1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

101 23 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Lợi Của Người Gửi Tiền Tại Các Tổ Chức Tín Dụng
Tác giả Huỳnh Anh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thanh Bình
Trường học Trường Đại Học Luật TP Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sỹ
Năm xuất bản 2010
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 101
Dung lượng 859 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG (13)
    • 1.1. Tổ chức tín dụng và hoạt động của tổ chức tín dụng (13)
      • 1.1.1. Khái quát về tổ chức tín dụng (13)
      • 1.1.2. Các hoạt động của tổ chức tín dụng (15)
    • 1.2. Khái quát tiền gửi (22)
      • 1.2.1. Khái niệm tiền gửi (22)
      • 1.2.2. Các hình thức tiền gửi (23)
    • 1.3. Vai trò của tiền gửi (25)
      • 1.3.1. Đối với người gửi tiền (25)
      • 1.3.2. Đối với tổ chức tín dụng (26)
      • 1.3.3. Đối với nền kinh tế (27)
    • 1.4. Người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng (30)
      • 1.4.1. Khái quát về người gửi tiền (30)
      • 1.4.2. Phân loại chủ thể gửi tiền (31)
    • 1.5. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền (33)
      • 1.5.1. Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức tín dụng và người gửi tiền (34)
      • 1.5.2. Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền từ những rủi ro của hoạt động tài chính ngân hàng (0)
      • 1.6.1. Quyền được tạo thuận lợi khi gửi tiền và rút tiền (38)
      • 1.6.2. Quyền được trả đầy đủ, đúng hạn gốc và lãi mọi khoản tiền gửi (39)
      • 1.6.3. Quyền được đảm bảo bí mật thông tin tiền gửi (số dư tài khoản, số tài khoản,. .), an toàn tài khoản (39)
      • 1.6.4. Quyền được cung cấp thông tin về tiền gửi: lãi suất, số dư, (0)
      • 1.6.5. Quyền định đoạt tiền gửi, để lại di sản thừa kế (44)
      • 1.6.6. Quyền được bảo hiểm chi trả khi tổ chức tín dụng gặp rủi ro (45)
      • 1.6.7. Quyền khởi kiện tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm hợp đồng đã cam kết theo (45)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN (47)
    • 2.1. Quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền (47)
      • 2.1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền (47)
      • 2.1.2. Thực tiễn pháp luật điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền (48)
    • 2.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền (84)
      • 2.2.1. Hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền ................................................................................................................................................................ 78 2.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền .............................................................................................................................................................................. 86 KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................................................................. 8 DANH MỤC T ÀI LIỆU THAM KHẢO (0)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Tổ chức tín dụng và hoạt động của tổ chức tín dụng

1.1.1 Khái quát về tổ chức tín dụng

Khi xã hội phát triển, nhu cầu trao đổi sản phẩm dẫn đến sự ra đời của hàng hóa và sản xuất hàng hóa Sự hình thành này đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện của tiền tệ và ngành kinh doanh tiền tệ Các tổ chức tín dụng (TCTD) đã được hình thành để thu nhận vốn nhàn rỗi và cung cấp tín dụng cùng các dịch vụ tiền tệ khác Hiện nay, TCTD tồn tại dưới nhiều hình thức và tên gọi khác nhau, với nghiệp vụ kinh doanh ngày càng đa dạng và phức tạp, bao gồm cả các loại hình kinh doanh mới như chứng khoán và bảo hiểm bên cạnh các loại hình truyền thống.

Hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia, do đó, các quốc gia đều thiết lập khung pháp lý để điều chỉnh hoạt động của TCTD Tại Việt Nam, Luật Các TCTD 1997, được sửa đổi và bổ sung năm 2004, định nghĩa tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định pháp luật khác để thực hiện hoạt động ngân hàng.

Theo quy định, TCTD là doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, chủ yếu là nhận tiền gửi và cấp tín dụng Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều tổ chức được gọi là TCTD không thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân hàng như định nghĩa, tức là không đồng thời thực hiện cả "kinh doanh tiền tệ" và "dịch vụ ngân hàng".

Xuất phát từ thực tế trên, Luật Các TCTD 2010, định nghĩa TCTD như sau:

“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng”.

