Những vấn đề chung về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSNN
Những vấn đề lí luận về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
nguồn vốn ngân sách nhà nước.
1.1 Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ
1.1.1.Khái niệm. Đầu tư phát triển giao thông đường bộ(GTĐB) là 1 phần của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) vì vậy trước khi tìm hiểu hiểu về khái niệm của GTVT ĐB chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm về CSHT.
CSHT, hay cơ sở hạ tầng, bao gồm tất cả các quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của xã hội Nó là tổ hợp các công trình vật chất kỹ thuật, phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống của người dân, được phân bố trên một lãnh thổ nhất định.
Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển, quá trình sản xuất chỉ đơn thuần là sự kết hợp giữa lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động Tuy nhiên, khi lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định, sự tham gia của cơ sở hạ tầng (CSHT) trở nên cần thiết để tối ưu hóa sự phát triển, vì CSHT đóng vai trò quyết định trong kiến trúc thượng tầng và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế CSHT thực sự chỉ bắt đầu phát triển mạnh mẽ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào thế kỷ 19.
CSHT được chia làm 3 nhóm chính: CSHT kỹ thuật, CSHT xã hội, CSHT môi trường :
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm các công trình và phương tiện vật chất thiết yếu cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của xã hội, như hệ thống đường bộ, mạng lưới điện, và dịch vụ bưu chính viễn thông.
CSHT xã hội bao gồm các công trình và phương tiện thiết yếu nhằm duy trì và phát triển các nguồn lực, như cơ sở giáo dục đào tạo, cơ sở khám chữa bệnh, và các cơ sở hạ tầng khác.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Thu Hiền đảm bảo đời sống và nâng cao tinh thần của nhân dân như hệ thống công viên, các công trình đảm bảo an ninh xã hội.
CSHT môi trường là các công trình thiết yếu nhằm bảo vệ môi trường sinh thái và cải thiện chất lượng sống của con người, bao gồm hệ thống xử lý nước thải và rác thải.
Khái niệm GTĐB (Giao thông Đường bộ) là một phần quan trọng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bao gồm toàn bộ hệ thống cầu đường Hệ thống này phục vụ nhu cầu đi lại của người dân, đồng thời hỗ trợ giao lưu kinh tế, văn hoá và xã hội giữa các khu vực và quốc gia.
1.1.2 Đặc điểm đầu tư hạ tầng phát triển giao thông đường bộ.
GTĐB là các kết quả của các dự án đầu tư phát triển nên nó mang đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển là :
GTĐB là các công trình xây dựng có vốn đầu tư lớn và thời gian thu hồi vốn dài, thường cần thông qua các hoạt động kinh tế khác để có thể hoàn vốn Vì vậy, nguồn vốn chủ yếu để phát triển GTĐB ở Việt Nam chủ yếu đến từ các nguồn đầu tư.
Thời kỳ đầu tư kéo dài là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu thực hiện dự án cho đến khi dự án hoàn thành và đi vào hoạt động Nhiều công trình có thể có thời gian đầu tư kéo dài lên đến hàng chục năm.
Thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài từ khi công trình bắt đầu hoạt động cho đến khi hết hạn sử dụng và bị đào thải.
-Các thành quả của hoạt động đầu tư thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được xây dựng
Đầu tư phát triển giao thông đường bộ (GTĐB) yêu cầu nguồn vốn lớn và thời gian đầu tư dài, dẫn đến mức độ rủi ro cao Một trong những nguyên nhân chủ quan là công tác quy hoạch ở nước ta còn nhiều hạn chế, khiến nhiều công trình xây dựng không đạt hiệu quả như mong muốn.
Bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư phát triển thì đầu tư phát triển GTĐB cũng có những đặc điểm riêng của nó:
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
*Đầu tư phát triển GTĐB mang tính hệ thống và đồng bộ:
Tính hệ thống và đồng bộ là đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư phát triển giao thông đường bộ (GTĐB), thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu trong quá trình đầu tư Mọi sai sót từ kế hoạch hóa, lập dự án đến thẩm định dự án đều có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng hoạt động đầu tư và vận hành của toàn bộ hệ thống đường bộ, gây thiệt hại về kinh tế và xã hội Đặc điểm này yêu cầu khi lập kế hoạch và chiến lược phát triển GTĐB, cần xem xét mối quan hệ tổng thể của toàn bộ hệ thống, nhằm đảm bảo tính đồng bộ và hệ thống của mạng lưới GTĐB, tránh tình trạng một vài dự án làm giảm chất lượng toàn bộ hệ thống.
