1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TIỂU LUẬN đường lối đối ngoại của đảng cộng sản việt nam giai đoạn từ sau năm 1986 đến nay

32 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 32
Dung lượng 55,52 KB

Cấu trúc

  • 1. MỞ RỘNG' QUAÍ H ỆĐỐI NGOẠI VÀ CI1 1 Ủ 1 Í 5 Ọ NG 20 ỌI^\NẠP QUỐC TẾ LÀ Đỏ V HMiĩậHỐCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC 1 VÀ 1 X 08 THẾ CHUNG CỦA THÊ GIỚI. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế (0)
    • 1.1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc (8)
  • 2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC (11)
    • 2.1.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng (11)
    • 2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân (12)
    • 2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995) (0)
      • 2.2.1. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991) (13)
      • 2.2.2. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995) (16)
    • 2.3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay) (17)
      • 2.3.1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004) (17)
      • 2.3.2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 - đến nay) (21)
  • 3. MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI (23)
    • 3.2. Một số bài học bước đầu về chính sách đối ngoại (29)
  • KẾT LUẬN (31)

Nội dung

MỞ RỘNG' QUAÍ H ỆĐỐI NGOẠI VÀ CI1 1 Ủ 1 Í 5 Ọ NG 20 ỌI^\NẠP QUỐC TẾ LÀ Đỏ V HMiĩậHỐCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC 1 VÀ 1 X 08 THẾ CHUNG CỦA THÊ GIỚI Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế

Truyền thống ngoại giao của dân tộc

Trong suốt lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách Qua những thăng trầm, ngoại giao Việt Nam đã dần dần hình thành và phát triển, kết hợp giữa bản sắc dân tộc và tinh hoa nhân loại, tạo nên một bản sắc riêng biệt cho nền ngoại giao Việt Nam.

Ngoại giao Việt Nam truyền thống được hình thành từ ý chí kiên cường đấu tranh cho độc lập và tự do, với những tấm gương sáng như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn và Nguyễn Trãi Điều này thể hiện lòng mong muốn hòa bình và hòa hiếu, phản ánh bản chất nhân văn sâu sắc và truyền thống yêu chuộng hòa bình của người Việt Lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm đã mang lại cho ngoại giao Việt Nam tính chiến đấu cao, cùng với những giá trị hòa bình, nhân nghĩa và thủy chung, thể hiện qua quan điểm “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.

Tư tưởng đối ngoại và phong cách ngoại giao của Bác Hồ phản ánh sự kết hợp giữa truyền thống dân tộc và tinh hoa nhân loại Trong đó, ngoại giao nhân dân đóng vai trò quan trọng như một "binh chủng" đa kênh, cùng với ngoại giao Đảng và Nhà nước, tạo thành nền ngoại giao tổng hợp của quốc gia.

Trong lịch sử quan hệ quốc tế, ngoại giao được thực hiện qua hai hình thức chính: ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân Ngoại giao nhà nước là mối quan hệ giữa chính phủ các nước có chủ quyền, với các quan chức đại diện tại các đại sứ quán hoặc cơ quan ngoại giao Ngược lại, ngoại giao nhân dân là hoạt động quan hệ đối ngoại do tổ chức, đoàn thể hoặc cá nhân thực hiện, không mang tính chất chính thức của chính phủ.

Ngoại giao nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy "sức mạnh mềm" của một quốc gia, hỗ trợ cho ngoại giao nhà nước trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của chính phủ Đây là lực lượng chủ chốt trên mặt trận ngoại giao, với ưu thế là có thể tiên phong và tiếp cận các khu vực, quốc gia, cũng như những vấn đề mà ngoại giao chính thức chưa thể triển khai.

Hồ Chí Minh chủ trương một chính sách đối ngoại rộng mở, tập trung vào việc "thêm bạn, bớt thù" và tìm kiếm những điểm tương đồng để xây dựng mặt trận đoàn kết hỗ trợ Việt Nam Ông nhấn mạnh rằng ngoại giao không chỉ là nhiệm vụ của chính quyền mà còn cần sự ủng hộ từ nhân dân và bạn bè quốc tế Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ năm 1945, dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp giữa truyền thống và tư tưởng ngoại giao của ông, được áp dụng linh hoạt trong từng hoàn cảnh Qua các giai đoạn khác nhau, ngoại giao Việt Nam đã kế thừa và phát huy truyền thống, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chủ quyền và xây dựng đất nước phồn thịnh.

