Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh
Bài nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp từ các nguồn tài liệu đáng tin cậy như báo mạng, nghiên cứu, luận án và các trang web chính thống của các tổ chức và cơ quan ngành tại Việt Nam, bao gồm Bộ Công Thương, tạp chí Cộng Sản, tạp chí Tài Chính, Ban Chỉ Đạo Liên Nghành hội nhập quốc tế về kinh tế, Tin tức Pháp luật, và VNEXPRESS.com.
Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt khi so sánh với các quốc gia thành viên khác Trước khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực, Việt Nam cần chuẩn bị kỹ lưỡng để tận dụng tối đa các cơ hội mà hiệp định mang lại Để đáp ứng yêu cầu hội nhập trong tương lai, các giải pháp và định hướng cần được đưa ra, tập trung vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh và phát triển bền vững.
Đóng góp đề tài
-Làm rõ vai trò và các vấn đề của Hiệp định CPTPP.
-So sánh tình hình hội nhập của Việt Nam với các quốc gia TPP trước, chuẩn bị khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
-Đưa ra các giải pháp và định hướng để nhắm đến đích là đáp ứng yêu cầu của Hiệp định CPTPP và sự hội nhập của Việt Nam.
Cấu trúc bài nghiên cứu
-Bài nghiên cứu được chia làm 3 phần chính: Mở đầu, nội dung và kết luận. Nội dung được chia thành 3 chương như sau:
-Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của hoạt động hội nhập của Việt Nam và các nước thành viên
-Chương 2: Thực trạng hội nhập của Việt Nam trước và sau khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
-Chương 3: Định hướng và giải pháp đẩy mạnh hội nhập của Việt Nam và lợi ích cho các nước thành viên.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG HỘI NHẬP CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC THÀNH VIÊN
Lịch sử hình thành Hiệp định CPTPP
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương, hay còn gọi là Thỏa thuận P4, ban đầu có sự tham gia của bốn quốc gia: Brunei, Chile, New Zealand và Singapore Tuy nhiên, do quy mô kinh tế của các nước tham gia quá nhỏ, Hiệp định P4 không thu hút được sự quan tâm từ các nền kinh tế trong khu vực trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2008.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Vào ngày 22 tháng 9 năm 2008, chúng tôi công bố quyết định tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhưng yêu cầu không phải theo khuôn khổ của Hiệp định P4 cũ mà sẽ thương thảo một Hiệp định hoàn toàn mới Ngay sau đó, Australia và Peru cũng thông báo tham gia TPP.
Kể từ khi TPP được thành lập, Việt Nam đã nhận được lời mời tham gia từ các nước TPP Với sự chấp thuận của Bộ Chính trị, Việt Nam đã bắt đầu tham gia đàm phán với tư cách quan sát viên Sau ba phiên họp sơ bộ, vào dịp Hội nghị Cấp cao APEC diễn ra tại Yokohama, Nhật Bản từ ngày 13 đến 14/11/2010, Việt Nam đã chính thức tuyên bố gia nhập TPP.
-Cùng với quá trình đàm phán, TPP đã tiếp nhận thêm các thành viên mới là Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản, nâng tổng số nước tham gia lên
Sau hơn 30 phiên đàm phán kỹ thuật và hơn 10 phiên đàm phán cấp bộ trưởng, các quốc gia TPP đã hoàn tất hầu hết các nội dung đàm phán tại Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ở Atlanta vào tháng 10 năm.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 2016, Bộ trưởng của 12 quốc gia tham gia Hiệp định TPP đã tham dự lễ ký xác thực văn bản của Hiệp định TPP tại Auckland, New Zealand.
Trước sự kiện này, các quốc gia còn lại trong TPP đã chủ động nghiên cứu và trao đổi để thống nhất phương thức tiến tới Hiệp định TPP trong bối cảnh hiện tại.