*Đầu tư phát triển GTĐB mang tính định hướng: Đây là đặc điểm xuất phát từ chức năng và vai trò của hệ thống
GTĐB.Chức năng chủ yếu của GTĐB là thoả mãn nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của người dân cũng như của các doanh nghiệp,
GTVT đường bộ được xem là huyết mạch của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo giao thương giữa các vùng miền và thúc đẩy hoạt động kinh doanh Để phát triển GTĐB, cần có một lượng vốn lớn và thời gian đầu tư dài hạn Do đó, việc định hướng lâu dài là cần thiết để đảm bảo hiệu quả đầu tư và giảm thiểu rủi ro GTĐB không chỉ cần mang tính định hướng mà còn phải là ngành tiên phong, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
*Đầu tư phát triển GTĐB mang tính chất vùng và địa phương:
Việc phát triển giao thông đường bộ (GTĐB) chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như đặc điểm địa hình, phong tục tập quán của từng vùng, trình độ phát triển kinh tế và chính sách phát triển của nhà nước Do đó, đầu tư vào GTĐB cần được thực hiện theo cách phù hợp với từng vùng và địa phương để đảm bảo hiệu quả.
GVHD: Ths Phan Thu Hiền nhấn mạnh rằng mỗi vùng và địa phương cần phát huy thế mạnh riêng của mình để đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước Do đó, trong kế hoạch đầu tư phát triển, việc khai thác tiềm năng địa phương là rất quan trọng.
Thực trạng đầu tư phát triển giao thông đường bộ Việt Nam bằng nguồn vốn NSNN
Vị trí của ngành giao thông đường bộ
Đường lối phát triển của Việt Nam trong thời gian tới tập trung vào công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và trở thành một nước công nghiệp Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, và phát huy nội lực kết hợp với nguồn lực bên ngoài là điều cần thiết để đạt được phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững Tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với phát triển văn hoá, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đồng thời bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh quốc phòng Hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá thông qua việc đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao Xây dựng hệ thống GTĐB tiêu chuẩn sẽ giúp kết nối các khu công nghiệp và thương mại, từ đó tăng tốc độ phát triển công nghiệp và các ngành khác.
Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mở ra cả cơ hội và thách thức cho nền kinh tế Để thu hút tối đa nguồn vốn đầu tư, nước ta cần cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, trong đó hạ tầng giao thông đường bộ là yếu tố quyết định Nhiều nhà đầu tư quốc tế nhận định rằng hạ tầng giao thông của Việt Nam là một điểm bất lợi so với các nước trong khu vực, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư Việc cải thiện hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho FDI và thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Thu Hiền hệ thống hạ tầng giao thông vận tải nói chung được hoàn thiện và hiện đại thì Việt
Nam chắc chắn là điểm đến hấp dẫn của mọi nguồn vốn đầu tư.
Với tốc độ tăng trưởng GDP cao hàng năm, đời sống người dân, đặc biệt ở khu vực đô thị, ngày càng được cải thiện Trước đây, việc sở hữu ô tô là một điều xa xỉ, nhưng trong những năm gần đây, lượng ô tô bán ra đã tăng đáng kể và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong tương lai Điều này càng làm nổi bật tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.
Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ là nhiệm vụ chiến lược và cấp bách hiện nay, đồng thời cũng cần thiết cho tương lai.
Thực trạng hệ thống giao thông đường bộ
Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) đã được nhận thức rõ ràng Đảng và Nhà nước đã ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống giao thông.
Hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) của Việt Nam đã phát triển nhanh chóng nhờ vào các chính sách khuyến khích đầu tư từ tư nhân và tổ chức nước ngoài Các quốc lộ như Hà Nội-Lạng Sơn và Hà Nội-Bắc Cạn đã được xây mới và nâng cấp, giúp rút ngắn khoảng cách giữa các tỉnh và nâng cao năng lực vận tải Số vụ tai nạn giao thông trên các tuyến quốc lộ cũng giảm đáng kể Giao thông đô thị và nông thôn, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, đã có nhiều cải thiện, với tình trạng ùn tắc được giảm thiểu nhờ vào các dự án như cầu Ngã Tư Sở và xây dựng đường mới.
Kim Liên mới đã đóng góp quan trọng vào việc cải thiện bộ mặt đô thị Việt Nam Sự phát triển của giao thông nông thôn, với số xã không có đường bê tông ngày càng giảm, đã góp phần đáng kể vào công cuộc xóa đói giảm nghèo tại các vùng nông thôn.
Trong thời gian qua, nguồn vốn ngân sách nhà nước không chỉ chú trọng vào việc tăng cường số lượng mà còn được đầu tư mạnh mẽ vào việc xây dựng các tuyến đường và cầu đạt tiêu chuẩn quốc tế.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Thu Hiền đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế như tuyến Bắc Thăng Long- Nội
Bài, đường cao tốc Pháp Vân, hoàn thành xây dựng hầm đường bộ qua đèo Hải
Vân…hay một số dự án đang tiến hành triển khai như đường Láng Hoà Lạc, tuyến đường Hồ Chí Minh…
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc phát triển hệ thống đường bộ, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục Hiện tại, tổng chiều dài mạng lưới đường bộ của nước ta ước tính trên 222.179 km, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong quản lý và nâng cấp.
Bảng 2.1: Mạng lưới giao thông đường bộ
Nguồn:Cục đường bộ Việt Nam.
Mạng lưới đường bộ của Việt Nam được bố trí hợp lý, nhưng chất lượng còn kém Hiện nay, chỉ có khoảng 570 km quốc lộ đạt 4 làn đường trở lên, trong khi đó, đường có bề rộng 2 làn xe trở lên chỉ chiếm khoảng 62% Phần lớn đường bộ vẫn là loại 1 làn xe với bề mặt đường chỉ từ 3 mét trở xuống.
