1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ (SỬA ĐỔI)

31 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Báo Cáo Đánh Giá Tác Động Của Luật Ký Kết, Gia Nhập Và Thực Hiện Điều Ước Quốc Tế (Sửa Đổi)
Trường học Bộ Ngoại Giao
Chuyên ngành Luật Pháp
Thể loại báo cáo
Định dạng
Số trang 31
Dung lượng 638,5 KB

Cấu trúc

  • Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ (3)
    • I. Những hạn chế của quy định pháp luật về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (3)
    • II. Mục tiêu của việc ban hành Luật ĐƯQT (sửa đổi) (5)
    • III. Phương pháp đánh giá và những vấn đề đặt ra trong báo cáo đánh giá tác động của Luật ĐƯQT (sửa đổi) (6)
  • Phần 2. GIẢI PHÁP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA GIẢI PHÁP (7)
    • I. Phạm vi sửa đổi của dự thảo Luật (7)
    • II. Định nghĩa ĐƯQT và phạm vi điều chỉnh của Luật (8)
      • 1. Văn kiện nhân danh Nhà nước, Chính phủ, không mang tính ràng (8)
      • 2. Văn kiện chịu sự điều chỉnh của luật nước ngoài (11)
      • 3. Điều ước nhân danh Chính phủ về khoản vay cụ thể (0)
    • III. Vướng mắc trong việc áp dụng trực tiếp ĐƯQT (16)
      • 1. Mối quan hệ giữa ĐƯQT và quy định của pháp luật trong nước (16)
      • 2. Khái niệm quy định “có thể áp dụng trực tiếp” (19)
      • 3. Việc rà soát, tuyên bố áp dụng trực tiếp quy định ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết trước khi Luật có hiệu lực (22)
    • IV. Vướng mắc về quy trình đề xuất đàm phán, ký ĐƯQT (24)
      • 1. Thời gian thực hiện quy trình đối với ĐƯQT đơn giản (24)
      • 2. Cùng một quy trình áp dụng cho đề xuất đàm phán và đề xuất ký (25)
    • V. Các vấn đề liên quan đến triển khai thi hành Hiến pháp (26)
      • 1. ĐƯQT về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (26)
      • 2. Điều ước trái với luật, nghị quyết của Quốc hội (28)

Nội dung

GIẢI PHÁP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA GIẢI PHÁP

Phạm vi sửa đổi của dự thảo Luật

Luật ĐƯQT, được Quốc hội thông qua vào ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ 1/1/2006, thay thế Pháp lệnh ký kết và thực hiện ĐƯQT năm 1998, gồm 9 chương và 107 điều Luật này mang ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tham gia WTO Sau hơn 9 năm thực hiện, một số quy định đã trở nên bất cập, dẫn đến khó khăn trong quá trình ký kết và thực hiện ĐƯQT Do đó, cần tiến hành rà soát, tổng kết và đánh giá toàn diện Luật ĐƯQT năm 2005 để kiến nghị Quốc hội sửa đổi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Trong quá trình nghiên cứu Dự thảo Luật ĐƯQT (sửa đổi), có hai loại ý kiến về phạm vi sửa đổi Đa số ý kiến cho rằng cần xây dựng Dự thảo Luật mới thay thế Luật ĐƯQT hiện hành, nhằm giải quyết các vấn đề vướng mắc hiện tại trong việc ký kết và thực hiện ĐƯQT Luật mới cần triển khai các quy định của Hiến pháp năm 2013, đồng thời dự liệu tính đa dạng của các ĐƯQT, tạo ra một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ nhưng linh hoạt để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.

Dự thảo Luật này nên tập trung vào việc sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật ĐƯQT để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Đồng thời, cần triển khai các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 mà không làm ảnh hưởng đến công tác ký kết và thực hiện ĐƯQT.

Việc sửa đổi Luật ĐƯQT là cần thiết để giải quyết các vướng mắc hiện tại trong việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế Cần triển khai các quy định của Hiến pháp năm 2013, nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ nhưng linh hoạt cho hoạt động này, từ đó đáp ứng hiệu quả nhu cầu hội nhập quốc tế.