Hiệp định CPTPP bao gồm 07 Điều và 01 Phụ lục, quy định về việc kết nối với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) Hiệp định này đã được 12 quốc gia, bao gồm Australia, Brunei Darussalam, Canada, Chile, Mỹ, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam, ký kết vào ngày 04 tháng 02 năm 2016 tại New Zealand Ngoài ra, CPTPP còn xử lý các vấn đề liên quan đến hiệu lực, rút khỏi hoặc gia nhập hiệp định.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ, bao gồm 11 nghĩa vụ liên quan đến Chương sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ trong Chương Mua sắm của chính phủ, và 7 nghĩa vụ khác liên quan đến các lĩnh vực như Quản lý Hải quan, Đầu tư, Dịch vụ trao đổi xuyên biên giới, Bộ Tài chính, Viễn thông, Môi trường, Minh bạch và Chống tham nhũng Điều này nhằm xác nhận sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên, đặc biệt trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP.
Hiệp định TPP bao gồm 30 Chương và 9 Phụ lục, điều chỉnh nhiều vấn đề từ thương mại truyền thống như mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, đến các vấn đề ít truyền thống như mua sắm của cơ quan nhà nước, thương mại điện tử và doanh nghiệp nhà nước Hiệp định cũng mở rộng để bao gồm các vấn đề phi truyền thống như lao động, môi trường và chống tham nhũng trong thương mại và đầu tư Mặc dù các nước thành viên CPTPP đã tạm dừng áp dụng một số nghĩa vụ cam kết cao, nhưng CPTPP vẫn được coi là một FTA chất lượng cao và toàn diện với mức độ cam kết sâu nhất từ trước đến nay.
Việc Việt Nam tham gia đàm phán và ký kết Hiệp định TPP, sau này là CPTPP, phản ánh một quá trình chuẩn bị tích cực và chủ động, tuân thủ các chỉ đạo của Bộ Chính trị và Chính phủ Các kết quả đạt được từ đàm phán đã bảo đảm bổ sung lợi ích cốt lõi của Việt Nam, với nhiều bảo lưu và khả năng thích ứng, giúp thực hiện Hiệp định một cách hiệu quả và mang lại lợi ích cho đất nước.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Nội dung các cam kết của Hiệp định CPTPP
1.2.1 Cam kết chiết khấu thuế quan:
Các quốc gia CPTPP đã cam kết xóa bỏ từ 97% đến 100% thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam, với hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng lợi ngay khi Hiệp định có hiệu lực Cụ thể, Canada sẽ loại bỏ thuế nhập khẩu đối với 95% số lượng hàng hóa và 78% kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam, trong khi Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế đối với 86% hàng hóa (tương đương 93,6% kim ngạch xuất khẩu) ngay khi Hiệp định có hiệu lực, và gần 90% sau 5 năm Việt Nam cũng sẽ áp dụng mức thuế quan hợp lý cho các quốc gia CPTPP, với kế hoạch xóa bỏ thuế nhập khẩu nhanh chóng cho 66% số mặt hàng ngay khi Hiệp định có hiệu lực và 86,5% sau ba năm Các thiết bị sẽ có chương trình giảm thuế kéo dài từ 5 đến 10 năm, cho thấy sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc mở cửa thị trường.
1.2.2 Cam kết về doanh nghiệp nhà nước:
Theo Hiệp định, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cần tuân thủ cơ chế thị trường và không được thực hiện hành vi chống cạnh tranh khi có vị trí độc quyền, nhằm bảo vệ thương mại và đầu tư Ngoài ra, DNNN phải minh bạch thông tin như tỷ lệ sở hữu của Nhà nước và báo cáo tài chính đã được kiểm toán Nhà nước cũng cần hạn chế việc trợ cấp quá mức để không ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia khác.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Hiệp định chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tại Việt Nam có doanh thu vượt ngưỡng cụ thể Cụ thể, những DNNN có doanh thu hàng năm từ 16.000 tỷ đồng đến dưới 6.500 tỷ đồng sẽ không được hưởng nhiều quyền lợi từ việc thực hiện các nghĩa vụ theo Thỏa thuận trong vòng 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.
Việt Nam có quyền miễn trừ thực hiện các quy định của Hiệp định về Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đối với các doanh nghiệp đại chúng, các chương trình chiến lược quan trọng và các doanh nghiệp liên quan đến quốc phòng, an ninh Tuy nhiên, một số doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Hòa bình tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thị trường và cạnh tranh với các doanh nghiệp thông thường trong khối CPTPP vẫn phải tuân thủ các cam kết đã đề ra.