3.5m.Hệ thống giao thông đường bộ của nước ta vẫn còn chậm phát triển, vừa thiếu lại vừa yếu,hầu hết các con đường chưa đạt tiêu chuẩn kĩ thuật, chưa có đường cao tốc chuẩn: một số đường cao tốc đạt tiêu chuẩn loại Việt Nam như Nội Bài, Nam
Thăng Long hiện chỉ đạt tiêu chuẩn B (Đường cao tốc) theo tiêu chuẩn quốc tế Nhiều tuyến đường vẫn chưa thể thông xe liên tục trong suốt cả năm, đặc biệt là vào mùa mưa khi nhiều đoạn đường không thể sử dụng Hơn nữa, số lượng đường chưa được trải mặt vẫn còn lớn, trong khi số đường đã được trải mặt còn hạn chế.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
STT Tuyến Đơn vị Số lượng Tỷ lệ (%)
Toàn tuyến Km 222.179 hiện chỉ có 19% mặt đường mới, trong khi đó, đường quốc lộ chỉ có 83.5% được trải mặt, cho thấy tình trạng cơ sở hạ tầng giao thông còn nhiều hạn chế.
Bảng 2.2: Phân loại chiều dài đường và mặt đường
Nguồn: Cục đường bộ Việt Nam
*Về đường quốc lộ:Trên quốc lộ hiện nay có khoảng hơn
Việt Nam hiện có 3.800 chiếc cầu với tổng chiều dài hơn 118.000 mét Trong số này, khoảng 920 cầu không an toàn, dài khoảng 43.562 km, chiếm hơn 40% Tổng chiều dài cầu trên các tuyến đường tỉnh và liên tỉnh là 78.059 mét, trong đó cầu không an toàn chiếm 16.645 mét, tương đương 21,32%.
Mặc dù có chiều dài là trên
17.295 km với tỉ lệ đã trải mặt trên
Tỉ lệ đường cao tốc ở nước ta chỉ đạt 83.5%, vẫn còn rất thấp so với nhu cầu phát triển Trong khi đó, nhiều quốc gia trong khu vực có tỉ lệ đường cao tốc cao hơn đáng kể, như Singapore với 4.44% và Hàn Quốc, cho thấy sự cần thiết phải cải thiện hạ tầng giao thông để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Do đó, hệ thống đường quốc lộ tại Việt Nam cần được đầu tư và xây dựng thêm để bắt kịp với các quốc gia trong khu vực.
Số lượng xã chưa có đường đến trung tâm huyện đang giảm dần, hiện nay chỉ còn dưới 200 xã, chiếm khoảng 2% tổng số xã.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Hệ thống đường Đơn vị Đã trải mặt Đá dăm Đường đất Tổng số % trải mặt
Tỉnh lộ Km 11.657 553 9.552 21.762 53.6 Đường huyện
Tổng số Km 42.167 55.744 124.268 222.179 19.0 số 10500 xã, số xã chưa có đường tập trung ở vùng xâu vùng xa.Sau đây là hiện trạng hệ thống giao thông nông thôn:
Bảng 2.3: Hạ tầng giao thông nông thôn
Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính Chất lượng các con đường hiện nay chưa đạt yêu cầu cao, một phần do thiếu vốn từ ngân sách nhà nước và đội ngũ quản lý tại các vùng xa còn yếu Cần khắc phục vấn đề này để nâng cao khả năng giao lưu giữa các vùng và góp phần giảm nghèo.
Tốc độ đô thị hóa ngày càng gia tăng tại Việt Nam đã dẫn đến sự gia tăng số lượng đường đô thị để đáp ứng nhu cầu cấp bách Tuy nhiên, tình trạng hạ tầng đường phố tại các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đang ở mức báo động Hệ thống đường đô thị cũ chưa được nâng cấp đáng kể, với nhiều tuyến đường được xây dựng từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, dẫn đến bề mặt đường hẹp và nhiều điểm giao cắt phức tạp, cụ thể là hơn 1000 điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh và trên 500 điểm tại Hà Nội.
Tình hình huy động vốn NSNN đầu tư phát triển giao thông đường bộ
Để đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, vốn là yếu tố quyết định Quá trình huy động và sử dụng vốn luôn gắn bó chặt chẽ, đặc biệt là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước Số lượng vốn huy động được sẽ ảnh hưởng lớn đến nhu cầu sử dụng vốn đầu tư, và nhu cầu này là cơ sở quan trọng để nhà nước phân bổ và huy động vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ hàng năm.
Công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển giao thông đường bộ (GTĐB) cần gắn liền với cơ chế và chính sách huy động vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển chung, đồng thời phụ thuộc vào nhu cầu vốn và thực trạng kinh tế-xã hội ở từng giai đoạn Để nâng cao nguồn vốn từ ngân sách nhà nước (NSNN), cần áp dụng chính sách huy động tiết kiệm triệt để và sử dụng hiệu quả, bao gồm việc tăng thu từ nhiều nguồn như thuế và phí sử dụng cầu đường Bên cạnh việc tăng thu, cần chú trọng sử dụng tiết kiệm, đặc biệt trong chi tiêu ngân sách Chỉ khi NSNN có tích lũy thặng dư và ngày càng tăng, mới có thể nâng cao nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển, vốn đòi hỏi chi phí lớn.