1.2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới

1.2.1 Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước

Năm 1975, Việt Nam hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội sau một thời gian dài chiến tranh Tuy nhiên, đất nước phải đối mặt với hậu quả nặng nề từ hơn 30 năm chiến tranh và hai cuộc chiến biên giới với Campuchia và Trung Quốc, làm suy giảm tiềm lực quốc gia Đại hội Đảng lần V (3-1982) đã nhận định rằng nước ta đang trong tình thế vừa có hòa bình vừa phải đương đầu với nhiều thách thức Bên cạnh đó, tư tưởng chủ quan và nóng vội trong việc phát triển nhanh chóng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến nhiều khó khăn về kinh tế và xã hội.

1.2.2 Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất toàn cầu, với Nhật Bản và Tây Âu trở thành hai trung tâm kinh tế lớn Xu hướng phát triển kinh tế đã dẫn đến sự hòa hoãn giữa các nước lớn Thắng lợi của cách mạng Việt Nam và các nước Đông Dương đã mở rộng hệ thống xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy phong trào cách mạng toàn cầu Đảng ta nhận định rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa đang ngày càng lớn mạnh, cùng với sự phát triển của phong trào độc lập dân tộc và cách mạng công nhân Tuy nhiên, giữa thập kỷ 70, các nước xã hội chủ nghĩa đã gặp phải tình trạng trì trệ và bất ổn, đồng thời xuất hiện những mâu thuẫn nội bộ, trong khi Đông Nam Á cũng chứng kiến những chuyển biến mới.

Sau năm 1975, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, dẫn đến sự tan rã của khối quân sự SEATO Ngày 24/02/1976, các nước ASEAN đã ký hiệp ước Bali, đánh dấu bước ngoặt trong việc thiết lập hòa bình và hợp tác trong khu vực Đông Nam Á.

Từ những năm 1980, thế giới đã chứng kiến sự thay đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, với toàn cầu hoá kinh tế trở thành xu thế nổi bật và tất yếu Mọi quốc gia và dân tộc đều phải mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu để phát triển Đồng thời, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 diễn ra mạnh mẽ, tập trung vào ứng dụng các phát minh khoa học và phát triển các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới và công nghệ sinh học.

Tình hình hiện tại đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến sự thay đổi trong lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế theo hướng dựa vào tri thức và công nghệ Sự chuyển mình này đã tạo ra các ngành sản xuất mới, đồng thời làm tăng vai trò và tỷ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế quốc dân.

QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC

Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng

Đại hội IV của Đảng (12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại là tận dụng các điều kiện quốc tế thuận lợi nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Đại hội chủ trương củng cố tình đoàn kết và hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia, đồng thời thiết lập quan hệ hữu nghị với các nước trong khu vực và mở rộng quan hệ bình thường với tất cả các quốc gia dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và lợi ích chung.

Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh chính sách đối ngoại, chú trọng vào việc củng cố hợp tác với Liên Xô, bảo vệ mối quan hệ Việt - Lào trong bối cảnh phức tạp tại Campuchia, và xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, tự do, trung lập Đại hội V (3/1982) nhấn mạnh rằng công tác đối ngoại cần chủ động trong việc đối phó với các thế lực chống phá cách mạng Đảng khẳng định sự đoàn kết với Liên Xô là nền tảng chính sách đối ngoại, đồng thời coi quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia là sống còn cho ba dân tộc Đảng kêu gọi các nước ASEAN đối thoại để giải quyết trở ngại và hướng tới một Đông Nam Á hòa bình, ổn định, đồng thời đề xuất khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc dựa trên nguyên tắc hòa bình, và mở rộng quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.