1.2.3 Cam kết với nhà vận chuyển và đầu tư: Đối với lĩnh vực đầu tư cho nhà cung cấp dịch vụ vận tải, các quốc gia CPTPP thực hiện theo phương thức chọn-lấy-mang đi và cơ chế "chỉ tiến không lùi-ratchet" Theo đó, các quốc gia được quyền đưa ra những bảo lưu không phù hợp với 4 trách nhiệm chính của chương Dịch vụ (Đối xử quốc gia, Đối xử tối huệ quốc, Tiếp cận thị trường và hiện diện tại nước sở tại) và 4 trách nhiệm chính của Chương đầu tư (Đối xử quốc gia, Hầu hết Đối xử Tối huệ quốc, Yêu cầu về Hiệu suất, và Ban Giám đốc và Ban Giám đốc cấp cao) bên trong hình dạng của một danh sách được gọi là “Danh sách Đầu tư” việc đặt trước không phải lúc nào cũng phù hợp với trách nhiệm chính của các chương Dịch vụ và Đầu tư được gọi là danh mục đầu tư cho nhà cung cấp dịch vụ) Bất kỳ mức độ quy định nào, nếu không có yếu tố phân biệt đối xử, đều được phép duy trì mà không có yêu cầu đặt chỗ bên trong thỏa thuận.
1.2.4 Cam kết sở hữu trí tuệ:
Hiệp định CPTPP nhấn mạnh các nguyên tắc cốt lõi của Hiệp định TRIPS, nhằm bảo vệ và thúc đẩy việc phát triển công nghệ Đồng thời, hiệp định cũng khẳng định quyền bảo vệ lợi ích thiết yếu liên quan đến sức khỏe và dinh dưỡng của cộng đồng, đặc biệt là thông qua Tuyên bố Doha về Hiệp định.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
TRIPS có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng bằng cách cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và nhu cầu của công chúng Điều này giúp chống lại lạm dụng quyền sở hữu vật chất và tạo điều kiện cho tự do xây dựng chính sách nhập khẩu hiệu quả, đồng thời đảm bảo quyền tiếp cận các sản phẩm thiết yếu cho cộng đồng.
Thỏa thuận về yêu cầu minh bạch trên web quy định các luật và thủ tục liên quan đến việc bảo vệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) Nội dung thỏa thuận bao gồm việc công bố thông tin về đơn đăng ký, văn bằng bảo hộ quyền sở hữu vật chất và quyền đối với giống cây trồng, nhằm đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý quyền SHTT.
Hiệp định quy định các yêu cầu cụ thể về mức độ bảo hộ cho nhãn hiệu, sáng chế, chỉ dẫn địa lý, quyền tác giả và các quyền liên quan, với nhiều yêu cầu chi tiết hơn so với mức tối thiểu của WTO và pháp luật Việt Nam Đặc biệt, Hiệp định nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ dấu hiệu âm thanh và mùi hương, đồng thời yêu cầu các quốc gia tuân thủ các nguyên tắc bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo các điều ước quốc tế.
CPTPP yêu cầu Việt Nam tăng cường thực thi quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), đặc biệt trong việc chống hàng giả và vi phạm bản quyền, vượt qua các yêu cầu của Hiệp định TRIPS/WTO Một số quy định hiện hành chưa đáp ứng yêu cầu này, như việc kiểm soát hàng hóa trọng yếu và hàng xuất khẩu để ngăn chặn giả mạo nhãn hiệu, cùng với việc xử lý hình sự các hành vi truy nhập trái phép hoặc chiếm đoạt bí mật nhằm mục đích thương mại Ngoài ra, việc quay phim trong rạp hát cũng cần được xem xét kỹ lưỡng nếu gây thiệt hại đáng kể cho chủ sở hữu.