4 Các phương án để lựa chọn và đánh giá tác động của các phương án: Phương án 1: Xây dựng Luật ĐƯQT (sửa đổi)

- Tác động tiêu cực: Không có

+ Tháo gỡ một cách cơ bản những vấn đề vướng mắc.

Hiến pháp năm 2013 đã đưa ra các quy định mới cần được thực hiện bằng cách cụ thể hóa thẩm quyền của các cơ quan liên quan trong quá trình ký kết điều ước quốc tế (ĐƯQT) Việc này bao gồm xây dựng quy trình và hồ sơ cần thiết để thực hiện các thẩm quyền đó một cách hiệu quả.

+ Thuận tiện hơn trong việc theo dõi, áp dụng luật.

Phương án 2: Xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước

Không tháo gỡ được một cách cơ bản các vấn đề vướng mắc Không triển khai được Hiến pháp năm 2013 một cách nhất quán, đầy đủ.

+ Rút ngắn thời gian nghiên cứu xây dựng dự án Luật.

+ Ít xáo trộn trong quy trình, thủ tục ký kết, thực hiện ĐƯQT.

5 Kết luận và kiến nghị:

Sau khi tiến hành nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng phương án 1 không chỉ đạt được mục tiêu đề ra mà còn tạo ra tác động tổng hợp tích cực hơn so với phương án 2.

Định nghĩa ĐƯQT và phạm vi điều chỉnh của Luật

1 Văn kiện nhân danh Nhà nước, Chính phủ, không mang tính ràng buộc pháp lý, không tạo ra quyền, nghĩa vụ đối với Việt Nam a Xác định vấn đề:

Trong công tác đối ngoại, nhiều văn kiện được ký nhân danh Nhà nước và Chính phủ không mang tính ràng buộc pháp lý, không tạo ra quyền và nghĩa vụ cho Việt Nam, thường được gọi là Tuyên bố chung hoặc Biên bản kỳ họp Ủy ban hỗn hợp Một số văn kiện có điều khoản khẳng định rằng chúng chỉ xác định khung hợp tác và không có giá trị ràng buộc pháp lý Những văn bản này xuất hiện trong cả khuôn khổ đa phương (như ASEAN) và song phương, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực chính trị đối ngoại, nhưng cũng xuất hiện trong các lĩnh vực khác Dù không ràng buộc pháp lý, các văn kiện này vẫn có ý nghĩa chính trị và định hướng cao, như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông, và thường được viện dẫn trong các thỏa thuận tài trợ hoặc hỗ trợ phát triển chính thức.

Công ước Viên năm 1969 không công nhận các văn kiện đó là ĐƯQT, và thực tế là hầu hết các quốc gia cũng không xem các văn kiện này là ĐƯQT.

Các văn kiện mô tả trên đây phù hợp với định nghĩa ĐƯQT tại khoản 1 Điều

1 Luật ĐƯQT năm 2005, vì vậy quy trình ký kết và việc thực hiện phải tuân thủ Luật ĐƯQT năm 2005.

Theo Luật ĐƯQT 2005, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nghĩa vụ tuân thủ các điều ước quốc tế mà mình là thành viên, đồng thời có quyền yêu cầu các thành viên khác cũng thực hiện nghĩa vụ này Tuy nhiên, nếu coi những thỏa thuận không ràng buộc về pháp lý là điều ước, Việt Nam sẽ tự đặt ra nghĩa vụ tuân thủ những thỏa thuận mà luật pháp quốc tế không yêu cầu Do đó, về mặt pháp lý, Việt Nam không có quyền yêu cầu các thành viên khác phải tuân thủ các thỏa thuận này.

Nhiều văn bản quan trọng, như Tuyên bố chung, được Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng ký kết với đối tác, thường chỉ hoàn tất ngay trước thời điểm ký Quá trình đàm phán và xây dựng các văn kiện này rất đặc thù, thường được thực hiện qua các cơ chế hợp tác hiện có.

Tuyên bố chung của các Ngoại trưởng ASEAN - Nga nhấn mạnh sự hợp tác vì hòa bình, an ninh, thịnh vượng và phát triển trong khu vực châu Á Thái Bình Dương.

2 Ví dụ: Tuyên bố chung của các bộ trưởng Quốc phòng ASEAN về hợp tác quốc phòng hướng tới cộng đồng ASEAN hòa bình và thịnh vượng.