Tăng thu cho ngân sách nhà nước (NSNN) cần dựa trên việc quản lý chặt chẽ và khai thác hợp lý các nguồn thu theo luật NSNN, nhằm tránh tình trạng trốn thuế và nợ thuế Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường Việt Nam phát triển mạnh mẽ với sự gia tăng số lượng doanh nghiệp, việc áp dụng các chính sách hợp lý để đào tạo đội ngũ chuyên môn quản lý NSNN là rất cần thiết Từ khi thực hiện cải cách kinh tế, tích lũy cho NSNN đã tăng đáng kể, từ 15% năm 1991 lên 39% vào năm 2005, cho thấy tiềm năng phát triển nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Vào năm 2010, tỷ lệ thu phí sử dụng hạ tầng giao thông đường bộ đã tăng lên 45% Để cải thiện các công trình giao thông, cần áp dụng các biện pháp khai thác hiệu quả như quản lý phí cầu đường, thuế trước bạ ô tô, xe máy và thuế xăng dầu Những nguồn thu này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tái đầu tư vào các dự án hạ tầng giao thông khác.
Do yêu cầu vốn lớn cho các công trình hạ tầng giao thông đường bộ, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước (NSNN) không thể đáp ứng đủ Chính phủ đã tiến hành huy động vốn từ các nguồn khác như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình và vay nước ngoài ODA, nhằm phát triển đầu tư hạ tầng Xu hướng này là hợp lý trong bối cảnh NSNN còn hạn hẹp và sẽ góp phần tăng cường nguồn lực cho NSNN Để tối ưu hóa hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cần huy động tối đa các nguồn lực và thực hiện các chính sách đầu tư mạnh mẽ Đến năm 2003, Quốc hội đã thông qua luật Ngân Sách Nhà nước để hỗ trợ mục tiêu này.
Luật sửa đổi ngân sách nhà nước (NSNN) đã tạo ra một cơ sở pháp lý quan trọng, thúc đẩy sự thay đổi trong quản lý ngân sách tại Việt Nam Việc phân cấp quản lý và công khai phân bổ NSNN giúp các địa phương và ngành chủ động hơn trong việc bố trí và sử dụng ngân sách Mỗi năm, các ngành và địa phương xây dựng kế hoạch vốn riêng để phát triển, và chính phủ cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ cân đối ngân sách dựa trên các mục tiêu đã đề ra Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư vào hệ thống hạ tầng giao thông, đặc biệt là giao thông đường bộ, nhờ vào sự chủ động về vốn, từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
Từ năm 2003 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng với mức trung bình 7,5%, cho thấy sự tiến bộ vượt bậc so với giai đoạn trước Cụ thể, vào năm 1990, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội chỉ đạt 5%.
2000 là 6.9%),cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế là các nguồn thu cho NSNN cũng
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Thu ngân sách nhà nước từ thuế doanh nghiệp ngày càng tăng, trở thành nguồn thu chính cho mọi quốc gia Sự gia tăng này không chỉ hỗ trợ ngân sách nhà nước mà còn đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) hàng năm, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống giao thông.
Bảng 2.4: Vốn NSNN cho giao thông đường bộ.
Nguồn: Vụ đầu tư- Bộ tài chính.
Trong những năm qua, vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) đã ổn định và có xu hướng gia tăng Tổng số vốn huy động được trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2008 đạt 35.275,8 tỷ đồng, cao hơn đáng kể so với giai đoạn từ năm 1996 đến 2000.
Cơ chế huy động vốn cho đầu tư phát triển đang có sự thay đổi rõ rệt, với sự khuyến khích từ nhà nước đối với tất cả các nguồn vốn tham gia vào phát triển hạ tầng giao thông, đặc biệt là giao thông đường bộ Điều này mở ra cơ hội cho các nhà đầu tư và thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực này.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Nă m Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tốc độ phát triển định gốc
Tốc độ phát triển liên hoàn
Vốn NSNN phát triển GTĐB
Tốc độ phát triển định gốc
Tốc độ phát triển liên hoàn
Tỷ trọng vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ ngày càng giảm, hiện chỉ chiếm khoảng 25.3% tổng nguồn vốn huy động Trong giai đoạn này, nguồn vốn ODA chiếm 27.5%, trái phiếu 31.7%, tín dụng nhà nước 10.6%, và các nguồn vốn khác là 4.9%.
Cơ cấu vốn đầu tư GTĐB 2003-2008 Đơn vị: tỷ đồng
Theo Vụ Đầu tư - Bộ Tài chính, việc không quá phụ thuộc vào nguồn vốn ngân sách nhà nước hạn chế được coi là một xu hướng phát triển hợp lý Đây là chiến lược mà nhiều quốc gia phát triển đã áp dụng từ lâu và đã thu được những thành công đáng kể.
