PHÂN BIỆT GIỮA Ý THỨC VÀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO
Ý thức xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên, là thuộc tính của vật chất có tổ chức cao, cụ thể là bộ óc con người Bộ não không chỉ là trung tâm xử lý thông tin mà còn phản ánh khách quan thế giới xung quanh, tạo nên nền tảng cho sự hình thành ý thức.
- Bộ não người là cơ quan vật chất của ý thức.
- Ý thức là chức năng của bộ óc người.
- Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn.
- Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
- Chỉ có con người mới có ý thức, không một kết cấu vật chất nào khác, kể cả những con vật thông minh.
■ Sự tác động của thế giới khách quan:
- Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất Đặc điểm Nguồn gốc
- Năm 1943: Hệ thống mạng thần kinh (trí tuệ nhân tạo) đầu tiên được phát minh nhưng không thể tạo ra kì tích như hiện nay.
- 10/ 1950 : ý tưởng xây dựng một chương trình AI xuất hiện khi nhà bác học Alan Turing xem xét vấn đề “liệu máy tính có khả năng suy nghĩ hay không?”.
- 1956: Tại hội nghị do Marvin
Minsky và John McCarthy tổ chức tại Mỹ , tên gọi AI được chính thức công nhận và được dùng cho đến ngày nay.
- Thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau.
Phản ánh là quá trình tái tạo các đặc điểm của một hệ thống vật chất này trong một hệ thống vật chất khác, diễn ra thông qua sự tương tác và tác động qua lại giữa chúng.
- Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật - vật tác động và vật nhận tác động.
Ý thức hình thành từ sự phát triển xã hội, phản ánh mối liên hệ chặt chẽ với môi trường xã hội xung quanh Ngay từ đầu, ý thức đã mang tính chất xã hội và phụ thuộc vào các yếu tố xã hội.
Lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, khiến chúng bộc lộ thuộc tính, kết cấu và quy luật vận động của mình Những hiện tượng này sau đó ảnh hưởng đến nhận thức của con người.
- Ý thức được hình thành chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó.
Con người có ý thức nhờ vào khả năng chủ động tác động vào thế giới thông qua các hoạt động thực tiễn Chính những hành động này giúp con người cải tạo môi trường xung quanh, từ đó hình thành nên ý thức và nhận thức về thế giới.
- Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được
Ý thức là khả năng bẩm sinh và nội tại của con người, được hình thành ngay từ khi chào đời Sự xuất hiện của ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa tự nhiên lâu dài và lịch sử trái đất, đồng thời cũng là hệ quả trực tiếp từ thực tiễn xã hội - lịch sử của nhân loại Trong đó, nguồn gốc tự nhiên đóng vai trò là điều kiện cần, còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ Thực tiễn chính là động lực lớn lao thúc đẩy sự hình thành và phát triển của ý thức.
2 KHÁI NIỆM Đặc điểm Ý thức Trí tuệ nhân tạo
Khái niệm - Là một phạm trù được quyết định với phạm trù vật chất , theo đó ý thức là sự phản ảnh thế giới vật
- Trí tuệ nhân tạo hay trí thông minh nhân tạo (AI) là trí thông
Trí tuệ nhân tạo (AI) được phát triển dựa trên trí thông minh của con người, nhằm hỗ trợ và tự động hóa các tác vụ cơ bản, từ đó nâng cao năng suất làm việc Sự phát triển của AI ngày càng sâu sắc, gắn liền với việc cải tạo thế giới thực tế Nhờ vào ý thức này, con người đã sáng tạo ra các thế hệ "người máy thông minh", giúp khắc phục những hạn chế của bản thân.
3 BẢN CHẤT Đặc điểm Ý thức Trí tuệ nhân tạo
Bản chất ❖ Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh,còn vật chất là cái được phản ❖ Trí tuệ nhân tạo không có
6 chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo Ý thức có mối quan hệ biện chứng với vật chất.
Ý thức là đặc tính của vật chất, phản ánh qua bộ não con người, cho phép chúng ta suy nghĩ, học hỏi và giải quyết vấn đề Nó là sự phản ánh sáng tạo từ những trải nghiệm trong mối quan hệ với thế giới xung quanh Nhờ vào ý thức, con người có khả năng lưu trữ thông tin, suy luận, ra quyết định và giao tiếp hiệu quả Trong khi đó, trí tuệ nhân tạo, được lập trình bởi con người, nhằm mục đích tự động hóa các hành vi thông minh tương tự như con người.