Nghị viện châu Âu đã chính thức thông qua chương trình hợp tác với Việt Nam, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ hai bên Sự kiện này diễn ra trong bối cảnh Chủ tịch Ủy ban châu Âu chuẩn bị có chuyến thăm tới Việt Nam, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc thúc đẩy hợp tác đa phương và phát triển kinh tế bền vững Việc ký kết các văn kiện chào mừng này không chỉ mở ra cơ hội mới cho cả hai bên mà còn góp phần củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược giữa châu Âu và Việt Nam.

Các khuôn khổ ASEAN là các cơ quan và nhóm làm việc của ASEAN, được coi là “ĐƯQT” theo quy định của Luật ĐƯQT Việc ký kết và sửa đổi các văn bản này phải tuân thủ quy trình chung, bao gồm xin ý kiến các bộ, ngành liên quan và thẩm định của Bộ Tư pháp, điều này gây khó khăn trong việc đẩy nhanh tiến trình Thêm vào đó, việc lấy ý kiến thẩm định trước khi ký là không cần thiết vì các Tuyên bố thường không chứa các điều khoản trái với pháp luật trong nước Các văn bản này là một phần của hoạt động đối ngoại, cần được cấp có thẩm quyền phê duyệt và chỉ đạo thực hiện theo quy định pháp luật Đối với các chuyến thăm cấp cao, việc ký kết được quyết định theo đề án đã được phê duyệt, và các quyết định liên quan đến ký kết đơn lẻ cũng phải tuân theo quy định về chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan trong lĩnh vực đối ngoại.

Việc sửa đổi Luật ĐƯQT về vấn đề này cần đáp ứng những mục tiêu sau :

- Đáp ứng nhu cầu ký kết loại thỏa thuận này về thời gian, khối lượng công việc.

- Tuân thủ các quy định về thẩm quyền quản lý các hoạt động đối ngoại.

Tôn trọng và thực hiện các thỏa thuận quốc tế là điều quan trọng trong quan hệ đối ngoại Để lựa chọn và đánh giá tác động của các phương án, một trong những lựa chọn là không coi loại văn kiện này là ĐƯQT.

Cơ quan đề xuất có thể gặp khó khăn trong việc xác định liệu một văn kiện có tạo ra quyền và nghĩa vụ cho Việt Nam theo luật pháp quốc tế hay không Tuy nhiên, vấn đề này có thể được khắc phục nếu tuân thủ quy chế quản lý các hoạt động đối ngoại Việc thiết lập cơ chế phối hợp giữa cơ quan đề xuất và Bộ Ngoại giao cùng các Bộ, ngành liên quan sẽ giúp kiểm tra và đề xuất giải pháp khi có sự nhầm lẫn trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của Việt Nam theo luật pháp quốc tế.

Việc ký kết và thực hiện văn bản quốc tế cần tuân thủ chính sách đối ngoại từng thời kỳ, nhưng chỉ dựa vào chính sách và Quy chế thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại không đủ để xác định thẩm quyền và thủ tục cần thiết Quy chế này quy định thẩm quyền theo chủ thể, nhưng không điều chỉnh cho cán bộ ngoài nhóm nhân sự do Trung ương quản lý Để khắc phục tình trạng này, cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc hướng dẫn về việc ký kết các văn kiện quốc tế không tạo ra quyền, nghĩa vụ pháp lý.

Khi các loại văn kiện không được xem là điều ước, việc ký kết sẽ tuân theo thủ tục đơn giản hơn, giúp giảm thời gian và khối lượng công việc không cần thiết Phương án này không chỉ đáp ứng các mục tiêu sửa đổi Luật mà còn đảm bảo tuân thủ quy định về thẩm quyền quản lý các hoạt động đối ngoại, đồng thời phản ánh đúng tính chất của văn kiện trong quan hệ đối ngoại.

Phương án 2: Tiếp tục coi loại văn kiện mô tả ở trên là ĐƯQT, chịu sự điều chỉnh của Luật ĐƯQT (sửa đổi).