Tình hình sử dụng vốn NSNN cho phát triển giao thông đường bộ
cho phát triển giao thông đường bộ
2.2.1.Cơ chế quản lý và sử dụng vốn NSNN cho giao thông đường bộ.
Tham gia quản lý và sử dụng vốn
NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng
GTĐB bao gồm các cơ quan từ trung ương đến địa phương và các ban quản lý dự án Ở cấp trung ương, các cơ quan chính gồm Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải, và Kho bạc Nhà nước Trung ương Tại địa phương, các cơ quan chủ yếu là Sở Kế hoạch và Đầu tư cùng Sở Tài chính của các tỉnh.
Các cơ quan kho bạc địa phương sẽ chịu trách nhiệm quản lý dự án dựa trên nguồn vốn Chính phủ sẽ trực tiếp quản lý các dự án trọng điểm quốc gia, trong khi các dự án nhóm A sẽ được Bộ Giao thông Vận tải phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch quản lý Các dự án còn lại sẽ do các tỉnh trực tiếp quản lý.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Nguồn vốn Khối lượng Tỷ lệ (%)
Vốn tín dụng nhà nước 14835.9 10.6
Chu trình quản lý và cấp vốn sẽ được thực hiện tuần tự thông qua các bước sau:
Lập kế hoạch vốn là nhiệm vụ quan trọng đối với các đơn vị trực thuộc cục đường bộ, nhằm xây dựng kế hoạch tài chính phù hợp với chiến lược quốc gia, ngành và từng địa phương Việc này đảm bảo không xảy ra chồng chéo giữa các cấp, đồng thời tránh xung đột với các kế hoạch đầu tư của địa phương Kế hoạch vốn sẽ là cơ sở để phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và hiệu quả nhất.
-Cục đường bộ tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư xây dựng của các đơn vị trực thuộc gửi bộ giao thông vận tải
Bộ Giao thông Vận tải sẽ tổng hợp thông tin và gửi đến Bộ Tài chính cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau đó sẽ trình Chính phủ phê duyệt.
Sau khi chính phủ phê duyệt kế hoạch, Bộ Giao thông Vận tải sẽ phân bổ vốn chi tiết cho từng dự án, dưới sự giám sát của Bộ Tài chính Kế hoạch chuyển vốn sẽ được thông báo cho Kho bạc Nhà nước nhằm kiểm soát thanh toán cho các chủ đầu tư Mỗi dự án sẽ được mở một tài khoản tại Kho bạc để thuận tiện cho việc kiểm tra và thanh toán vốn.
*Sử dụng vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB:
Giao thông đường bộ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tỷ lệ vốn đầu tư cho phát triển giao thông đường bộ chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư của ngành giao thông vận tải và so với tổng vốn đầu tư hàng năm từ ngân sách nhà nước.
Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giao thông vận tải (GTVT) hàng năm, cho thấy sự ưu tiên cao hơn so với các lĩnh vực khác như đường sắt, hàng không và đường thủy Điều này khẳng định tầm quan trọng của hạ tầng GTĐB đối với ngành GTVT và nền kinh tế.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Bảng 2.6: Chi NSNN cho GTĐB 2003- 2008 Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính.
Trong giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam tương đối ổn định và chỉ đến năm
Năm 2008, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh mẽ đến đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ và ngành giao thông vận tải nói chung Dù vậy, chi ngân sách nhà nước cho ngành giao thông vận tải vẫn tăng đều qua các năm, với mức chi năm 2003 là một minh chứng cho sự ổn định trong đầu tư.
13518 tỷ đồng thì đến năm 2007 đã là
17087 tỷ đồng(tức là tăng 26.4% so với năm
Đầu tư vào ngành giao thông vận tải (GTVT) đã tăng lên đáng kể, dẫn đến sự gia tăng trong đầu tư xây dựng cơ bản giao thông đường bộ (XDCB GTĐB) Cụ thể, năm 2003, tổng mức đầu tư đạt 4289,3 tỷ đồng, và đến năm 2007, con số này đã tăng lên 7552,7 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 3263,4 tỷ đồng.
76.08%).Có thể dễ dàng nhận thấy tốc độ tăng đầu tư phát triển vào hạ tầng GTĐB nhanh hơn so với tốc độ tăng vốn đầu tư vào ngành
Giao thông đường bộ là huyết mạch chính của nền kinh tế Việt Nam, vì vậy việc phát triển hạ tầng giao thông luôn được khuyến khích Vốn đầu tư cho hạ tầng GTĐB tăng nhanh nhờ vào chính sách hội nhập kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn 2003-2008 khi Việt Nam gia nhập WTO Điều này đã giúp Việt Nam trở thành một trong những môi trường đầu tư hấp dẫn nhất thế giới nhờ vào sự ổn định chính trị.
Vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ đóng góp một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng thời cũng chiếm một phần quan trọng trong tổng GDP hàng năm của Việt Nam.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
3 Chi XDCB đường bộ/Chi GTVT
Bảng 2.7: Chi NSNN cho GTĐB trong nền kinh tế quốc dân
Bộ tài chính Đơn vị: Tỷ đồng
Tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) ngày càng gia tăng, cho thấy sự hiệu quả trong các khoản đầu tư của nhà nước.