Thực tế cho thấy ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn (1975-

Từ năm 1975 đến 1977, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 quốc gia và chính thức gia nhập các tổ chức quốc tế quan trọng như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và Liên hợp quốc Việt Nam cũng tham gia tích cực vào phong trào không liên kết Đến năm 1977, một số nước tư bản đã bắt đầu hợp tác kinh tế với Việt Nam Cuối năm 1976, Philippines và Thái Lan là hai quốc gia cuối cùng trong ASEAN thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Kết quả đối ngoại của Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc khôi phục đất nước sau chiến tranh Tăng cường hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ kinh tế đã mang lại nguồn viện trợ đáng kể Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới và Liên hợp quốc, đồng thời tích cực tham gia vào Phong trào Không liên kết, từ đó thu hút sự ủng hộ và hợp tác từ các nước và tổ chức quốc tế Việc thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước ASEAN đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đối ngoại, góp phần xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Hạn chế và nguyên nhân

Từ năm 1975 đến 1986, quan hệ hợp tác của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do bị bao vây và cô lập, đặc biệt từ cuối thập kỷ 70 đến thế kỷ XX Các nước ASEAN và một số quốc gia khác đã thực hiện bao vây và cấm vận Việt Nam với lý do "sự kiện Campuchia".

Trong giai đoạn này, những khó khăn trong quan hệ đối ngoại xuất phát từ việc chúng ta chưa nhận thức đầy đủ xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và cạnh tranh kinh tế toàn cầu Điều này đã dẫn đến việc không tận dụng hiệu quả các yếu tố thuận lợi trong quan hệ quốc tế, ảnh hưởng đến nỗ lực khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh.

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995)

Giai đoạn 1975-1986 đã được Đại hội VI của Đảng chỉ ra những vấn đề như "bệnh chủ quan, duy ý chí" và những cách suy nghĩ, hành động đơn giản, nóng vội, chạy theo nguyện vọng cá nhân.

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1986-1995)

2.2.1 Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)

Hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam bắt đầu từ năm 1986, với Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V chuyển từ đối đầu sang đối thoại và giữ gìn hòa bình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI nhấn mạnh việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để duy trì hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, đồng thời khẳng định chính sách đối ngoại hòa bình và hữu nghị Việt Nam mong muốn hợp tác với các nước trong khu vực để giải quyết vấn đề và xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định Đại hội VI xác định nhiệm vụ hàng đầu là tận dụng điều kiện quốc tế thuận lợi cho xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nhấn mạnh rằng hòa bình là điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế Nghị quyết của Đại hội VI đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, mở rộng quan hệ với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị, phù hợp với lợi ích nhân dân và xu thế phát triển chung, trở thành tư tưởng chủ đạo trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam, đồng thời đánh dấu bước quan trọng trong tiến trình gia nhập ASEAN.

Dưới sự đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định rõ mục tiêu và chính sách lớn trong ngoại giao, tập trung vào hòa bình và phát triển Quyết tâm giải quyết vấn đề Campuchia là bước quan trọng để bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và Hoa Kỳ.

Từ giữa những năm 80, các nước lớn và ASEAN đã bắt đầu hợp tác để giải quyết các vấn đề khu vực, đặc biệt là vấn đề Campuchia Đại hội VI khẳng định mong muốn thiết lập quan hệ hòa bình và ổn định tại Đông Nam Á Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) đánh dấu bước chuyển mình trong tư duy đối ngoại của Đảng, nhấn mạnh cơ hội lớn để giữ hòa bình và phát triển kinh tế Nghị quyết xác định rằng với nền kinh tế mạnh và quốc phòng đủ mạnh, Việt Nam có khả năng giữ vững độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội Đồng thời, Nghị quyết 13 cũng thay đổi quan điểm về liên minh ba nước Đông Dương, không coi nhóm này đối lập với ASEAN.

Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng chính sách toàn diện với Đông Nam Á, đặc biệt là tăng cường hợp tác với Indonesia, giải quyết bế tắc trong quan hệ với Thái Lan, và mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa với các quốc gia trong khu vực Mục tiêu là thúc đẩy khu vực hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác Ngoài ra, nghị quyết cảnh báo về nguy cơ tụt hậu nếu không nắm bắt cơ hội, đồng thời kêu gọi sự đồng tình từ cộng đồng quốc tế để ngăn chặn âm mưu cô lập về kinh tế và chính trị, tận dụng sự phát triển khoa học - kỹ thuật và vị trí trong phân công lao động quốc tế.