So với định nghĩa TCTD của Luật Các TCTD 2004 thì Luật Các TCTD 2010 định nghĩa phù hợp hơn Các doanh nghiệp thực hiện một hoặc một số hoạt động

NH cũng được xem là TCTD, TCTD không nhất thiết phải hoạt động đồng thời tất cả các nghiệp vụ ngân hàng.

Tổ chức tín dụng (TCTD) được xác định là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng Tuy nhiên, phạm vi hoạt động của từng TCTD có thể khác nhau, phụ thuộc vào hình thức tổ chức và loại hình TCTD Do đó, một TCTD có thể thực hiện một hoặc nhiều hoạt động ngân hàng khác nhau.

Theo luật hiện hành, căn cứ vào phạm vi hoạt động, TCTD gồm các loại: TCTD là NH và TCTD phi NH Cụ thể 5 :

Ngân hàng là tổ chức tín dụng thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân hàng cùng với các dịch vụ kinh doanh liên quan Dựa trên tính chất và mục tiêu hoạt động, ngân hàng được phân loại thành nhiều loại hình như ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.

Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức thực hiện các hoạt động ngân hàng như kinh doanh chính, nhưng không được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn hay cung cấp dịch vụ thanh toán Các tổ chức này bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.

1.1.1.2 Đặc điểm của tổ chức tín dụng

Từ khái niệm TCTD có thể thấy TCTD có những đặc điểm sau:

- Một là, TCTD là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.

Giống như các doanh nghiệp khác, tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động với mục tiêu lợi nhuận Tuy nhiên, đối tượng kinh doanh chính của họ không phải là hàng hóa thông thường, mà là tiền tệ - một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò là vật ngang giá chung trong các giao dịch và chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố chính trị và xã hội.

TCTD, hay tổ chức tín dụng, là doanh nghiệp chuyên hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, với các chức năng chính bao gồm nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản.

Từ những hoạt động này dẫn đến những nét rất riêng biệt của TCTD.

Tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động dựa trên nguyên tắc "đi vay để cho vay", tức là nguồn vốn cho vay của TCTD chủ yếu được huy động từ khách hàng.

Theo Khoản 2 và Khoản 3 Điều 20 Luật Các TCTD 2004, các hình thức huy động vốn chủ yếu của tổ chức tín dụng bao gồm nhận tiền gửi từ khách hàng, phát hành trái phiếu ngân hàng, vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác và vay từ Ngân hàng Nhà nước trên thị trường liên ngân hàng.

Hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD) tiềm ẩn nhiều nguy cơ và rủi ro hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác Bản chất của TCTD là cho vay vốn mà họ đã huy động được nhằm thu lợi nhuận, nhưng việc thu hồi vốn chỉ có thể thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định Hơn nữa, hiệu quả và mục đích sử dụng vốn của người vay cũng ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả.

Hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định sự tăng trưởng hoặc suy thoái của nền kinh tế quốc gia Các tác động từ hoạt động kinh doanh của TCTD không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế mà còn có tác động dây chuyền đến quyền lợi của nhiều tổ chức và cá nhân trong xã hội.

Tổ chức tín dụng (TCTD) là loại hình doanh nghiệp được quản lý bởi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngân hàng Đây là một trong những tiêu chí để nhận diện TCTD, khác với các tổ chức kinh tế khác chịu sự quản lý của các cơ quan nhà nước khác như công ty chứng khoán dưới sự giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hay các tổ chức kinh doanh thương mại do Bộ Công thương quản lý.

1.1.2 Các hoạt động của tổ chức tín dụng

Theo quy định pháp luật hiện hành, các hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD) bao gồm huy động vốn, cung cấp tín dụng, thực hiện dịch vụ thanh toán và quản lý ngân quỹ, cùng với các hoạt động khác liên quan.

Huy động vốn là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của TCTD, cung cấp nguồn vốn cần thiết cho các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp dịch vụ cho khách hàng Hoạt động này bao gồm nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các TCTD và vay vốn từ NHNN.

Khái quát tiền gửi

Tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức hoặc cá nhân gửi tại các tổ chức tín dụng, bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác Tiền gửi có thể được hưởng lãi hoặc không và phải được hoàn trả cho người gửi theo quy định của pháp luật.