Tác động tiêu cực từ việc không giải quyết các vấn đề đã nêu có thể dẫn đến việc quy trình đàm phán và ký kết không thực hiện đúng theo quy định của Luật Dù có quy trình rút gọn cho loại văn bản này, chỉ một phần vướng mắc về thời gian và quy trình ký kết được khắc phục, nhưng vẫn không giải quyết triệt để các vấn đề liên quan đến việc thực hiện.

- Tác động tích cực: Ít xáo trộn trong quy trình, thủ tục ký kết, về nguyên tắc phải thực hiện theo luật. đ Kết luận và kiến nghị:

Sau khi nghiên cứu, nhóm nghiên cứu thấy rằng nếu lựa chọn phương án 1 sẽ có tác động tổng hợp theo hướng tích cực hơn so với phương án 2.

2 Văn kiện chịu sự điều chỉnh của luật nước ngoài a Xác định vấn đề:

Một số văn kiện liên quan đến vay ưu đãi từ các đối tác như Cơ quan phát triển Pháp, Ngân hàng Tái thiết Đức và Keximbank Hàn Quốc có điều khoản áp dụng luật của nước cho vay để giải quyết tranh chấp Việt Nam thường phải chấp nhận điều khoản này để nhận khoản vay.

Công ước Viên năm 1969 chỉ coi những thỏa thuận “được luật pháp quốc tế điều chỉnh” là điều ước. b Thực trạng hiện nay:

Theo Luật ĐƯQT năm 2005, các văn bản liên quan được coi là ĐƯQT của Việt Nam và quy trình ký kết cùng thực hiện phải tuân thủ quy định của luật này Những văn bản này tạo ra quyền và nghĩa vụ cho Việt Nam, nhưng điều khoản về giải quyết tranh chấp lại cho thấy chúng không thuộc sự điều chỉnh của luật pháp quốc tế, mà là luật của nước cho vay Do đó, chủ trương vay vốn, cũng như việc xây dựng, phê duyệt và thực hiện dự án, cần tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam.

Các đối tác thường yêu cầu các giấy tờ giống như các ĐƯQT thông thường khác, bao gồm Giấy ủy quyền do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ký và ý kiến pháp lý từ Bộ Tư pháp về việc tuân thủ quy định nội bộ Các nhà tài trợ của Việt Nam coi những văn bản này là ĐƯQT và có thể phản đối nếu Việt Nam không tiếp tục công nhận chúng Họ cũng mong muốn quy trình ký kết ĐƯQT được thực hiện nhanh chóng hơn.

Vướng mắc trong việc áp dụng trực tiếp ĐƯQT

1 Mối quan hệ giữa ĐƯQT và quy định của pháp luật trong nước a Xác định vấn đề:

Khoản 1 Điều 6 của Luật ĐƯQT 2005 quy định “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và ĐƯQT mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của ĐƯQT”. Theo khoản 3 Điều 6, “Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của ĐƯQT, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của ĐƯQT đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT đó”.

Quy định tại Điều 6 Khoản 1 và 3 của Luật ĐƯQT có thể được hiểu theo hai cách khác nhau: (a) quy định của ĐƯQT có thể được áp dụng ngay cả khi không có quyết định từ cơ quan nhà nước xác nhận rằng quy định đó là áp dụng trực tiếp, hoặc (b) cần có sự công nhận từ cơ quan nhà nước để quy định có hiệu lực.

Quy định ĐƯQT chỉ được áp dụng gián tiếp qua các văn bản pháp luật trong nước đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới Ngoài ra, việc áp dụng trực tiếp quy định ĐƯQT chỉ xảy ra sau khi cơ quan có thẩm quyền công nhận.

Kể từ khi Luật ĐƯQT 2005 có hiệu lực, chỉ có một số ít quyết định phê chuẩn và ký ĐƯQT đề cập đến việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần của ĐƯQT Dữ liệu hiện có cho thấy rất ít văn bản quy định rõ ràng về việc áp dụng hay không áp dụng trực tiếp ĐƯQT Chẳng hạn, Nghị quyết số 71/2006/NQ-QH11 ngày 25/11/2006 của Quốc hội về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đã tuyên bố áp dụng trực tiếp một số cam kết của Việt Nam.

Nghị quyết này nêu rõ các cam kết của Việt Nam đối với Tổ chức Thương mại Thế giới, được trình bày chi tiết trong Nghị định thư, các phụ lục đính kèm và báo cáo của Ban công tác liên quan đến việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập tổ chức này.