Vào ngày 29/07/1987, ngoại trưởng Indonesia đã thăm và ký Thông cáo chung Việt Nam - Indonesia tại thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thiết lập quan hệ song phương và mở ra cơ hội đối thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia Từ năm 1984 đến 1989, Việt Nam đã từng bước rút quân khỏi Campuchia, hướng tới một giải pháp hòa bình cho tình hình này Trước những diễn biến tích cực, các nước ASEAN đã bắt đầu phát triển quan hệ với Việt Nam và hoan nghênh sự tham gia của Việt Nam vào hợp tác khu vực Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 vào tháng 12/1987 tại Manila, Tổng thống Philippines C.V Akinô đã tuyên bố không coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Philippines.

Tiếp đó tháng 2/1989, Bộ trưởng Ngoại giao Philipin tuyên bố: “Không chống lại việc Việt

Vào tháng 8/1988, Thủ tướng Thái Lan Chatichai đã đề xuất chuyển đổi Đông Dương từ chiến trường thành thị trường, một chính sách nhận được sự ủng hộ từ Thủ tướng Malaysia vào tháng 6/1989 Trong bối cảnh thực hiện đường lối đổi mới theo Đại hội Đảng VI, Việt Nam khẳng định cam kết sống hòa bình và hợp tác với các nước trong khu vực, nhằm xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định và phát triển Tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á - Thái Bình Dương diễn ra tại TP Hồ Chí Minh vào tháng 1/1989, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh rằng Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực.

Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “ Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông

Quan hệ Việt Nam - ASEAN đã được củng cố mạnh mẽ từ năm 1989, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về việc gia nhập ASEAN Sự kiện nổi bật trong mối quan hệ này là chuyến thăm của Tổng thống Indonesia Xuhacto, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hợp tác giữa hai bên.

Vào tháng 10 năm 1990, ASEAN đã thực hiện chuyến thăm hữu nghị chính thức đầu tiên đến Việt Nam Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã có các chuyến thăm hữu nghị chính thức tới Indonesia, Thái Lan và Singapore trong khoảng thời gian sau đó.

Kể từ giai đoạn này, các nước ASEAN đã dần tách khỏi lập trường của Trung Quốc về Campuchia và vượt qua chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, từ đó cải thiện quan hệ với Việt Nam - Đông Dương Kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng mạnh, từ 107 triệu đô la Mỹ vào năm 1985 lên 740 triệu đô la Mỹ vào năm 1991.

Chúng ta đã giải quyết vấn đề Campuchia bằng cách giữ vững các thành quả của cách mạng, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và thiết lập mối quan hệ với các nước ASEAN Điều này tạo điều kiện để tham gia tổ chức ASEAN, góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển Đồng thời, chúng ta cũng từng bước cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ, từ đó tăng cường mối quan hệ với Nhật Bản và các nước phương Tây khác Những thành tựu đối ngoại trong giai đoạn đầu đổi mới sẽ là nền tảng cho những thắng lợi lớn hơn trong tương lai.

2.2.2 Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995)

Quan hệ Việt Nam - ASEAN đã có những chuyển biến tích cực kể từ khi Hiệp định Pari về Campuchia được ký kết vào tháng 10/1991 Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của "thời kỳ Campuchia" trong quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN, đồng thời mở ra một giai đoạn mới, tập trung vào hợp tác giữa hai bên.

Việt Nam, sau nhiều cuộc chiến tranh, hiện đang tập trung vào việc duy trì hòa bình và ổn định khu vực, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc đổi mới và cải thiện đời sống nhân dân Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã xác định nhiệm vụ công tác đối ngoại, đề ra các phương châm xử lý vấn đề quan hệ quốc tế, và khẳng định chủ trương mở rộng, đa phương hóa các mối quan hệ đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Đồng thời, Nghị quyết cũng nhấn mạnh tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