Theo quy định của pháp luật tín dụng ngân hàng hiện hành, tiền gửi là khoản tiền khách hàng gửi tại các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, tồn tại dưới nhiều hình thức như có kỳ hạn, không kỳ hạn hoặc các hình thức khác Tiền gửi có thể hưởng lãi hoặc không, và các hình thức khác bao gồm việc phát hành giấy tờ có giá Mặc dù giấy tờ có giá được coi là một hình thức tồn tại riêng biệt, nhưng để đảm bảo sự rõ ràng và thống nhất, hoạt động phát hành một số loại giấy tờ giá cũng cần được xác định là một hình thức nhận tiền gửi.

Theo Luật Các TCTD năm 2010, tiền gửi không được xác định riêng biệt mà thông qua các hình thức nhận tiền gửi Các hình thức này bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn và các hoạt động nhận tiền từ tổ chức, cá nhân như phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, với nguyên tắc hoàn trả đầy đủ tiền gốc và lãi cho người gửi theo thỏa thuận.

Theo quy định của một số văn bản pháp luật, tiền mua giấy tờ có giá được coi là một loại tiền gửi và được hưởng bảo hiểm tiền gửi Cụ thể, Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 đã quy định rõ về vấn đề này Ngoài ra, Thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2006 cũng bổ sung các quy định liên quan đến bảo hiểm tiền gửi.

2006 về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1999, Nghị định về bảo hiểm tiền gửi được ban hành, đánh dấu một bước quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền Tiếp theo, Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 đã sửa đổi và bổ sung một số điều trong Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.

19 Khoản 13 Điều 4 Luật Các TCTD 2010.

Tiền gửi được hiểu là số tiền mà tổ chức hoặc cá nhân gửi tại các tổ chức nhận tiền gửi, bao gồm tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm Ngoài ra, tiền gửi cũng bao gồm khoản tiền mà tổ chức hoặc cá nhân mua các giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và tín phiếu từ các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức ngân hàng khác.

Theo khái niệm mới, Luật không nêu rõ các tổ chức nhận tiền gửi như trước, nhằm tránh thiếu sót Điều này mở rộng phạm vi tiền gửi, giúp phù hợp hơn với thực tiễn Đây cũng là trọng tâm nghiên cứu của chúng tôi.

Một số tổ chức, như các dịch vụ tiết kiệm bưu điện, vẫn thực hiện hoạt động nhận tiền gửi Những tổ chức này có khả năng nhận tiền gửi tiết kiệm bưu điện, phát hành chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác theo quy định pháp luật Theo khái niệm mới, các khoản tiền này cũng được xem là tiền gửi.

1.2.2 Các hình thức tiền gửi

1.2.2.1 Tiền gửi không kỳ hạn

Tiền gửi không kỳ hạn là hình thức gửi tiền không có thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và tổ chức tín dụng Tổ chức tín dụng có trách nhiệm chi trả tiền gửi cho khách hàng khi có nhu cầu rút tiền.

Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm hai loại chính: tiền gửi thanh toán, hay còn gọi là tài khoản dịch vụ, tài khoản thanh toán (tại Mỹ gọi là tiền gửi theo yêu cầu, tại Pháp là tiền gửi theo tài khoản séc), và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.

- Tiền gửi thanh toán là tiền gửi được khách hàng gửi tại các TCTD để thực hiện các khoản chi trả, thanh toán.

Chủ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thường là cá nhân hoặc tổ chức tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh Mục đích chính của việc gửi tiền là để giữ tiền an toàn và tận dụng các dịch vụ thanh toán của tổ chức tín dụng, như sử dụng séc, ủy nhiệm chi và các lệnh chi khác Lãi suất không phải là yếu tố quan trọng, có thể không được trả lãi suất hoặc chỉ nhận mức lãi suất rất thấp.

20 Quyết định số 270/2005/QĐ-TTG ngày 31 tháng 10 năm 2005 về việc tổ chức, huy động, quản lý và sử dụng nguồn tiền gửi kiệm bưu điện.

Tài khoản tiền giao dịch chứng khoán đang trở thành lựa chọn phổ biến cho khách hàng, được sử dụng chủ yếu để phục vụ mục đích kinh doanh chứng khoán Hiện nay, nhiều ngân hàng không thu phí duy trì loại tài khoản này, đồng thời khách hàng vẫn được hưởng lãi suất trên số dư tiền gửi trong tài khoản.

- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:

Tiền gửi tiết kiệm là số tiền cá nhân gửi vào tài khoản tiết kiệm, được xác nhận qua thẻ tiết kiệm Khoản tiền này sẽ được hưởng lãi suất theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi và được bảo vệ theo luật pháp về bảo hiểm tiền gửi.

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cho phép người gửi rút tiền theo yêu cầu mà không cần thông báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào Đây là hình thức tiết kiệm phổ biến trong xã hội, giúp người dân an toàn trong việc gửi tiền, tích lũy và tiết kiệm Người gửi sẽ nhận lãi suất và được bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Loại tiền gửi này chủ yếu được sử dụng để dành dụm cá nhân, không nhằm mục đích thanh toán.

Tài khoản tiền gửi này không cho phép phát hành séc hoặc thực hiện giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt cho người khác, ngoại trừ trong trường hợp tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam của người cư trú được sử dụng để thanh toán tiền vay của chính chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu Ngoài ra, tiền gửi cũng có thể được chuyển khoản sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu mở tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.

1.2.2.2 Tiền gửi có kỳ hạn

Bao gồm tiền gửi có kỳ hạn của cá nhân, tổ chức và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của cá nhân.

Vai trò của tiền gửi

Khi gửi tiền vào Tổ chức tín dụng (TCTD), nhu cầu và mong đợi của khách hàng rất đa dạng, phụ thuộc vào loại sản phẩm tiền gửi mà họ lựa chọn Mỗi cá nhân có những lợi ích khác nhau từ tiền gửi, điều này cho thấy vai trò của tiền gửi không giống nhau đối với từng khách hàng Tuy nhiên, có thể khái quát vai trò của tiền gửi qua những khía cạnh chính sau đây.

- Tiền gửi mang ý nghĩa tiết kiệm và đầu tư sinh lợi

Cá nhân có thể tích lũy khoản tiền dành dụm để phòng ngừa rủi ro trong cuộc sống, và khi đó, tiền gửi trở thành một hình thức tiết kiệm hiệu quả Tổ chức nhận tiền gửi giữ hộ số tiền này, đáp ứng nhu cầu tiết kiệm của khách hàng Lợi ích chính mà khách hàng nhận được từ việc gửi tiền tại tổ chức tài chính là khoản lãi từ số tiền gửi Mặc dù tiền tiết kiệm không tự động mang lại thu nhập, nhưng thông qua hoạt động nhận tiền gửi, các tổ chức tài chính tạo ra thu nhập cho người gửi tiền thông qua việc trả lãi Do đó, tiền gửi không chỉ đơn thuần là tiết kiệm mà còn mang ý nghĩa đầu tư, giúp người gửi gia tăng khả năng tiêu dùng trong tương lai Khi gửi tiền, khách hàng nhận được lãi suất tùy thuộc vào số tiền và hình thức gửi, ví dụ, lãi suất gửi tiết kiệm có kỳ hạn thường cao hơn lãi suất gửi không kỳ hạn.

- Việc gửi tiền tại TCTD có ý nghĩa đảm bảo tính an toàn tiền gửi, bí mật cá nhân liên quan đến tiền gửi

21 Điều 16 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 47/2006/QĐ-NHNN.

Khi khách hàng gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi, số tiền sẽ được bảo quản an toàn bởi các tổ chức uy tín, có trách nhiệm pháp lý trong việc hoàn trả đầy đủ vốn và lãi đúng hạn Điều này giúp khách hàng tích trữ vốn tạm thời một cách hiệu quả Hơn nữa, việc gửi tiền tại các tổ chức này còn đáp ứng nhu cầu bảo mật thông tin cá nhân của người gửi, khi mà nhiều cá nhân không muốn công khai số tiền mình có Pháp luật cũng quy định rõ về trách nhiệm bảo mật thông tin khách hàng trong hoạt động ngân hàng.

- Thông qua tiền gửi, khách hàng có thể sử dụng các tiện ích dịch vụ thanh toán của các TCTD

Thông qua việc gửi tiền, NGT có cơ hội tiếp cận nhiều dịch vụ của TCTD, đặc biệt là dịch vụ thanh toán và tín dụng khi cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng Để sử dụng các tiện ích thanh toán của TCTD, khách hàng cần mở tài khoản tiền gửi tại đó, vì hầu hết dịch vụ đều được cung cấp thông qua tài khoản này Đây là tài khoản tiền gửi thanh toán, bên cạnh đó, khách hàng cũng có thể sử dụng nhiều dịch vụ khác.