Năm 2013, Chủ tịch nước đã đưa ra quyết định ký Công ước chống tra tấn, tuy nhiên, đồng thời tuyên bố không áp dụng trực tiếp các quy định trong công ước này.

Trong quá trình ký kết điều ước quốc tế (ĐƯQT), các cơ quan đề xuất thường kiến nghị áp dụng trực tiếp toàn bộ nội dung của điều ước Tuy nhiên, trường hợp cơ quan quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT và đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp hoặc toàn bộ ĐƯQT lại rất hiếm gặp.

Trong quá trình thực hiện ĐƯQT, nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân đã hình thành tâm lý tôn trọng cam kết quốc tế của Việt Nam Việc viện dẫn “chưa có quyết định áp dụng trực tiếp” không thể biện minh cho việc từ chối tuân thủ các quy định áp dụng trực tiếp, như quyền khởi kiện trọng tài của nhà đầu tư nước ngoài trong các tranh chấp đầu tư Đối với các quy định chỉ tạo ra quyền và nghĩa vụ giữa các quốc gia, như việc chuyển giao mẫu hộ chiếu, việc ban hành văn bản để thi hành hoặc công nhận "áp dụng trực tiếp" không chỉ không cần thiết mà còn có thể coi là bất hợp lý.

- Thống nhất một cách hiểu hợp lý.

- Tạo điều kiện cho việc thực hiện ĐƯQT.

- Phù hợp với chức năng, thẩm quyền, điều kiện làm việc của các cơ quan liên quan.

Việc ban hành quyết định về áp dụng trực tiếp hoặc không áp dụng trực tiếp ĐƯQT cần được thực hiện một cách rõ ràng và minh bạch, nhằm đảm bảo cách thức thực hiện hiệu quả Đồng thời, cần xem xét các phương án khác nhau và đánh giá tác động của từng phương án để đưa ra lựa chọn tối ưu.

Luật không xem việc cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng trực tiếp là điều kiện cần thiết để viện dẫn và áp dụng trực tiếp các quy định của Điều ước quốc tế trong hệ thống pháp lý quốc gia.

Một số ý kiến cho rằng phương án này có tác động tiêu cực, nhưng không thể viện dẫn việc chưa tuyên bố công nhận áp dụng trực tiếp để từ chối áp dụng ĐƯQT Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, bất kể lựa chọn phương án nào, quốc gia không thể viện dẫn lý do này để vi phạm nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế Do đó, nếu một quốc gia không thực hiện nghĩa vụ theo ĐƯQT với lý do “pháp luật trong nước chỉ cho phép áp dụng trực tiếp nếu đã tuyên bố công nhận”, thì lý do này cũng sẽ không được chấp nhận theo luật quốc tế.

Một số ý kiến cho rằng thẩm phán có thể từ chối áp dụng quy định của Điều ước quốc tế (ĐƯQT) vì cho rằng nó không phải là “pháp luật” Tuy nhiên, quan điểm này thiếu cơ sở, vì khoản 1 Điều 6 Luật ĐƯQT năm 2005 đã xác định ĐƯQT là “pháp luật” mà thẩm phán phải tuân theo khi xét xử Hơn nữa, nhiều luật khác như Bộ luật Dân sự và Luật Đất đai cũng quy định về việc áp dụng điều ước quốc tế và pháp luật nước ngoài, do đó thẩm phán không thể từ chối áp dụng các quy định này chỉ vì lý do chúng không được tuyên bố áp dụng trực tiếp.

Như vậy, phương án 1 không có tác dụng tiêu cực.

Các quyết định ký, phê chuẩn và phê duyệt hiện nay cần phù hợp với thực tiễn và không nhất thiết phải xác định các điều khoản của điều ước quốc tế (ĐƯQT) được áp dụng trực tiếp trong Quyết định về sự ràng buộc Việc này giúp đảm bảo tuân thủ các quy định có thể áp dụng trực tiếp mà không cần phải ban hành thêm văn bản công nhận áp dụng.

+ Phù hợp với tâm lý, thực tiễn đã hình thành trong áp dụng, thực hiện, tuân thủ ĐƯQT.