Lãnh đạo Việt Nam và các nước ASEAN đã tăng cường quan hệ thông qua các chuyến thăm lẫn nhau, góp phần nâng cao sự hiểu biết và tin cậy Hai bên đã ký nhiều hiệp định cấp chính phủ, tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư ASEAN trở thành đối tác quan trọng, chiếm khoảng 30% hàng xuất - nhập khẩu của Việt Nam, với kim ngạch buôn bán tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1991 lên 2,7 tỷ USD năm 1994 Các nước ASEAN cũng chiếm hơn 20% tổng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Hai bên đã đàm phán để giải quyết các vấn đề tồn tại, như thỏa thuận với Malaysia về khai thác vùng chồng lấn và hồi hương người Việt di tản Thái Lan hỗ trợ Việt kiều có quốc tịch và thúc đẩy hợp tác sông Mekong Việt Nam cũng kiên trì đàm phán về thềm lục địa với Indonesia.

Vào tháng 07/1992, Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN Từ năm 1992, Việt Nam đã được mời tham dự các cuộc họp hàng năm của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN Đến tháng 2/1993, Việt Nam tuyên bố "sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp", điều này đã nhận được sự ủng hộ từ các nước thành viên.

ASEAN, dư luận khu vực và quốc tế đánh giá cao Đáp lại ,các nước ASEAN tuyên bố

Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-đến nay)

2.3.1 Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2004)

Tại đại hội VIII vào tháng 6 năm 1996, Đảng đã tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia và các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế Đồng thời, Đảng cũng đề ra các chủ trương mới nhằm tăng cường sự hợp tác này.

Đại hội VIII đã xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, nhấn mạnh việc "xây dựng nền kinh tế mở" và "đẩy nhanh quá trình kinh tế khu vực và thế giới" So với đại hội VII, chủ trương đối ngoại của đại hội VIII có những đặc điểm mới, thể hiện sự thích ứng linh hoạt với bối cảnh toàn cầu.

• Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác

• Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ.

• Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương: “Thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (12-1997) đã đề ra chủ trương khẩn trương đàm phán Hiệp định Thương mại Mỹ, gia nhập APEC và WTO, đồng thời thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA Tại Đại hội lần thứ IX (4-2001), Đảng nhấn mạnh việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, phát huy tối đa nội lực Đảng khẳng định quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, bao gồm độc lập về đường lối, chính sách và tiềm lực kinh tế mạnh mẽ, kết hợp giữa nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước hiệu quả.

Sau 15 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; “thế” và

Việt Nam đã nâng cao sức mạnh và mở rộng quan hệ quốc tế, cải thiện vị thế trên trường quốc tế, nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực Đại hội VIII và IX của Đảng đã khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc trở thành bạn bè và đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực Để thực hiện mục tiêu này, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế, đưa ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế.

Vào tháng 7 năm 2003, Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã được ban hành, nhằm đánh giá toàn diện và sâu sắc cục diện thế giới và khu vực từ năm 1991 đến nay Nghị quyết này đã chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu và bài học kinh nghiệm trong công tác đối ngoại Đây là một mốc quan trọng, định hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới.

Trong thời kỳ đổi mới, công tác đối ngoại của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, từ việc thiết lập quan hệ ngoại giao với 169 quốc gia đến việc duy trì mối quan hệ hợp tác ổn định và bền vững với các nước láng giềng Quan hệ đặc biệt với Lào ngày càng được củng cố, trong khi hợp tác với Campuchia được mở rộng để nâng cao hiệu quả kinh tế và giải quyết các vấn đề an ninh Quan hệ với Trung Quốc đã được bình thường hóa và phát triển theo phương châm "láng giềng hữu nghị", với nhiều hiệp định quan trọng được ký kết Sau khi gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam cũng đã tích cực đóng góp vào sự đoàn kết và phát triển của tổ chức này, nâng cao vai trò của ASEAN trên trường quốc tế.

Việt Nam đã chủ động duy trì và phát triển quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống như Nga, Cuba, Ấn Độ, Triều Tiên và Mông Cổ, thể hiện sự thủy chung và đoàn kết trong chính sách đối ngoại Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, nhấn mạnh tinh thần đoàn kết và ủng hộ các quốc gia trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc.