2003 là 59629 tỷ đồng và tăng đều qua các năm đến năm 2007 là 96829 tỷ đồng (bằng
37200 tỷ đồng tương đương 62.3%- tốc độ tăng này là tương đối nhanh).GDP cũng tăng đèu qua các năm, từ năm 2003 đến năm
Năm 2008, GDP đã tăng lên 417.360 tỷ đồng, tương đương với 74% Sự tăng trưởng này phản ánh hiệu quả của nền kinh tế và đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng thời cho thấy những đóng góp quan trọng của ngành giao thông đường bộ.
Ngân sách nhà nước (NSNN) đầu tư vào hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi cho đầu tư phát triển hàng năm Nhà nước nhận thức được hiệu quả to lớn từ các nguồn vốn này, do đó đã duy trì đều đặn đầu tư phát triển hạ tầng hàng năm.
2.2.2 Đầu tư phát triển giao thông đường bộ phân theo lĩnh vự c đầu tư.
2.2.2.1 Đầu tư và xây dựng mới đường bộ. Đây là các dự án chiếm phần lớn vốn đầu tư trong tổng số vốn đầu tư từ
NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng
Thực trạng hạ tầng giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay đang thiếu hụt nghiêm trọng, không đáp ứng được nhu cầu phát triển xã hội trong tương lai Do đó, nhà nước đã chú trọng đầu tư vào việc xây dựng mới hệ thống hạ tầng giao thông để cải thiện tình hình này.
GTĐB đặc biệt là các dự án chất lượng cao.Trong thời gian tới chính phủ đang
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Tỷ lệ Chi NSNN cho
Tỷ lệ chi NSNN cho
Kết quả và hiệu quả đạt được
Đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) trong những năm qua đã đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là trong việc phát triển hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ Đến nay, đã có nhiều kết quả tích cực với hàng trăm cây cầu và con đường mới được xây dựng, cùng với nhiều hạ tầng được nâng cấp, đảm bảo giá trị sử dụng lâu dài.
Hệ thống mạng lưới đường bộ của Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể về cả chất lượng và số lượng Cụ thể, vào năm 2000, cả nước chỉ có khoảng 172.479 km đường bộ, nhưng đến cuối năm 2008, con số này đã tăng lên rõ rệt.
Tính đến nay, tổng chiều dài đường bộ đã đạt 222.179 km, tăng 49.700 km so với năm 2000 Sự phát triển này rõ rệt nhờ vào các hoạt động đầu tư hạ tầng giao thông đường bộ trong giai đoạn 2003-2008, cho thấy những kết quả tích cực so với năm 2000.
Bảng 2.13: So sánh hiện trạng hạ tầng GTĐB 2000 và 2008
Nguồn: Cục đường bộ Việt Nam
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Năm Đường quốc lộ Đường tỉnh lộ Đường huyện Đường xã Đường đô thị
Biểu đồ so sánh hạ tầng GTĐB năm 2000 và 2008
0 Đườn g quốc Đườn g huyệ n Đường đô thị lộ
Biểu đồ cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt về số lượng hạ tầng giao thông đô thị, với chiều dài đường đô thị tăng từ 3.211 km năm 2000 lên 6.654 km vào năm 2008, gấp hơn 2 lần trong 8 năm Chất lượng hạ tầng cũng được cải thiện nhanh chóng, phản ánh quá trình đô thị hóa của đất nước Trong khi số lượng đường quốc lộ, tỉnh lộ và huyện lộ gia tăng, đường xã lại có xu hướng giảm do được nâng cấp thành các tuyến đường lớn hơn.
Số lượng cầu mới cũng đã tăng vọt, tính đến nay toàn hệ thống đã có khoảng
Việt Nam hiện có 28.161 cây cầu với tổng chiều dài khoảng 642.606 mét, trong đó nổi bật là những cây cầu hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế Điển hình là cầu Nhật Tân, cây cầu dây văng dài nhất đang được xây dựng, cùng với nhiều cây cầu đã hoàn thành và đưa vào sử dụng như cầu Thanh Trì và cầu Bắc Giang.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Bảng 2 14: Hiện trạng cầu Việt Nam
Nguồn: Cục đường bộ Việt Nam
Do tính chất đặc thù của nguồn vốn ngân sách nhà nước và đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng giao thông vận tải, hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ không thể được đo lường trực tiếp, mà phải thông qua tác động đến các ngành và lĩnh vực khác.
Hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) được thể hiện rõ qua năng lực vận tải của ngành này, là thước đo chính xác nhất cho hiệu quả đầu tư Mỗi con đường và cầu mới không chỉ làm cho hạ tầng giao thông trở nên đồng bộ hơn mà còn rút ngắn khoảng cách giữa các địa điểm, giảm thời gian di chuyển Điều này khuyến khích lưu thông hàng hóa và vận chuyển hành khách, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa Năng lực vận tải của ngành GTĐB Việt Nam không ngừng gia tăng, thể hiện qua các số liệu cụ thể.