Người dùng có thể tận dụng dịch vụ thanh toán của tổ chức tín dụng (TCTD) để chi trả cho đối tác và người lao động trong hoạt động thương mại, chuyển tiền cho người thân, và thanh toán các khoản tiêu dùng hàng ngày mà không cần dùng tiền mặt Họ cũng có thể sử dụng nhiều dịch vụ liên quan khác như ngân hàng điện tử, truy vấn số dư và thực hiện các giao dịch tức thời qua SMS B@nking và Phone B@nking Tóm lại, người dùng sẽ nhận được nhiều tiện ích từ việc gửi tiền tại TCTD.

Người gửi tiền (NGT) có thể tận dụng các dịch vụ tín dụng từ tổ chức tín dụng (TCTD), bao gồm việc vay tiền thông qua tài khoản tiền gửi khi sử dụng các dịch vụ như chi hộ và thấu chi.

Tiền gửi đóng vai trò quan trọng đối với người gửi tiền (NGT), vì vậy việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NGT trong mối quan hệ gửi và nhận tiền gửi cần được chú trọng.

1.3.2 Đối với tổ chức tín dụng

Tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò quan trọng như một trung gian tín dụng trong nền kinh tế, giúp điều hòa nguồn vốn trong xã hội Chức năng cơ bản của TCTD là huy động vốn để cấp tín dụng, tức là vay tiền để cho vay lại Hầu hết các TCTD hoạt động kinh doanh dựa vào nguồn vốn huy động, đặc biệt là từ tiền gửi của các thành phần kinh tế, chiếm tỷ lệ lớn Do đó, khả năng thực hiện tốt vai trò trung gian tín dụng của TCTD phụ thuộc rất lớn vào số tiền gửi mà họ có thể huy động.

TCTD hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng với mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận Lợi nhuận của TCTD chủ yếu đến từ chênh lệch lãi suất giữa tiền huy động và tiền cho vay, cùng với các khoản phí dịch vụ ngân hàng Việc huy động được nguồn tiền gửi dồi dào sẽ tạo điều kiện cho TCTD cấp tín dụng nhiều hơn, từ đó gia tăng lợi nhuận Khách hàng gửi tiền thường sử dụng các dịch vụ ngân hàng, và lượng tiền gửi cao sẽ giúp TCTD thu được nhiều phí dịch vụ hơn.

Việc đa dạng hóa hình thức huy động tiền gửi không chỉ thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức tín dụng (TCTD) mà còn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và khác nhau của khách hàng Để thu hút khách hàng gửi tiền, các TCTD cần thiết kế và phát triển nhiều loại sản phẩm phong phú, từ các hình thức cổ điển như tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn đến các sản phẩm mới như tiết kiệm linh hoạt, tiết kiệm bậc thang và tiết kiệm bội thu Ngoài ra, các chương trình khuyến mại hấp dẫn như quà tặng khi gửi tiền và quay số trúng thưởng cũng được triển khai để gia tăng sức hấp dẫn cho các sản phẩm tiền gửi.

1.3.3 Đối với nền kinh tế

Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc huy động vốn đầu tư là rất cần thiết Trong số các nguồn vốn, vốn huy động trong nước đóng vai trò quyết định cho sự phát triển kinh tế.

Nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam Đối với những quốc gia này, việc huy động vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn do khả năng tích lũy và vay nợ hạn chế Chiến lược huy động nguồn vốn để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được đề ra từ Đại hội VII, nhấn mạnh rằng cần huy động nhiều nguồn vốn, trong đó vốn trong nước là quyết định và vốn từ bên ngoài cũng rất quan trọng.

VIII nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huy động tất cả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước đóng vai trò quyết định, trong khi vốn nước ngoài cũng có ý nghĩa quan trọng.

Đại hội Đảng lần IX nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát huy tối đa mọi nguồn vốn trong nước để nâng cao tỷ lệ đầu tư Theo đó, nội lực được coi là chính, trong khi ngoại lực cũng đóng vai trò quan trọng, tạo thành nguồn lực tổng thể cho sự phát triển đất nước Tiếp nối, Đại hội X khẳng định cần huy động mọi nguồn lực trong xã hội để phục vụ cho đầu tư phát triển.