Việt Nam đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có lợi với các cường quốc và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới Từ những mối quan hệ thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, hướng tới tương lai và gác lại quá khứ Đồng thời, nước ta cũng tiếp tục thúc đẩy hợp tác đa dạng với Nhật Bản.

Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân và Tây Bắc Âu đang phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch và chuyển giao công nghệ.

Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, trở thành thành viên chủ chốt của ASEAN và tham gia sâu rộng vào các cơ chế kinh tế, tài chính, thương mại như AFTA và AIA Đồng thời, Việt Nam cũng là thành viên của ASEM và APEC, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với IMF, WB, và ADB Hội nghị Trung ương IX khẳng định tầm quan trọng của việc chuẩn bị các điều kiện trong nước để gia nhập WTO sớm nhất có thể.

Hoạt động đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong phát triển đất nước, góp phần duy trì môi trường hòa bình và ổn định Nổi bật trong công tác này là nghiên cứu, tham mưu, cung cấp thông tin, vận động viện trợ và thu hút đầu tư, đồng thời tham gia giải quyết những vướng mắc trong quan hệ kinh tế của Việt Nam với các quốc gia khác.

Hoạt động ngoại giao đa phương của Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, gắn liền với các mối quan hệ song phương, nâng cao vai trò và uy tín của đất nước tại các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN, và Phong trào Không liên kết Điều này không chỉ tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại và phát triển kinh tế - xã hội, mà còn góp phần vào việc bảo vệ hòa bình và duy trì các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được nâng cao, với nhận thức rõ ràng từ Đảng rằng cộng đồng người Việt ở nước ngoài là một phần không thể tách rời của dân tộc Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đã được ban hành nhằm xóa bỏ rào cản giữa người Việt trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho kiều bào hướng về cội nguồn, đóng góp xây dựng đất nước, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài, và hỗ trợ họ hội nhập với quốc gia sở tại.

2.3.2 Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2004 — đến nay) Đại hội lần thứ X (6-2006), Đảng nêu quan điểm: thự hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế Đồng thời để ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là việc tự quyết định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, cũng như các chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế Điều này bao gồm việc phân tích và lựa chọn phương án hành động phù hợp, đồng thời dự báo các tình huống thuận lợi và khó khăn trong quá trình hội nhập.

MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI

Một số bài học bước đầu về chính sách đối ngoại

Những thành tựu to lớn về đối ngoại trong 20 năm qua cho phép chúng ta rút ra những bài học chủ yếu sau:

Bài học quan trọng nhất là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, kết hợp với tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế Cần xác định lợi ích dân tộc là ưu tiên hàng đầu, đồng thời có cái nhìn linh hoạt về đối tượng và đối tác trong bối cảnh mới Thế giới vận hành theo những quy luật chung, và mỗi quốc gia phải nắm bắt xu thế phát triển để chọn vị trí phù hợp, từ đó kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gia tăng sức mạnh tổng hợp.

Bài học về việc đổi mới tư duy đối ngoại nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng linh hoạt và sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin cùng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đặc biệt là nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” và “thêm bạn bớt thù” Quá trình này cần gắn chặt với thực tiễn và nhiệm vụ cấp thiết của đất nước, nhìn nhận Việt Nam như một phần của thế giới, có sự liên kết và tác động qua lại với các quốc gia khác Đổi mới tư duy đối ngoại còn được thể hiện qua cách tiếp cận và đánh giá mới về tình hình và xu thế toàn cầu trong thời đại hiện nay.

Công tác lý luận và nghiên cứu chiến lược đóng vai trò quan trọng trong việc dự báo tình hình và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việc chú trọng đến những lĩnh vực này sẽ giúp rút ra bài học quý báu, phục vụ cho các giai đoạn tiếp theo trong công tác đối ngoại.

Bài học về thống nhất đối ngoại nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế quản lý đối ngoại, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị và đất nước trong việc triển khai chính sách và hoạt động đối ngoại.

Để nâng cao hiệu quả công tác cán bộ trong lĩnh vực ngoại giao, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ vừa có phẩm chất đạo đức tốt vừa có chuyên môn vững vàng, nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao trong thời kỳ mới.