Bảng 2.15: Khối lượng hành khách và hàng hoá được vận chuyển qua đường bộ giai đoạn 2003- 2008.
Nguồn: Tổng cục thống kê.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Luân chuyển(tr người/km
Luân chuyển( tr tấn/km)
Cầu Tổng số Trung ương quản lý
Tỉnh,thành phố quản lý
Bảng 2.16: Chỉ số phát triển vận tải của ngành GTĐB.
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Qua 2 bảng trên có thể thấy được số lượng hành khách và khối lượng hàng hoá được vận chuyển cũng như luân chuyển qua hệ thống hạ tầng GTĐB không ngừng tăng lên qua các năm đặc biệt là khối lượng hàng hoá chủ yếu được vận chuyển bằng đường bộ nhiều hơn hẳn so với các loại đường khác: đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không…Trong giai đoạn 2003-2008 ngành GTVT đường bộ đã rất cố gắng để đáp ứng tối đa nhu cầu của xã hội, đảm bảo thông suốt trên tất cả các tuyến đặc biệt là các chuyến trọng điểm ngay cả khi có sự cố bão lụt, khắc phục đáng kể tình trạng ách tắc tại các thành phố lớn, chất lượng phục vụ ngày càng được nâng cao, xứng đáng với vị trí ưu tiên và các nguồn vốn NSNN tập trung phát triển ngành.
Hiệu quả thứ hai được xem xét đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.Hiệu quả của đầu tư phát triển hạ tầng
Hệ thống giao thông đường bộ (GTĐB) đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam Với hạ tầng GTĐB tốt, việc giao lưu buôn bán và di chuyển giữa các vùng trở nên dễ dàng hơn, giúp hàng hóa nhanh chóng đến tay người tiêu dùng và góp phần đáng kể vào GDP hàng năm Sự phát triển của hạ tầng GTĐB cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế toàn diện.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Năm Hành khách Hàng hoá
Luân chuyển(tr người/km
Luân chuyển( tr tấn/km)
Ngành công nghiệp tại Việt Nam đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, nhờ vào việc thu hút liên tục các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước Điều này đã tạo ra động lực mạnh mẽ giúp Việt Nam thoát khỏi vòng luẩn quẩn và tiến gần hơn tới mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bảng 2.17: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 2003-2008
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2003-2008 đạt mức cao và ổn định, đứng trong top khu vực và thế giới Chính sách đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ hợp lý cùng với các dự án mới sắp hoàn thành sẽ tiếp tục duy trì tốc độ phát triển hiện tại, mang lại hy vọng cho những kết quả khả quan của nền kinh tế Việt Nam.
Nam trong những năm tiếp theo.
Tốc độ phát triển kinh tế tăng nhanh dẫn đến mức sống của người dân ngày càng cao, điều này cũng phản ánh hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng.
Mạng lưới đường bộ ngày càng hoàn thiện sẽ giúp người dân, đặc biệt là ở các tỉnh vùng sâu vùng xa, dễ dàng di chuyển lên thành phố để tìm kiếm việc làm và cải thiện đời sống Sự phát triển này không chỉ giảm thiểu tình trạng thất nghiệp mà còn là một giải pháp hiệu quả để giải quyết các vấn đề xã hội.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Bảng 2.18: Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng Đơn vị: Nghìn đồng
Nguồn: Niên giám thống kê.
Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập của người dân, đặc biệt ở các vùng có tỷ trọng vốn đầu tư cao như đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ Sự phát triển của mạng lưới đường bộ không chỉ cải thiện kết nối mà còn thúc đẩy kinh tế địa phương, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
2008 đều có mức thu nhập trên 1 triệu đồng/tháng.
Tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả và hiệu quả đã đạt được, đầu tư phát triển hạ tầng
GTĐB vẫn còn nhiều điểm chưa tích cực mà trước tiên thể hiện trong khâu huy động vốn:
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Phân theo thành thị, nông thôn
Phân theo vùng Đồng bằng sông Hồng 353 488 653
Vùng trung du và miền núi phía bắc 233 323 442
Tây Nguyên 244 390 522 Đông Nam Bộ 620 833 1065 Đồng bằng sông Cửu Long 371 471 628
Các chế tài để nâng cao công tác huy động vốn hiện chưa rõ ràng và thiếu các biện pháp nghiêm ngặt, dẫn đến khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển chưa đạt hiệu quả tối đa Công tác thu phí cầu đường và các chi phí lưu hành chưa hoàn thiện, gây ra tình trạng trốn tránh nghĩa vụ tài chính ở nhiều địa phương, khiến nhà nước thất thoát hàng tỷ đồng mỗi năm.
Thiếu kế hoạch huy động vốn dài hạn dẫn đến tình trạng lúng túng trong những giai đoạn cần vốn lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ các dự án, đặc biệt là những dự án có vốn đầu tư lớn Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng cho thấy những tồn tại trong quản lý đầu tư, sử dụng vốn và thực hiện các dự án đường bộ.