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền quyết định về việc áp dụng trực tiếp hoặc không áp dụng trực tiếp tại thời điểm ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập.

“chuyển hóa” vào luật trong nước.

Cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật để “chuyển hóa” và công nhận áp dụng trực tiếp các điều khoản trong Điều ước quốc tế (ĐƯQT) Văn bản này phải chỉ rõ điều nào, khoản nào được áp dụng trực tiếp và điều khoản nào không Việc này có thể dẫn đến sự trùng lắp trong quy trình ký kết ĐƯQT và quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước và không đáp ứng nhu cầu ký kết, thực hiện ĐƯQT một cách chính xác.

Vướng mắc về quy trình đề xuất đàm phán, ký ĐƯQT

1 Thời gian thực hiện quy trình đối với ĐƯQT đơn giản a Xác định vấn đề và thực trạng hiện nay:

Luật hiện hành không phân biệt giữa thủ tục đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế (ĐƯQT) phức tạp hay đơn giản, dẫn đến việc áp dụng cùng một quy trình xin ý kiến, kiểm tra cho cả hai loại Điều này tạo ra nhu cầu cần có thủ tục nhanh hoặc rút gọn cho việc ký kết và sửa đổi các điều ước nhằm phục vụ yêu cầu đối ngoại và hội nhập Một số quốc gia đã quy định thủ tục rút gọn cho các loại điều ước nhất định, trong khi nhiều nước khác ủy quyền cho Bộ Ngoại giao thực hiện việc đề xuất đàm phán và ký kết, giúp quy trình này diễn ra nhanh chóng khi nội dung đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận.

Đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian thực hiện ký kết đối với các loại ĐƯQT đơn giản là cần thiết Việc này phải tuân thủ các tiêu chí thống nhất nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu đối ngoại.

Cần có một cách tiếp cận thận trọng đối với những điều ước phức tạp và có tác động lớn đến xã hội Việc ký kết và gia nhập các điều ước này đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đảm bảo sự tham gia đầy đủ của nhiều đối tượng liên quan và diễn ra trong một khoảng thời gian dài.

- Tuân thủ thẩm quyền của các cơ quan nhà nước theo quy định của Hiến pháp. c Các phương án và đánh giá tác động của phương án

Phương án 1 đề xuất áp dụng thủ tục rút gọn cho một số loại điều ước, với điều kiện các điều ước này phải đáp ứng những tiêu chí nhất định và tuân thủ thẩm quyền của các cơ quan nhà nước theo quy định của Hiến pháp.

- Tác động tiêu cực: Không có.

- Tác động tích cực: Đạt được mục tiêu đề ra.

Phương án 2 đề xuất không thực hiện thủ tục rút gọn, nhưng sẽ đơn giản hóa quy trình ký kết các ĐƯQT nhằm rút ngắn thời gian thực hiện.

Rút ngắn thời gian thực hiện quy trình có thể gây ra tác động tiêu cực, đặc biệt đối với những điều ước phức tạp và có ảnh hưởng lớn đến xã hội Việc ký kết và gia nhập các điều ước này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và yêu cầu sự tham gia đầy đủ của nhiều đối tượng trong một khoảng thời gian dài.

Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục ký kết ĐƯQT đã mang lại tác động tích cực, đáp ứng hiệu quả nhu cầu đối ngoại Kết luận, cần tiếp tục cải thiện quy trình này để nâng cao hiệu quả và sự thuận lợi trong các giao dịch quốc tế.

Sau khi tiến hành nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận định rằng phương án 1 mang lại tác động tổng hợp tích cực hơn và có tính khả thi cao hơn so với phương án 2.

2 Cùng một quy trình áp dụng cho đề xuất đàm phán và đề xuất ký a Xác định vấn đề và hiện trạng:

Luật hiện hành quy định thủ tục “đàm phán, ký” (viết gộp), tuy nhiên, có nhiều trường hợp cần xin phép đàm phán và ký riêng biệt Khi thực hiện riêng lẻ, các bước như xin ý kiến Bộ, ngành và thẩm định cần phải giống nhau, nhưng một số yêu cầu lại không phù hợp với từng giai đoạn Ví dụ, việc xin ý kiến về chủ trương đàm phán chỉ cần thiết trong giai đoạn chuẩn bị, trong khi thẩm định chỉ có ý nghĩa khi đã đạt thỏa thuận sơ bộ với đối tác Điều này dẫn đến việc thực hiện các bước giống nhau có thể gây ra thủ tục nặng nề, kéo dài, không đáp ứng nhu cầu đối ngoại.