- Là một ngành thuộc lĩnh vực khoa học máy tính nghiên cứu về lý thuyết ,ứng dụng của trí tuệ nhân tạo.
Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực khoa học tập trung vào việc tự động hóa các quy trình của máy tính, giúp chúng có khả năng tương tự như con người Công nghệ này cho phép máy tính suy nghĩ, lập luận, giải quyết vấn đề, giao tiếp bằng ngôn ngữ và tiếng nói, cũng như học hỏi và tự thích nghi với môi trường xung quanh.
Cái được phản ánh, tức vật chất, tồn tại khách quan và độc lập với ý thức Ý thức chính là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan Do đó, không thể đồng nhất hay tách rời ý thức khỏi vật chất.
❖ Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Trong quá trình lao động cải tạo thế giới, con người tác động có định hướng và chọn lọc vào sự vật, dựa trên nhu cầu của mình như xây nhà, cày ruộng hay đào mương Do đó, ý thức con người phản ánh sự năng động, sáng tạo và có định hướng đối với thực tại khách quan.
Ý thức không chỉ dựa vào những kiến thức đã có mà còn có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, tưởng tượng ra những điều chưa tồn tại trong thực tế Nó có thể tiên đoán và dự báo tương lai với độ chính xác tương đối, đồng thời cũng có thể hình thành những ảo tưởng và huyền thoại Một số cá nhân thậm chí còn sở hữu khả năng tiên tri, ngoại cảm và thấu thị.
❖ Ý thức là quá trình phản ánh đặc biệt, là sự thống nhất của 3 mặt sau:
- Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản khả năng tự ý thức:
Trí tuệ nhân tạo là loại trí tuệ thông minh biểu đạt các hành vi và mô phỏng cảm cảm xúc thông qua các loại máy móc.
AI phải được lập trình bởi con người mới có khả năng suy nghĩ và hành động.
Trí tuệ máy móc tự động hóa không có khả năng tư duy và không có mục đích riêng, mà chỉ thực hiện các nhiệm vụ được lập trình bởi con người Chúng không thể suy luận, phân biệt giữa dữ liệu tốt và xấu, cũng như không hiểu được ý nghĩa của thông tin mà chúng xử lý.
Trí tuệ nhân tạo, mặc dù không có khả năng nhận thức và tư duy như con người, vẫn có thể kết nối các sự kiện để tạo ra kết quả tổng thể Nhờ vào khả năng phân tích, AI có thể đưa ra những quyết định phù hợp dựa trên dữ liệu đã được xử lý.
> Trí tuệ nhân tạo không có cảm xúc:
Trí tuệ nhân tạo không có cảm xúc bâm sinh như con người để đưa ra các quyết định nhanh chóng về sự vật và hiện tượng.
Sự sáng tạo mang lại cảm nhận sâu sắc cho con người là một dạng trí thông minh phức tạp mà máy móc tự động hóa không thể thay thế.
VAI TRÒ CỦA TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TRONG VIỆC ĐẨY MẠNH CNH-HĐH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
THỰC TRẠNG CNH-HĐH Ở N ƯỚC TA HIỆN NAY
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện trong sản xuất, từ việc chủ yếu sử dụng sức lao động thủ công sang việc áp dụng rộng rãi sức lao động dựa trên sự phát triển của ngành công nghiệp cơ khí.
Hiện đại hóa là quá trình áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và toàn diện trong các hoạt động kinh tế và quản lý xã hội, từ việc chủ yếu sử dụng sức lao động thủ công sang việc áp dụng rộng rãi công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến Mục tiêu của quá trình này là nâng cao năng suất lao động xã hội một cách hiệu quả.