Việt Nam được phép có 5 năm chuyển tiếp kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, trong thời gian này, nước này không phải áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp Ngoài 11 nghĩa vụ miễn trừ chung, Việt Nam có sự linh hoạt trong việc thực thi nghĩa vụ bảo vệ thử nghiệm bí mật và dữ liệu bí mật liên quan đến hóa chất nông nghiệp, cũng như các nghĩa vụ tiếp thị đối với sản phẩm dược phẩm.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
1.2.5 Về các cam kết bắt đầu trên thị trường chính xác, chúng tôi cũng quyết định mở cửa hơn so với WTO như sau:
+ Nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN):
Chúng tôi đồng thuận với nguyên tắc MFN, nhằm đảm bảo rằng các quốc gia thành viên CPTPP không bị thiệt thòi so với các đối tác khác Tuy nhiên, chúng tôi có quyền cam kết các biện pháp khắc phục khác biệt đối với các quốc gia đã ký hiệp định song phương hoặc đa phương trước ngày của Hiệp định này Hiệp định sẽ tạo áp lực lên các Quốc gia Thành viên ASEAN liên quan đến bất kỳ hiệp định nào mà họ tham gia, nếu các hiệp định đó được ký kết trước ngày gia nhập Đồng thời, chúng tôi cũng bảo lưu quyền cam kết các biện pháp khắc phục cho các quốc gia dưới các hiệp định song phương hoặc đa phương ký kết sau ngày của Hiệp định này, đặc biệt trong các lĩnh vực như hoạt động hàng hải, cứu hộ, hải sản và không khí.
Các quốc gia CPTPP được phép thành lập liên doanh với vốn góp tối đa 49% cho các dịch vụ viễn thông chính liên quan đến cơ sở hạ tầng cộng đồng Đối với các dịch vụ viễn thông chuyển giao giá trị liên quan, quy trình thiết lập sẽ tuân theo nhiệm vụ chung với vốn góp tối đa 65% trong vòng 5 năm kể từ ngày áp dụng Thỏa thuận Sau 5 năm, khi các dịch vụ không còn liên quan đến cơ sở hạ tầng cộng đồng, các quốc gia CPTPP có khả năng đầu tư và thành lập các tổ chức 100% vốn nước ngoài.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Việt Nam có quyền yêu cầu các công ty viễn thông cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, như gọi điện hoặc nhắn tin qua Viber và Skype, phải đăng ký, tuân thủ giấy phép và tham gia vào các thỏa thuận kinh doanh với các nhà cung cấp dịch vụ.
Việc bán dung lượng cáp quang biển yêu cầu cáp quang phải thuộc sở hữu và quản lý của chúng tôi Các doanh nghiệp cáp quang theo CPTPP được phép quảng bá khả năng của cáp quang tới các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông và có quyền tiếp cận các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) đã được chứng nhận tại Việt Nam.
Tổng quan về hội nhập của Việt Nam
1.3.1 Vài nét về hội nhập quốc tế:
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Hội nhập là quá trình tham gia và phát triển cùng một cộng đồng trong các lĩnh vực cụ thể Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ này thường được áp dụng trong các mối quan hệ toàn cầu Hội nhập toàn cầu được hiểu là sự liên kết và hợp tác giữa các chủ thể trên thế giới, bao gồm các quốc gia và lãnh thổ, trong một mạng lưới vững chắc.
Tham gia vào các tổ chức, thể chế và cơ chế thể thao hợp tác toàn cầu nhằm cải thiện các đối tượng này là cần thiết Điều này không chỉ giúp hình thành một điện tập thể mà còn giải quyết những rắc rối không bình thường giữa các bên tham gia, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.
1.3.2 Ba phương pháp tiếp cận chủ yếu như:
Phương pháp theo chủ nghĩa liên bang nhấn mạnh rằng hội nhập chính là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình, thường được xem xét từ góc độ luật pháp và thể chế.
Hội nhập là quá trình kết nối giữa các quốc gia thông qua sự gia tăng giao thương trong các lĩnh vực như thương mại, điện tử, du lịch và di trú Qua đó, các quốc gia dần hình thành các cộng đồng hợp tác, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh.
Có hai loại cộng đồng an ninh: cộng đồng an ninh hợp nhất và cộng đồng an ninh đa nguyên Hướng tiếp cận này phân tích quá trình hội nhập quốc tế như một công cuộc và cũng như một sản phẩm cuối cùng.
Hội nhập quốc tế là hiện tượng mà các quốc gia mở rộng và tăng cường liên kết với nhau thông qua phân công lao động toàn cầu Điều này dựa vào lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc gia và mục tiêu phát triển mà họ theo đuổi.