Để phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, điều kiện tiên quyết là cần có vốn Vốn có thể được hình thành từ hai nguồn chính: thứ nhất, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân; thứ hai, dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài như FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) và ODA (hỗ trợ phát triển chính thức).

Người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng

1.4.1 Khái quát về người gửi tiền

Pháp luật hiện hành chưa đưa ra một định nghĩa chung về NGT, nhưng chúng ta có thể hiểu khái niệm này thông qua một số văn bản liên quan đến tiền gửi.

Theo quy chế tiền gửi tiết kiệm, tại Khoản 2 Điều 6, định nghĩa:

Người gửi tiền là cá nhân thực hiện giao dịch liên quan đến tiền gửi tiết kiệm Họ có thể là chủ sở hữu, đồng chủ sở hữu, hoặc là người giám hộ và đại diện hợp pháp của chủ sở hữu và đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm.

Theo định nghĩa, NGT là cá nhân hoặc nhóm cá nhân thực hiện giao dịch liên quan đến tiền gửi, không bao gồm tổ chức Tuy nhiên, Quy chế về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi lại cho phép cả tổ chức được mở tài khoản tiền gửi.

Theo phân tích, việc mua các loại giấy tờ có giá được coi là một hình thức tiền gửi, do đó, người mua những giấy tờ này được xem là nhà đầu tư (NGT) Quy chế này áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức tham gia mua giấy tờ có giá.

Theo Khoản 2 Điều 2 của Quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tín dụng, được ban hành kèm theo Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN2 ngày 21 tháng 11 năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quy định rõ các điều kiện và thủ tục cần thiết để mở và sử dụng tài khoản tiền gửi.

25 Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá.

NGT là người thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền gửi, có thể là cá nhân, nhóm cá nhân hoặc tổ chức.

Mặc dù chưa có định nghĩa chung về NGT, các văn bản pháp luật hiện hành đã xác định rõ những đối tượng có thể trở thành NGT trong hai hình thức gửi tiền cơ bản là tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.

1.4.2 Phân loại chủ thể gửi tiền

Tiền gửi thu hút sự chú ý của nhiều đối tượng trong xã hội, mỗi đối tượng lại có những nhu cầu riêng biệt Do đó, thị trường tiền gửi có sự đa dạng về khách hàng Chúng ta có thể phân loại nhóm khách hàng gửi tiền dựa trên các tiêu chí chung khác nhau.

1.4.2.1 Căn cứ vào chủ thể gửi tiền, người gửi tiền được chia thành: a) Chủ thể gửi tiền là cá nhân

Phần lớn cá nhân gửi tiền tại các tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu là khoản tiền tiết kiệm, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày Họ thường không có điều kiện tham gia đầu tư kinh doanh trực tiếp, do đó, tiền gửi trở thành nguồn tài chính quan trọng Khi tiền gửi gặp rủi ro, đời sống của họ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là đối với cán bộ hưu trí, người lao động có thu nhập trung bình và người làm công ăn lương Sự ảnh hưởng này không chỉ tác động đến cá nhân mà còn trở thành mối lo ngại cho xã hội, vì nhóm người này chiếm tỷ lệ lớn trong cộng đồng Do đó, khi xây dựng chính sách, Nhà nước luôn chú trọng bảo vệ quyền lợi cho họ, đặc biệt là trong quy định về bảo hiểm tiền gửi (BHTG) để đảm bảo an toàn cho khoản tiết kiệm của họ.

Chủ thể tiền gửi chủ yếu là các tổ chức kinh doanh mở tài khoản để phục vụ nhu cầu thanh toán Hầu hết các tổ chức này đều có tiền gửi tại ngân hàng, nguồn gốc của tiền gửi thường là từ vốn góp của các thành viên hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp Tiền gửi này được tách bạch với các khoản tiền khác, nhằm tìm kiếm lợi nhuận trong khi đối mặt với rủi ro kinh doanh Do đó, rủi ro đối với tiền gửi của họ thường ít nghiêm trọng hơn so với khách hàng cá nhân.

Nhiều tổ chức như đơn vị sự nghiệp có thu, cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội thường có khoản tiền nhàn rỗi từ nguồn thu nhập và quỹ của họ Họ gửi số tiền này tại các tổ chức tín dụng (TCTD) nhằm tìm kiếm lợi nhuận bổ sung, từ đó tăng thu nhập cho các thành viên trong tổ chức.