1.2 Thực trạng CNH-HĐH ở nước ta hiện nay
Trong nhiều thập niên qua, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã trở thành xu hướng phát triển chung của nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam Quá trình đổi mới và thực hiện các chủ trương về công nghiệp hóa đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước, giúp Việt Nam thoát khỏi nghèo đói và lạc hậu, đồng thời nâng cao mức sống của người dân Đánh giá về thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam cho thấy đây là sự phản ánh đặc biệt của nhu cầu con người trong việc cải tạo thế giới khách quan Trí tuệ nhân tạo, một sản phẩm tiêu biểu của sự sáng tạo, thể hiện sức mạnh của ý thức và khả năng đổi mới trong thực tiễn.
Nhờ kiên định thực hiện đường lối đổi mới và tăng cường công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đất nước ta đã gặt hái nhiều thành tựu to lớn trong những năm qua.
Cơ cấu ngành công nghiệp đang có sự chuyển biến tích cực với sự gia tăng tỷ trọng của ngành chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng ngành khai khoáng Cụ thể, tỷ trọng GDP của ngành chế biến, chế tạo đã tăng từ 14,6% trong giai đoạn 2011 - 2015 lên 16,2% năm 2016, 17,4% năm 2017 và ước đạt 18,3% vào năm 2018 Ngược lại, tỷ trọng của ngành khai khoáng giảm từ 8,8% trong giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn 7,6% năm 2016, 6,6% năm 2017 và dự kiến chỉ còn 6% vào năm 2018.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã dẫn đến sự chuyển đổi tích cực trong cơ cấu lao động, nhằm phục vụ hiệu quả hơn cho các mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa Cụ thể, vào năm 2015, tỷ lệ lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 45,73%, trong khi khu vực công nghiệp, khai khoáng và xây dựng chiếm 24,19%, và khu vực dịch vụ chiếm 30,08% Đến năm 2020, tỷ trọng lao động trong các khu vực này đã thay đổi lần lượt xuống còn 34,78%, 32,65% và 32,57%.
Sản xuất công nghiệp tại Việt Nam đã liên tục tăng trưởng mạnh mẽ, trở thành ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong nền kinh tế quốc dân với đóng góp gần 30% GDP Từ năm 2006 đến 2017, tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng trung bình 6,79% mỗi năm Năm 2018, khu vực công nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng 8,79%, đóng góp 2,85 điểm phần trăm vào tăng trưởng tổng giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 10,2%, vượt chỉ tiêu kế hoạch 9% đã đề ra Ngành công nghiệp cũng đã trở thành nguồn xuất khẩu chủ lực của đất nước, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
■ lên vị trí thứ 22 trong số các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới vào năm 2018
Các ngành điện tử, dệt may, da - giày, và chế biến thực phẩm đang phát triển mạnh mẽ, với sự gia tăng số lượng doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình và cao Nhiều doanh nghiệp lớn như Tập đoàn VinGroup, Trường Hải, và Thành Công đã khẳng định khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế Trong lĩnh vực chế biến sữa và thực phẩm, Vinamilk và TH cũng nổi bật, trong khi Tập đoàn Hoa Sen, Tập đoàn Hòa Phát, Công ty TNHH Hòa Bình Minh, Công ty thép Pomina, và Công ty CP thép Nam Kim dẫn đầu trong ngành sắt thép và kim khí.
Phát triển công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm và cải thiện đời sống người dân Mỗi năm, ngành công nghiệp cung cấp khoảng 300.000 việc làm mới, giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp và góp phần làm giảm tỷ lệ đói nghèo trong cộng đồng.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, Việt Nam vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục để tăng tốc độ phát triển và hoàn thiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp đang có xu hướng tăng nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu cho quá trình công nghiệp hóa Trong nhiều năm, tỷ trọng của ngành công nghiệp trong GDP không có sự biến đổi lớn, và tốc độ tăng trưởng hiện tại vẫn thấp so với tiềm năng cũng như so với các nước trong khu vực trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa Do đó, mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa cần phải đối mặt với nhiều thách thức để có thể rút ngắn thời gian thực hiện.
Trong thời kỳ Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa, Việt Nam đã xác định các ngành công nghiệp ưu tiên bao gồm điện tử - công nghệ thông tin, chế biến nông - thủy sản, đóng tàu và máy nông nghiệp Những lĩnh vực này không chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo ra cơ hội việc làm và nâng cao năng lực cạnh tranh cho đất nước.