Trong những năm tới, công tác đối ngoại cần tiếp tục đổi mới để ứng phó với tình hình thế giới phức tạp và khó lường Quan hệ giữa các nước lớn sẽ tiếp tục diễn ra với sự kết hợp giữa đấu tranh và hợp tác, trong khi xu hướng cường quyền và cạnh tranh giữa đơn cực và đa cực vẫn tồn tại Nhiều “điểm nóng” chưa được giải quyết có nguy cơ bùng nổ, mặc dù khả năng xảy ra chiến tranh thế giới là thấp Các xung đột cục bộ, khủng bố và chạy đua vũ trang vẫn diễn ra ở nhiều nơi Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, nhưng các vấn đề toàn cầu như khủng bố, đói nghèo, dịch bệnh và môi trường vẫn cần được quan tâm Trong nước, dù đã tăng cường sức mạnh, Việt Nam vẫn phải đối mặt với âm mưu “diễn biến hòa bình” và các hành động xâm phạm chủ quyền Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta cần nâng cao khả năng cạnh tranh để không rơi vào thế bất lợi Bốn nguy cơ đối với đất nước vẫn tồn tại và có thể tác động lẫn nhau, trong đó nguy cơ tụt hậu có thể ảnh hưởng mạnh đến các nguy cơ khác.

Nước ta đang đối mặt với những thuận lợi và khó khăn đan xen, nhưng thuận lợi vẫn chiếm ưu thế Tiềm lực toàn diện và vị thế quốc tế của nước ta đã được củng cố qua gần 20 năm đổi mới, tạo niềm tin vững chắc vào công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo Chúng ta có khả năng duy trì hòa bình và ổn định, từ đó thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa Điều này cũng là cơ sở quan trọng để xác định đường lối đối ngoại và tăng cường các hoạt động quốc tế trong giai đoạn mới.

Ngày đăng: 17/01/2022, 10:46

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1) hoc247.net, n.d. Học trực tuyến Online 247. [online] Tại: https://bitly.com.vn/48nt91 [Truycập ngày 14.5.2021] Link
2) lyluanchinhtri.vn, 2013. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. [online] Tại:https://bitly.com.vn/x0f2a2 [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
3) lyluanchinhtri.vn, 2018. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. [online] Tại:https://bitly.com.vn/5gvrt8 [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
4) nhandan.com.vn, 2021. Báo Nhân Dân. [online] Tại: https://bitly.com.vn/7n0x8m [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
5) tulieuvankien.dangcongsan.vn, 2015. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. [online] Tại:https://bitly.com.vn/6phevt [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
6) tailieulyluanchinhtri.blogspot.com, 2016. Tài liệu lý luận chính trị [online] Tại:https://bitly.com.vn/sa7d6b [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
7) tusach.thuvienkhoahoc.com, 2021. Tủ sách Khoa học. [online] Tại:https://bitly.com.vn/0a8kw3 [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
8) tuyengiao.vn, 2010. Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương. [online] Tại:https://bitly.com.vn/vg37p7 [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
9) moit.gov.vn, 2021. Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương. [online] Tại:https://bitly.com.vn/q9eyed [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
10) tuyengiao.vn, 2010. Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương. [online] Tại:https://bitly.com.vn/9nd4id [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
11) tulieuvankien.dangcongsan.vn, 2018. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. [online] Tại:https://bitly.com.vn/y0tqbc [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
12) Hà, Đ 2005. ‘Đổi mới bắt đầu từ đâu’. [online] nhandan.com.vn. Tại:https://bitly.com.vn/o7649p [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
13) Lê, A 2015. ‘Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới’. [online]mod.gov.vn. Tại: https://bitly.com.vn/yoahtr [Truy cập ngày 14.5.2021] Link
14) Bùi, S 2021, ‘Đường lối đối ngoại Đại hội XIII với khát vọng phát triển của đất nước’, [online] nhandan.com.vn. Tại: https://bitly.com.vn/ressy3 [Truy cập ngày 13.5.2021] Link
15) Vũ, H 2020. ‘75 năm Ngoại giao Việt Nam: Bài học và kinh nghiệm’. [online] baoquocte.vn.Tại: https://bitly.com.vn/oxi9nr [Truy cập ngày 14.5.2021] Link

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w