Trước khi tiến hành đàm phán và ký kết, việc xác định rõ ràng các công việc cần thực hiện là rất quan trọng Đồng thời, cần xây dựng các phương án khả thi và đánh giá tác động của từng phương án để đảm bảo sự thành công trong quá trình thương thảo.

Phương án 1 đề xuất tách biệt thủ tục đàm phán và thủ tục ký, coi chúng là hai quy trình riêng biệt Tuy nhiên, nếu đáp ứng đủ các điều kiện nhất định, như xác định rõ nội dung và tập hợp đầy đủ tài liệu trong hồ sơ đề xuất ký, cơ quan đề xuất có thể trình đồng thời cả hai thủ tục này.

- Tác động tiêu cực: Không có.

- Tác động tích cực: Đạt được mục tiêu đề ra

Phương án 2: Giữ nguyên như luật hiện nay

- Tác động tiêu cực: Không khắc phục được các vướng mắc.

- Tác động tích cực: Không gây ra xáo trộn về nội dung, cách thức thực hiện quy trình. d Kết luận và kiến nghị:

Nghiên cứu chỉ ra rằng phương án 1 mang lại tác động tổng hợp tích cực hơn và khả thi hơn so với phương án 2.

Các vấn đề liên quan đến triển khai thi hành Hiến pháp

Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có quyền phê chuẩn các điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình và quyền con người Theo Luật ĐƯQT năm 2005, Chủ tịch nước có trách nhiệm phê chuẩn các điều ước quốc tế, trừ những điều ước do Chủ tịch nước ký với lãnh đạo các quốc gia khác hoặc những điều ước cần trình Quốc hội phê chuẩn Tuy nhiên, thực tế cho thấy Quốc hội chỉ phê chuẩn một số ít điều ước quốc tế quan trọng như Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và Hiệp định Thương mại tự do Việt - Mỹ Để xác định rõ thẩm quyền phê chuẩn, cần làm rõ một số vấn đề liên quan.

1 ĐƯQT về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân a Xác định vấn đề và hiện trạng: người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân khá lớn, có thể phân thành hai loại chính sau: i) những ĐƯQT nhằm xác định rõ các quyền con người và quy định nghĩa vụ của Nhà nước phải tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy thực hiện các quyền đó, trừng trị những hành vi xâm phạm Các điều ước này được quốc tế coi là ĐƯQT về quyền con người; ii) những ĐƯQT quy định về nguyên tắc, khuôn khổ, biện pháp triển khai và hợp tác quốc tế trong các hoạt động chuyên ngành có thể có tác động đến quyền con người hoặc quyền công dân Các điều ước này không được quốc tế coi là ĐƯQT về quyền con người.

Hiến pháp năm 2013 yêu cầu Quốc hội phê chuẩn các điều ước quốc tế (ĐƯQT) liên quan đến quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa cam kết quốc tế và luật pháp quốc gia Điều này nhằm thúc đẩy bảo vệ quyền con người, được quy định rõ trong Chương II của Hiến pháp Quốc hội còn có thẩm quyền phê chuẩn các ĐƯQT khác, đặc biệt là những điều có quy định trái luật hoặc nghị quyết của Quốc hội Với thực tế Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và chỉ họp hai kỳ mỗi năm, cần có cách tiếp cận thực tiễn để xác định các ĐƯQT về quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội.

Đảm bảo thẩm quyền của Quốc hội là rất quan trọng, đồng thời cần phát huy thẩm quyền của Chủ tịch nước để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đối ngoại của Chính phủ.

Bài viết cần đảm bảo phù hợp với điều kiện làm việc thực tế, có tham khảo và đảm bảo sự tương đồng với các tiêu chuẩn của Liên hợp quốc cũng như các quốc gia khác trên thế giới Đồng thời, các phương án được đề xuất cần được đánh giá kỹ lưỡng về tác động của từng phương án để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả trong thực tiễn.