Cam kết của Việt Nam trong một số lĩnh vực chính của Hiệp định CPTPP
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Các thành viên CPTPP đã đồng ý duy trì cam kết mở cửa thị trường hàng hóa theo Hiệp định TPP, bao gồm việc cắt giảm thuế nhập khẩu cho hầu hết các mặt hàng Các cam kết này được cụ thể hóa theo từng dòng thuế trong Biểu thuế nhập khẩu của từng quốc gia thành viên CPTPP.
Hầu hết các quốc gia CPTPP áp dụng mức phí nhập khẩu tiêu chuẩn cho tất cả các đối tác, bao gồm Australia, Brunei, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam Trong khi đó, Canada, Chile, Nhật Bản và Mexico áp dụng thuế nhập khẩu riêng cho từng nước CPTPP Tuy nhiên, Chile và Canada chỉ áp dụng thuế suất riêng cho một số dòng thuế, trong khi phần lớn các mặt hàng vẫn tuân theo mức thuế chung.
-Về cơ bản, các cam kết xóa bỏ và giảm thuế nhập khẩu trong CPTPP được chia thành ba nhóm chính:
Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay: Thuế nhập khẩu sắp được xóa bỏ do Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình cho phép thuế nhập khẩu giảm về 0% sau một khoảng thời gian cụ thể Trong khuôn khổ CPTPP, thời gian này thường từ 3 đến 7 năm, nhưng trong một số trường hợp, có thể kéo dài hơn 10 năm Đặc biệt, một số dòng thuế có lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới hơn 20 năm.
Nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ) cho phép xóa bỏ hoặc giảm thuế nhập khẩu chỉ đối với một lượng sản phẩm nhất định Điều này có nghĩa là khi lượng nhập khẩu vượt quá hạn ngạch đã cam kết, mức thuế nhập khẩu sẽ cao hơn hoặc không được hưởng ưu đãi.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
THỰC TRẠNG HỘI NHẬP CỦA VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU KHI HIỆP ĐỊNH CPTPP CÓ HIỆU LỰC
Thực trạng hội nhập của Việt Nam với các nước thành viên
2.1.1 Tình hình hội nhập của Việt Nam trước khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực:
Chỉ số lợi thế, lợi thế của Việt Nam có được từ các yếu tố về sự ổn định chính trị và các chính sách khuyến khích FDI.
Sự ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Trong bối cảnh lo ngại về tình hình chính trị không ổn định, Việt Nam đã duy trì được sự ổn định chính trị-xã hội trong nhiều năm qua, điều này được đánh giá cao bởi các nhà đầu tư Chính sự ổn định kinh tế và chính trị đã tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
Các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài đang được triển khai mạnh mẽ, bao gồm miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu cho một số ngành hàng, và giảm tiền thuê, sử dụng đất Những ưu đãi này, cùng với việc các công ty, tập đoàn lớn của Nhà nước thoái vốn, tạo ra nhiều cơ hội hấp dẫn cho nhà đầu tư nước ngoài.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Việt Nam đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thông qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và các định chế xã hội, đồng thời nâng cao hiệu quả thực thi chính sách Luật Đầu tư đã có những thay đổi đột phá, tạo nền tảng pháp lý minh bạch, bảo đảm quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân Các ngành nghề và điều kiện đầu tư không hợp lý được rà soát và loại bỏ, trong khi cơ chế bảo đảm đầu tư được củng cố theo các điều ước quốc tế Chính phủ cũng tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư.
Chỉ số kinh tế của Việt Nam nổi bật trong thu hút FDI, với hai yếu tố chính là ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế, cùng với chi phí lao động hợp lý và năng suất cao.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Bảng 2.1 Biểu đồ tăng trưởng kinh tế quí 2017 của các nước CPTPP
Tác động lan tỏa của công nghệ và kỹ năng từ khu vực FDI ở Việt Nam vẫn còn yếu, do một số lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, dẫn đến hạn chế cạnh tranh và tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu Doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ chưa phát triển mạnh mẽ, cùng với sự thiếu hụt trong phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, khiến khả năng tiếp nhận hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI trở nên hạn chế.
Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển kinh tế chủ yếu xuất phát từ hai yếu tố: khách quan và chủ quan Về mặt khách quan, nền kinh tế hiện đang ở giai đoạn phát triển thấp, ảnh hưởng bởi sức mạnh và mức độ tham gia vào nền kinh tế toàn cầu Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan lại đóng vai trò quyết định trong việc thực thi và hiệu quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Một trong những vấn đề chính là tư duy và kiến thức về kinh tế thị trường cũng như hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta chưa theo kịp thực tiễn Quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn thiếu sự thống nhất, dẫn đến rào cản trong việc thực hiện các chủ trương và quyết sách Thêm vào đó, quy trình chính sách cũng chưa được hoàn thiện.
Tổ chức thực hiện của dự án được xây dựng một cách khoa học nhưng gặp khó khăn về tính khả thi và trách nhiệm không rõ ràng Bộ máy tổ chức cồng kềnh, chồng chéo và công tác cán bộ chậm đổi mới, trong khi năng lực của đội ngũ cán bộ hoạch định và thực thi chính sách chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Những vấn đề như lợi ích cục bộ, tư duy nhiệm kỳ và tham nhũng là nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế và bất cập hiện tại.
Bảng 2.2 Biểu đồ diễn biến kinh tế mặt hàng Việt Nam 2016-2017
Xuất khẩu của Việt Nam đã không còn phát triển bền vững do phụ thuộc vào khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ Các mặt hàng thô và sơ chế, bao gồm dầu thô, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu Xuất khẩu dựa vào tài nguyên chỉ chiếm dưới 10% tổng kim ngạch, và tỷ lệ này hầu như không thay đổi Điều này cho thấy Việt Nam cần tìm kiếm các giải pháp để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm xuất khẩu.
Tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là nông sản, chủ yếu là hàng chưa chế biến và sơ chế, chiếm 90%, ngoại trừ khoáng sản và nhiên liệu thô Các sản phẩm chế biến, bao gồm gia công và lắp ráp, phụ thuộc hoàn toàn vào việc nhập khẩu nguyên liệu thô và linh kiện, cho thấy nền kinh tế vẫn ở mức độ thấp, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác tài nguyên và lao động.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đang mở rộng, nhưng vẫn phụ thuộc vào một số thị trường trọng điểm, dẫn đến rủi ro lớn từ những biến động Các mặt hàng như cao su và rau xanh chủ yếu phụ thuộc vào Trung Quốc, trong khi thủy sản dựa vào Mỹ và Nhật Bản, gạo tập trung vào Đông Nam Á, và hàng dệt may chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ Các sản phẩm phụ kiện da và giày dép lại đặc biệt phụ thuộc vào thị trường EU Xuất khẩu cà phê espresso thiếu kinh nghiệm và phụ thuộc vào các công ty đa quốc gia tại Việt Nam Mặc dù việc quảng bá xuất khẩu đã tạo ra cơ hội mới, việc nâng cao khả năng cạnh tranh và thương hiệu sản phẩm vẫn tốn kém Việc đa dạng hóa hàng hóa xuất khẩu và chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu gặp nhiều thách thức, đặc biệt là trước các rào cản thương mại mới như tiêu chuẩn vệ sinh, bảo vệ môi trường, và các vụ kiện chống bán phá giá.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Bảng 2.3 Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2005-2017
2.2 Tình hình hội nhập của Việt Nam khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực:
Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018, sau khi 6 quốc gia đầu tiên gồm Mexico, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada và Úc hoàn tất thủ tục phê chuẩn.
Vào ngày 12/11/2018, Quốc hội Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP cùng các văn kiện liên quan, và hiệp định này chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/1/2019.
CPTPP, với cam kết toàn diện và tiêu chuẩn cao, sẽ tăng cường mối liên kết cùng có lợi giữa các nền kinh tế thành viên, thúc đẩy thương mại, đầu tư và tăng trưởng kinh tế trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Hiệp định CPTPP tạo ra một khu vực kinh tế tự do rộng lớn với khoảng 500 triệu dân và chiếm 13% GDP toàn cầu, trong đó có Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới CPTPP thống nhất các quy định về đầu tư và dịch vụ cho nhiều lĩnh vực, đồng thời từng bước bãi bỏ thuế quan đối với sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp, mang lại lợi ích tổng thể cho Việt Nam.