1.4.2.2 Căn cứ vào mục đích gửi tiền, người gửi tiền được chia thành: a) Chủ thể gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi

Chủ thể gửi tiền thường chọn hình thức tiền gửi tiết kiệm để hưởng lãi, phản ánh mục đích khác nhau của người gửi tiền Đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, cá nhân có tiền nhàn rỗi gửi vào tổ chức tín dụng (TCTD) với mục tiêu an toàn và tiện lợi, mà không có kế hoạch sử dụng cụ thể trong tương lai Ngược lại, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thu hút những cá nhân có kế hoạch chi tiêu rõ ràng, mong muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên từ lãi suất định kỳ Ngoài ra, việc mua các loại giấy tờ có giá như chứng chỉ tiền gửi và tín phiếu cũng là một hình thức gửi tiền, với mục đích tiết kiệm và đầu tư, cho phép người mua nhận lãi suất và giá trị mệnh giá khi đến hạn thanh toán Trong trường hợp cần tiền mặt, chủ sở hữu giấy tờ có giá có thể chiết khấu cho TCTD thay vì rút tiền trước hạn.

Các tổ chức và cá nhân muốn thực hiện thanh toán qua ngân hàng cần mở tài khoản tiền gửi thanh toán Mục đích chính của họ là sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng thông qua tài khoản này, không phải để hưởng lãi suất.

Theo quy định chung tại nhiều quốc gia, ngân hàng không chỉ không trả lãi cho loại tiền gửi này mà còn yêu cầu khách hàng duy trì số dư tối thiểu để được hưởng các dịch vụ Nếu khách hàng không đáp ứng đủ số dư này, họ sẽ phải trả phí cho việc sử dụng dịch vụ Tại Việt Nam, thói quen sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng vẫn chưa phổ biến trong cộng đồng dân cư.

NH nên để thu hút khách hàng, NH vẫn trả lãi đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, tuy nhiên mức lãi suất rất thấp.

Khách hàng có nhu cầu đầu tư và kinh doanh chứng khoán có thể mở tài khoản tiền gửi giao dịch chứng khoán tại ngân hàng Đây là loại tài khoản thanh toán chuyên dụng, phục vụ cho mục đích kinh doanh chứng khoán, đồng thời cũng cung cấp các tiện ích tương tự như tài khoản thanh toán thông thường Mặc dù lãi suất của tài khoản này thường thấp, nhưng vẫn có khả năng sinh lãi, giúp khách hàng tối ưu hóa nguồn vốn cho hoạt động đầu tư của mình.

Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền

Trong mối quan hệ giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và người gửi tiền (NGT), khách hàng thường có kiến thức hạn chế về hoạt động ngân hàng và các rủi ro liên quan Điều này dẫn đến việc họ khó có thể nhận thức đầy đủ những bất lợi khi gửi tiền vào TCTD, từ đó không thể tự bảo vệ quyền lợi của mình Vì vậy, sự hỗ trợ từ Nhà nước và bảo vệ của pháp luật là cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền.

Người gửi tiền (NGT) thường ở vị thế yếu hơn trong mối quan hệ với tổ chức nhận tiền gửi, dẫn đến quyền lợi của họ dễ bị xâm hại Tổ chức nhận tiền gửi kiểm soát tiền gửi và thông tin của NGT, trong khi NGT không có tài sản bảo đảm từ các tổ chức tín dụng Hơn nữa, NGT còn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố kinh tế - xã hội như lạm phát và khủng hoảng tài chính.

Nhà nước đóng vai trò đại diện cho đại bộ phận dân cư, sử dụng pháp luật như công cụ hiệu quả để ban hành các quy định nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng Điều này giúp giảm thiểu tác động tiêu cực từ biến động kinh tế - xã hội và ngăn ngừa xâm hại lợi ích của người tiêu dùng từ các tổ chức tín dụng, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

1.5.1 Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo sự bình đẳng giữa tổ chức tín dụng và người gửi tiền

TCTD đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế như một trung gian tín dụng, với hoạt động chính là nhận tiền gửi và cấp tín dụng Khi nhận tiền gửi, TCTD hoạt động như một chủ thể vay, trong khi khi cấp tín dụng, TCTD lại trở thành chủ thể cho vay Do đó, trong mối quan hệ này, TCTD vừa là người vay vừa là người cho vay, thể hiện vai trò linh hoạt trong hệ thống tài chính.