Phương án 1 đề cập đến quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân theo khoản 14 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 Nội dung chính của các điều ước này là công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền con người, đồng thời quy định nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền này, cũng như xử lý các hành vi xâm phạm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Chương II của Hiến pháp.

- Tác động tiêu cực: Không có.

Bảo đảm thẩm quyền của Quốc hội và phát huy thẩm quyền của Chủ tịch nước là những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về ĐƯQT của Chính phủ Điều này không chỉ phù hợp với điều kiện làm việc thực tế mà còn tham khảo và đảm bảo sự tương đồng với thực tiễn của Liên hợp quốc và các quốc gia khác trên thế giới.

Phương án 2 quy định rằng Quốc hội có thẩm quyền quyết định phê chuẩn và gia nhập các điều ước quốc tế liên quan đến quyền con người và quyền nghĩa vụ công dân Tuy nhiên, điều này chỉ được thực hiện nếu các điều ước đó không trái với các quy định về quyền con người và quyền công dân đã được nêu trong luật và nghị quyết của Quốc hội.

Tác động tiêu cực có thể được coi là không tuân thủ quy định của Hiến pháp, đặc biệt khi xem xét ý nghĩa của khoản 14 Điều 70.

- Tác động tích cực: Tương tự như tác động tích cực của phương án 1.

Phương án 3: Tất cả các ĐƯQT có liên quan đến quyền con người, quyền công dân đều phải trình Quốc hội phê chuẩn.

Tác động tiêu cực của việc này là gia tăng khối lượng công việc đáng kể cho Quốc hội, dẫn đến khó khăn trong việc đảm bảo thời hạn và tính linh hoạt cần thiết trong quá trình ký kết các điều ước quốc tế.

Nâng cao trách nhiệm của Quốc hội thông qua việc phê chuẩn các điều ước sẽ tạo ra sự thuyết phục mạnh mẽ đối với người dân và tổ chức Điều này không chỉ củng cố niềm tin của công chúng mà còn thúc đẩy sự tham gia tích cực của các bên liên quan trong quá trình ra quyết định Kết luận, việc tăng cường vai trò của Quốc hội trong việc phê duyệt các điều ước quốc tế là cần thiết và nên được khuyến khích để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý nhà nước.

Sau khi nghiên cứu, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng phương án 1 mang lại tác động tổng hợp tích cực và khả thi hơn so với các phương án khác.

2 Điều ước trái với luật, nghị quyết của Quốc hội a Xác định vấn đề và hiện trạng:

Nhiều ĐƯQT có quy định khác với luật và nghị quyết của Quốc hội, như các Hiệp định vay từ nhà tài trợ cho dự án cụ thể Để nhận mức vay ưu đãi, thường phải chấp nhận các điều kiện của nhà tài trợ, như quy định về đấu thầu và hỗ trợ tái định cư, mà không cần sửa đổi hay ban hành văn bản pháp luật mới Theo Luật ĐƯQT 2005, Chủ tịch nước có quyền phê chuẩn loại điều ước này, nhưng Hiến pháp 2013 quy định rằng Quốc hội mới có thẩm quyền phê chuẩn Do đó, cần làm rõ các điều ước nào được coi là “ĐƯQT trái với luật, nghị quyết của Quốc hội” để xác định thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội.

Cần làm rõ rằng trong trường hợp Điều ước quốc tế (ĐƯQT) không có quy định trực tiếp mâu thuẫn với luật, nghị quyết của Quốc hội, nhưng yêu cầu sửa đổi hoặc bổ sung luật, nghị quyết, pháp lệnh để thực hiện, thì cần xác định liệu việc này có thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội hay không Ví dụ, nếu ĐƯQT yêu cầu hình sự hóa một hành vi chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự, thì đây là vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng.

Bảo đảm thẩm quyền của Quốc hội là rất quan trọng, đồng thời cần phát huy vai trò của Chủ tịch nước và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý nhà nước về đối ngoại của Chính phủ.

- Phù hợp với điều kiện làm việc thực tế. c Các phương án và đánh giá tác động của từng phương án:

Ngày đăng: 17/01/2022, 17:52

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w