Ngành công nghiệp ô tô và phụ tùng ô tô chưa đạt được mục tiêu dẫn đầu do chưa khai thác triệt để công nghệ và nguồn lực đầu tư nước ngoài Điều này cản trở khả năng tạo tính lan toả và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển hiệu quả Cần có sự đầu tư và phát triển mạnh mẽ hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu khoa học và công nghệ tại Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh mẽ, với số lượng sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn hạn chế Năng lực khoa học và công nghệ quốc gia còn yếu kém, dẫn đến việc ứng dụng các công trình nghiên cứu và bằng sáng chế còn thấp so với các nước khác Thị trường khoa học và công nghệ chưa được hình thành rõ ràng, khiến Việt Nam chủ yếu tham gia vào khâu gia công và lắp ráp trong chuỗi sản xuất quốc tế do nguồn nhân lực rẻ và chuyên môn chưa cao Hầu hết các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam đều có công nghệ thấp, ngoại trừ lĩnh vực điện tử từ các khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
VAI TRÒ CỦA TRÍ TUỆ NHÂN TẠO TRONG VIỆC ĐẨY MẠNH CNH- HĐH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng trở nên quan trọng trong cuộc sống, thay thế nhiều công việc thủ công và tốn sức lao động Các quốc gia trên thế giới đang xây dựng chiến lược phát triển AI như một phần cốt lõi để thúc đẩy kinh tế Tại Việt Nam, Chính phủ coi công nghệ AI là một đột phá quan trọng cần được nghiên cứu và ứng dụng trong các lĩnh vực như kinh tế, giáo dục, y tế và du lịch Nhờ vào những chính sách đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong những năm qua.
❖ 5 lĩnh vực tiêu biểu mà trí tuệ nhân tạo có vai trò lớn trong việc đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta hiện nay :
■ Đối với nền kinh tế.
■ Đối với nền giáo dục.
2.1 Đối với nền kinh tế.
■ *t* Vai trò của trí tuệ nhân tạo đới với nền kinh tế.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đã xuất hiện từ những năm 1950 và hiện nay ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực, đặc biệt là nền kinh tế Năm 2020, đại dịch Coronavirus đã gây ra khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, với hàng triệu người thất nghiệp và nhiều nhà máy phải đóng cửa Trong bối cảnh này, sự quan trọng của AI càng trở nên rõ ràng hơn, khi nó giúp con người thích ứng và tìm kiếm giải pháp trong thời kỳ khó khăn Làn sóng AI đang lan tỏa mạnh mẽ trên toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam.
AI đang đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tương tự như những gì động cơ hơi nước và chip máy tính đã làm trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước.
Trí tuệ nhân tạo đang ngày càng trở thành công cụ quan trọng trong sản xuất và kinh doanh, giúp con người thực hiện các quy định phòng tránh dịch bệnh một cách hiệu quả mà không cần ra ngoài Nhờ vào công nghệ này, các doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động sản xuất và kinh doanh an toàn trong bối cảnh dịch bệnh.
Với sự phát triển không ngừng của văn minh nhân loại, nền kinh tế cần phải tiến lên thay vì lùi bước Do đó, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào phát triển kinh tế trở thành một yếu tố thiết yếu và không thể thiếu.
Nhiều startup Việt Nam, bao gồm cả những công ty do người Việt sáng lập, đang tích cực tham gia vào lĩnh vực AI, không chỉ các tập đoàn lớn Một số trong số đó, như ELSA Speak và Harrison-AI, đã ghi dấu ấn trên thị trường quốc tế Mặc dù số vốn đầu tư vào các startup công nghệ Việt Nam giảm mạnh do tác động của đại dịch COVID-19, năm ngoái vẫn đạt hơn 451 triệu USD, theo báo cáo về đổi mới sáng tạo và đầu tư công nghệ tại Việt Nam.
Nhiều chuyên gia AI tài năng của Việt Nam đang trở về quê hương, góp phần vào sự phát triển công nghệ AI nhờ vào các khoản đầu tư mạnh mẽ từ các tập đoàn lớn như FPT, Viettel, VNPT và Vingroup.
■ o Theo một dự báo: “AI có thể đóng góp 12% cho GDP của Việt Nam vào năm 2030”- vị chuyên gia của Cục Tin học hóa nói.
■