Tình trạng đầu tư dàn trải và phân tán đang diễn ra nghiêm trọng, thể hiện qua việc bố trí vốn đầu tư và công tác quy hoạch còn nhiều bất cập Nhiều dự án đã được phân bổ vốn nhưng chưa có quyết định đầu tư, trong khi đó, một số dự án đã được phê duyệt nhưng lại thiếu nguồn vốn thực hiện Tình trạng này dẫn đến khó khăn trong việc phân bổ vốn cho các công trình, gây ra tình trạng thiếu hụt vốn đầu tư.
Công tác đầu thầu hiện gặp một số vấn đề nghiêm trọng, như tình trạng nhà thầu tham gia với mức giá thấp nhằm giành gói thầu, nhưng không đủ năng lực thực hiện, dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đến tiến độ và chất lượng công trình Thêm vào đó, việc thiếu kế hoạch rõ ràng khiến chủ đầu tư tổ chức đầu thầu hạn chế, làm giảm tính cạnh tranh và tăng chi phí thi công xây dựng.
Chất lượng quy hoạch và khảo sát thiết kế còn thấp, thường xảy ra sai sót ở nhiều công trình, buộc phải sửa đổi và bổ sung nhiều lần Điều này dẫn đến việc chi phí quyết toán vượt quá dự tính ban đầu.
Tình trạng nợ đọng vốn thanh toán trong đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ đang diễn ra phổ biến và trở thành vấn đề chung trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản tại Việt Nam trong thời gian qua.
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Những nguyên nhân khách quan chủ yếu của những tồn tại trong công tác huy động và sử dụng vốn đầu tư trong thời gian qua là:
Nhu cầu vốn đầu tư cho giao thông đường bộ tại Việt Nam luôn ở mức cao do hạ tầng còn yếu kém Điều này dẫn đến áp lực lớn trong việc quy hoạch và lập kế hoạch đầu tư, trong khi nguồn ngân sách nhà nước lại có hạn.
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao so với các quốc gia khác, quy mô tổng sản phẩm quốc nội vẫn còn nhỏ, dẫn đến mức tích lũy cho đầu tư chưa cao Do đó, vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng đường bộ chủ yếu đến từ ngân sách nhà nước, trong khi nguồn vốn từ các thành phần kinh tế khác vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ và chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực này Hệ thống hạ tầng đường bộ của Việt Nam vì vậy quá phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, dẫn đến nhiều vấn đề cần được khắc phục.
Thị trường vốn tại Việt Nam mới chỉ hình thành và phát triển trong thời gian ngắn, dẫn đến các công cụ huy động vốn qua thị trường chưa thực sự linh hoạt và hấp dẫn Điều này đã ảnh hưởng lớn đến nguồn vốn tín dụng mà nhà nước phải vay để phục vụ cho các công trình giao thông đường bộ.
Sự phát triển nhanh chóng của phương tiện vận tải tại Việt Nam đã dẫn đến tình trạng chở quá tải diễn ra phổ biến, gây xuống cấp nghiêm trọng cho các tuyến đường Theo Cục Đường bộ Việt Nam, nguồn vốn đầu tư cho việc duy tu, sửa chữa và bảo trì hạ tầng giao thông đường bộ chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu Trong giai đoạn 2003-2006, trung bình mỗi năm, số lượng xe tải tăng gần 3.5 lần, trong khi khả năng chịu đựng của hạ tầng đường bộ không theo kịp.
Việc cho phép tăng gấp đôi năng lực vận tải và thường xuyên chạy trên các tuyến đường yếu đã làm gia tăng đáng kể tốc độ hư hỏng của hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan thì đầu tư vào hạ tầng GTĐB bộc lộ nhiều hạn chế còn do một số nguyên nhân chủ quan:
-Đầu tư 47B GVHD:Ths.Phan
Công tác xây dựng kế hoạch vốn đầu tư dài hạn cho phát triển đường bộ chưa được chú trọng, dẫn đến hạn chế trong việc huy động và sử dụng vốn ngân sách nhà nước hàng năm Việc nâng cao tính tự chủ trong quản lý đầu tư và xây dựng là cần thiết để cải thiện hiệu quả sử dụng nguồn vốn.
Bộ, ngành và các địa phương đều có vai trò quan trọng trong công tác kế hoạch, tuy nhiên, việc trình kế hoạch vốn vượt mức cho phép của các địa phương và ngành thường gây ra khó khăn cho quá trình này.
Sự khác biệt giữa quy hoạch vốn dài hạn và kế hoạch vốn hàng năm là do nhu cầu vốn đầu tư phát triển giao thông vận tải giai đoạn 2001-2010 được Bộ Giao thông vận tải xác định là 227.370 tỷ đồng, tương đương 22.737 tỷ đồng mỗi năm Tuy nhiên, phân tích thực tế vốn đầu tư từ NSNN trong giai đoạn 2003-2008 cho thấy sự chênh lệch rõ rệt Ngoài ra, sự khác biệt cũng tồn tại giữa số vốn huy động cho dự án và số vốn thực tế sử dụng, điều này ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn hàng năm.
Thứ hai, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành liên quan ở Trung ương mà ở đây là
Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng với các cơ quan trung ương và địa phương, vẫn chưa đạt được sự thống nhất chặt chẽ trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư và lập kế hoạch vốn đầu tư.