-Tính toán của Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (Bộ
Kế hoạch & Đầu tư) cho thấy, CPTPP sẽ giúp GDP Việt Nam tăng thêm 1,7 tỷ USD, hơn 4 tỷ USD xuất khẩu, tăng tương ứng 1,32% và 4,04% đến năm 2035.
CPTPP không chỉ mang đến cơ hội giao thương mới mà còn thúc đẩy Việt Nam cải cách thể chế kinh tế và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh thông qua việc thiết lập các tiêu chuẩn cao.
Bảng 2.4 GDP của các nước thành viên CPTPP và tỷ trọng so với toàn cầu năm 2017.
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP CỦA VIỆT
Định hướng và giải pháp
3.1.1 Các tình huống đòi hỏi kinh tế
Một số mặt hàng nông sản như thịt bò và gia cầm mà các nước CPTPP có thế mạnh đang gặp thách thức về khả năng cạnh tranh từ Việt Nam, mặc dù Việt Nam có khả năng sản xuất những mặt hàng này Tuy nhiên, việc Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định đã làm giảm đáng kể căng thẳng trong thương mại Đặc biệt, Việt Nam đã thiết lập lộ trình thực hiện kéo dài hơn 10 năm cho một số loại thịt gia cầm, cho thấy nỗ lực lớn trong việc phát triển thị trường, không chỉ trong CPTPP mà còn trong ASEAN, nơi Việt Nam cũng đang tích cực sản xuất các loại thịt.
Một số mặt hàng thương mại mà các quốc gia CPTPP có thế mạnh có thể gây ra thách thức cho ngành sản xuất của họ.
Trong bối cảnh hiện tại, xu hướng hiếu chiến có thể giảm bớt trong 10-15 năm tới, khi hàng hóa của Việt Nam tiếp tục hướng tới thị trường trung tâm, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và chăn nuôi Chính phủ đã ban hành ba Nghị định nhằm tái cơ cấu khu vực nông thôn và tổ chức lại sản xuất, đồng thời khuyến khích các mô hình sản xuất ưu việt để nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh của nông sản Nhiều tập đoàn lớn tại Việt Nam đang đầu tư vào nông nghiệp với công nghệ sản xuất tiên tiến, cho thấy tiềm năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước Để hỗ trợ quá trình tái cơ cấu, cần tăng cường lộ trình chiết khấu thuế và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đồng thời nâng cao nhận thức về các yêu cầu của CPTPP và hội nhập tài chính toàn cầu.
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
3.1.2 Cam kết hoàn thiện khuôn khổ thể chế và hình sự Để thực thi các cam kết bên trong CPTPP, một số điều khoản hình sự về thương mại, hải quan, tài sản cao cấp, lao động, công đoàn, v.v sẽ được điều chỉnh Tuy nhiên, sự căng thẳng trong việc thay thế tiện ích tội phạm để phù hợp với các yêu cầu hoàn toàn mới của Thỏa thuận là có thể xảy ra vì 3 động cơ như sau:
Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP, 11 quốc gia đã "hoãn" các cam kết cứng rắn tối đa, yêu cầu nguồn lực thực thi lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản cao cấp.
Nhiều cam kết mới hiện nay không tuân thủ các đề xuất và quy định của Đảng cũng như pháp luật Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực mua sắm Chính phủ và bảo vệ môi trường Điều này dẫn đến sự căng thẳng trong việc thay thế các tiện ích tội phạm, tuy nhiên, mức độ căng thẳng này vẫn chưa cao.
Việc trở thành thành viên của WTO đã chứng minh rằng với sự hướng dẫn tận tình và nỗ lực lớn, chúng tôi có thể thực hiện hiệu quả khối lượng công việc này Ngay sau khi Hiệp định được ký kết, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành phối hợp với Bộ Tư pháp để nhanh chóng thẩm định các hướng dẫn liên quan đến hồ sơ tội phạm, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung chế độ dinh dưỡng và các thủ tục giấy tờ cần thiết nhằm đảm bảo tuân thủ các điều kiện của Hiệp định CPTPP.
3.1.3 Các tình huống đòi hỏi xã hội
Sự phản đối gia tăng đối với việc tham gia CPTPP có thể ảnh hưởng đến các tổ chức, đặc biệt là những tổ chức phụ thuộc vào trợ cấp của Nhà nước, cũng như những người hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và thương mại.
