đến yêu cầu về bao bì và nhãn mác Thủy sản nhập khẩu vào Nhật Bản phải tuân thủ các tiêu chuẩn đóng gói đặc biệt để phù hợp với hệ thống phân phối bán lẻ Bao bì cần đáp ứng nhu cầu mua sắm nhỏ lẻ của người tiêu dùng và các nhà bán buôn, bán lẻ Thông tin trên bao bì thương mại cần bao gồm thành phần thủy sản, ngày sản xuất, ngày hết hạn và nguồn gốc sản phẩm để đảm bảo tính minh bạch và chất lượng.
Để xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản, các doanh nghiệp cần tuân thủ quy định ghi nhãn thực phẩm nghiêm ngặt Nhãn mác phải cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm, bao gồm mã số và mã vạch theo quy định, nhằm đảm bảo khả năng bán hàng tự động tại siêu thị và hệ thống bán lẻ tự phục vụ.
Việc xây dựng danh mục sản phẩm thủy sản liên kết với thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp xuất khẩu là rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh yêu cầu cao về chất lượng và nguồn gốc sản phẩm từ các nhà nhập khẩu Nhật Bản Họ thường ưu tiên các nhà xuất khẩu có thương hiệu mạnh và có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần lựa chọn một danh mục thủy sản xuất khẩu phù hợp với thương hiệu của mình và từng bước định vị sản phẩm trên thị trường Nhật Bản Cách tiếp cận này không chỉ giúp thiết lập mối quan hệ mua bán lâu dài mà còn gia tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác.
Giải pháp xúc tiến thương mại đối với doanh nghiệp
Việc thực hiện các giải pháp marketing và tổ chức hệ thống phân phối trực tiếp thủy sản
Trên thị trường Nhật Bản, 41 doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc cạnh tranh Do đó, các giải pháp marketing và bán hàng cần chú trọng đến nghiên cứu thị trường, xúc tiến xuất khẩu, quảng bá thương hiệu và cải thiện dịch vụ khách hàng.
Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần tập trung nghiên cứu thị trường Nhật Bản để cải thiện khả năng cạnh tranh Hiện tại, thông tin mà các doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt thường không đầy đủ và chậm trễ, đặc biệt là về các quy định mới liên quan đến chất lượng và kiểm soát thủy sản nhập khẩu của Nhật Bản Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, các doanh nghiệp nên thiết lập mối quan hệ trực tiếp với đối tác nhập khẩu và thực hiện trao đổi thông tin hai chiều Đối với những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn, việc thành lập văn phòng đại diện tại Nhật Bản có thể là một giải pháp hữu ích để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Để thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực tham gia các hội chợ triển lãm tại Nhật Bản nhằm mở rộng mạng lưới đối tác nhập khẩu Bên cạnh đó, tổ chức các chuyến khảo sát thị trường sẽ giúp thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp với các nhà phân phối Nhật Bản Doanh nghiệp cũng nên tận dụng các chương trình kết nối giao thương do các cơ quan xúc tiến thương mại tổ chức để gặp gỡ và giao lưu với các đối tác nhập khẩu tiềm năng Những hoạt động này không chỉ giúp nghiên cứu thực địa mà còn tạo cơ hội để tăng cường kết nối giao thương và đẩy mạnh doanh số bán hàng.
Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các dịch vụ hỗ trợ khách hàng nhập khẩu Nhật Bản, dẫn đến việc thu thập thông tin phản hồi từ nhà nhập khẩu và người tiêu dùng chưa được chuyên nghiệp Chương trình quản trị quan hệ với khách hàng (CRM) chưa được áp dụng, làm hạn chế hoạt động chăm sóc khách hàng Do đó, các doanh nghiệp cần có giải pháp cụ thể để cải thiện khả năng quản trị khách hàng, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ và giải quyết nhanh chóng các vấn đề phát sinh.