Trong các hợp đồng vay tiền, người cho vay thường yêu cầu người vay cầm cố, thế chấp tài sản để đảm bảo khả năng thanh toán Đây là một tập quán lâu đời và được pháp luật công nhận Tại Việt Nam, pháp luật dân sự điều chỉnh hợp đồng vay tài sản và các biện pháp bảo đảm Tuy nhiên, trong mối quan hệ vay tiền giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và các tổ chức, cá nhân gửi tiền, quy định không hoàn toàn giống như vậy.

Trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD), hầu hết các hợp đồng tín dụng đều yêu cầu tài sản bảo đảm nhằm bảo vệ quyền lợi của TCTD và đảm bảo khả năng thu hồi nợ Khi khách hàng không có khả năng thanh toán, TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi khoản vay theo quy định pháp luật.

Trong mối quan hệ gửi tiền, khách hàng gửi tiền vào tổ chức tín dụng (TCTD) chủ yếu dựa vào niềm tin và uy tín của TCTD, mà không nhận tài sản bảo đảm nào Mặc dù đây cũng là hợp đồng vay, nhưng TCTD là bên vay và khách hàng là bên cho vay Uy tín của TCTD tạo ra sự tin cậy hơn so với các tổ chức hay cá nhân khác, vì TCTD phải đáp ứng các điều kiện về vốn và nghiệp vụ theo quy định pháp luật Tuy nhiên, uy tín này không thể đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền nếu TCTD gặp khó khăn về khả năng thanh toán.

Để đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền, pháp luật cần thiết lập các quy định bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền trong mối quan hệ nhận tiền gửi và gửi tiền.

1.5.2 Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền từ những rủi ro của hoạt động tài chính - ngân hàng

Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro luôn hiện hữu do tính chất kéo dài của mối quan hệ kinh doanh Khi tổ chức tín dụng (TCTD) gặp rủi ro, người gửi tiền (NGT) sẽ là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp, vì TCTD không thể chi trả tiền gửi cho họ Những rủi ro này có thể phát sinh từ nhiều yếu tố khác nhau.

Đối tượng kinh doanh của tổ chức tín dụng (TCTD) là tiền tệ, được coi là hàng hóa đặc biệt và là phương tiện trao đổi chung Do đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm chính trị và các yếu tố kinh tế - xã hội.

Theo các nhà kinh tế học, tiền tệ được định nghĩa là một phương tiện thực hiện nhiều chức năng, bao gồm công cụ trao đổi, thước đo giá trị và phương tiện tích lũy.

Mác định nghĩa rằng tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, tách biệt với thế giới hàng hóa, được sử dụng như một thước đo giá trị chung cho tất cả hàng hóa Nó không chỉ phản ánh lao động xã hội mà còn thể hiện mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất.

Tiền tệ không chỉ là công cụ trung gian trong các giao dịch, mà còn được xem như một hàng hóa đặc biệt Trong các giao dịch, tiền tệ không chỉ phục vụ cho việc trao đổi giữa người sản xuất và người tiêu thụ, mà còn trở thành đối tượng giao dịch chính Trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, tiền tệ thực sự là hàng hóa, tham gia trực tiếp vào các giao dịch vay và cho vay.

Tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế đạt được các mục tiêu đề ra, đồng thời nó cũng bị ảnh hưởng bởi các điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội Do đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ chịu tác động mạnh mẽ từ những yếu tố này Sự thay đổi trong cơ chế và chính sách có thể gây ra biến động trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, dẫn đến những tác động tích cực hoặc rủi ro cho hoạt động ngân hàng.

Việc cho vay của TCTD phụ thuộc lớn vào cách sử dụng vốn vay của khách hàng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả cho vay và khả năng chi trả tiền gửi Trong hợp đồng vay tài sản thông thường, người cho vay sử dụng tài sản của mình, nhưng TCTD chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động từ xã hội Do đó, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng sẽ tác động đến TCTD, từ đó ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền.

THỰC TIỄN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI GỬI TIỀN TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

Ngày đăng: 18/01/2022, 13:35

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w