3.2 Lợi ích cho các nước thành viên:
Downloaded by út bé (beut22834@gmail.com)
Khi có hiệu lực, thuế giá trị gia tăng sẽ được loại bỏ ngay lập tức giữa các quốc gia thành viên, tuy nhiên một số quốc gia sẽ thực hiện giảm thuế trong 4 năm, và một số khác trong 10-15 năm Chile sẽ từng bước loại bỏ thuế quan đối với sản phẩm sắt và thép trong vài năm tới, giúp người tiêu dùng Chile hưởng lợi từ giá thấp hơn khi có thêm nhiều nước tham gia CPTPP Hiện tại, thuế quan tại Chile đã ở mức thấp, khoảng 6% cho hàng hóa mới và 9% cho hàng hóa đã qua sử dụng Kể từ năm 2005, Chile đã cùng với New Zealand, Brunei và Singapore loại bỏ tất cả các rào cản thương mại qua Hiệp định TPP ban đầu, và cũng đã ký các hiệp định thương mại tự do riêng với Mỹ và Liên minh châu Âu.
Hiện nay, 11 quốc gia thành viên CPTPP đại diện cho tổng dân số 516,7 triệu người, trong đó có 8 thành viên OECD và một số nước nhỏ đã phát triển Ngoài ra, nhiều quốc gia như Philippines, Colombia, Thái Lan, Lào, Indonesia, Campuchia, Bangladesh, Hàn Quốc, Ấn Độ và Sri Lanka đã bày tỏ sự quan tâm tham gia CPTPP, dự kiến sẽ tăng tổng số quốc gia tham gia.
22 nền kinh tế với tổng dân số dự kiến khoảng 2,6 tỷ người và có 10 thành viên OECD hoặc các quốc gia nhỏ đã phát triển.
CPTPP là một thị trường lớn gần như tự do, với khả năng mở rộng đáng kể, mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp thông qua thương mại thuận lợi giữa các quốc gia thành viên Hiệp định này cũng cung cấp cơ chế cho phép nhà đầu tư kiện các chính phủ vi phạm, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát triển và phân phối dược phẩm, giúp các quốc gia thành viên tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn với chi phí thấp hơn.
CPTPP là một thỏa thuận thương mại ràng buộc về mặt pháp lý, với hệ thống giải quyết tranh chấp hỗ trợ, nhằm nâng cao tính minh bạch và dự đoán trong thương mại Mục tiêu chính của CPTPP là duy trì thị trường mở và thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
Tăng thương mại toàn cầu tạo ra cơ hội kinh tế mới cho mọi người, bất kể thu nhập hay nền tảng kinh tế.
Các nhà kinh tế Chile nhận định rằng tác động của CPTPP đối với Chile sẽ ít hơn so với các quốc gia Mỹ Latinh khác như Peru và Mexico, do Chile đã có thỏa thuận thương mại với tất cả các nước CPTPP ở các mức độ khác nhau Tuy nhiên, CPTPP mang lại lợi ích đáng kể cho Chile khi 10% hàng xuất khẩu sang Nhật Bản trước đây không được hưởng ưu đãi sẽ có cơ hội được ưu đãi khi hiệp định này được thực thi Cụ thể, thuế xuất khẩu cam Chile sang Nhật Bản, trước đây là 12%, sẽ giảm xuống 0% trong vòng 8 năm CPTPP cũng có lợi cho cả doanh nghiệp vừa và nhỏ lẫn doanh nghiệp lớn nhờ việc đơn giản hóa thủ tục xuất khẩu và bao gồm các dịch vụ mà các hiệp định song phương trước đây không đề cập, như với Malaysia và Việt Nam.
-Tuy nhiên, để được hưởng các lợi ích ưu đãi đó trong CPTPP, Chile cùng với
3 nước Peru, Malaysia và Brunei cần phải sớm hoàn tất thủ tục phê chuẩn để hiệp định có hiệu lực trong 60 ngày sau đó.
Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 cho nhóm 6 quốc gia đầu tiên, bao gồm Mexico, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada và Úc Đối với Việt Nam, Quốc hội đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP cùng các văn kiện liên quan vào ngày 12/11/2018, và Hiệp định sẽ có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/1/2019.