Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.Thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỐI VỚI HỌC
Lý luận về thực hiện chính sách công
1.1.1 Khái niệm chính sách công
Chính sách công là một thuật ngữ phổ biến trên toàn cầu, với nhiều định nghĩa khác nhau được các học giả đề xuất Dưới đây là một số khái niệm chính về chính sách công.
Chính sách công được định nghĩa là tập hợp các quyết định liên quan của một hoặc nhiều nhà chính trị, nhằm lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được những mục tiêu đó (William Jenkin, 1978).
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L Cochran and Eloise F Malone, 1995).
Tác giả James Anderson định nghĩa chính sách là "một đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một nhà hoạt động hoặc một nhóm các nhà hoạt động nhằm giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc một vấn đề quan tâm."
Tại Việt Nam, chính sách công là một chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều khái niệm khác nhau Theo tác giả Hồ Việt Hạnh, chính sách công được định nghĩa là những định hướng hành động mà nhà nước lựa chọn nhằm giải quyết các vấn đề trong đời sống cộng đồng, phù hợp với thái độ chính trị của từng thời kỳ, với mục tiêu giữ cho xã hội phát triển theo hướng đã định.
Chính sách công, theo tác giả Nguyễn Khắc Bình, là hoạt động mà chính phủ quyết định thực hiện hoặc không nhằm điều hòa các xung đột xã hội, từ đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo một định hướng nhất định.
Trong cuốn "Giáo trình chính sách công", tác giả Lê Chi Mai chỉ ra rằng chính sách công bao gồm ba nội dung chính: đầu tiên, Nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công; thứ hai, chính sách công là các quyết định hành động phản ánh ý định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề cụ thể và các hành vi thực hiện những ý định đó; cuối cùng, mục đích của chính sách công là giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội theo những mục tiêu rõ ràng.
Trong bài viết “Về chính sách công hiện nay ở nước ta”, tác giả Đỗ Phú Hải cho rằng:
Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị liên kết của Nhà nước, nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội theo các mục tiêu tổng thể đã được xác định.
Như vậy có thể thấy mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách công nhưng đều phản ánh những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, chính sách công do nhà nước, đảng chính trị cầm quyền ban hành.
Hai là, chính sách công tập trung giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế
- xã hội, nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Ba là, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau Bốn là, có các chủ thể, đối tượng, công cụ và mục tiêu chính sách.
Trong nghiên cứu này, khái niệm chính sách công được hiểu là các quyết định của chính phủ liên quan đến việc xác định mục tiêu và giải pháp, cùng với các công cụ chính sách, nhằm giải quyết các vấn đề xã hội Những quyết định này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
1.1.2 Vai trò của chính sách công
Trong sự phát triển của xã hội hiện đại, mỗi lĩnh vực trong đời sống phụ thuộc vào hệ thống chính sách của Nhà nước cùng với nguồn lực và vị thế địa chính trị của quốc gia Hệ thống chính sách không chỉ mở đường cho sự phát triển mà còn huy động trí tuệ tập thể và khai thác các nguồn lực tiềm năng, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
Các lý thuyết hiện đại xác định ba cột trụ của phát triển: kinh tế thị trường, nhà nước và xã hội dân sự Kinh tế thị trường điều tiết hoạt động kinh tế, tạo ra của cải và nâng cao hiệu quả phát triển, trong khi xã hội dân sự giải quyết các vấn đề vi mô Nhà nước giữ vai trò điều tiết vĩ mô, xây dựng thể chế phát triển và tổ chức các hoạt động kinh tế lớn, đảm bảo an ninh quốc phòng và ứng phó thiên tai Chính sách của nhà nước định hướng phát triển, xây dựng mô hình và tập trung nguồn lực từ mọi lực lượng xã hội để thúc đẩy các lĩnh vực cụ thể trong xã hội.
Các thay đổi xã hội lớn thường bắt nguồn từ sự thay đổi chính sách, tạo điều kiện cho các thể chế mới phát triển Công cuộc đổi mới từ năm 1986 tại Việt Nam là minh chứng rõ ràng cho vai trò tiên phong của chính sách trong phát triển kinh tế xã hội, giúp khắc phục khủng hoảng kinh tế và huy động lực lượng sản xuất, từ đó nâng cao mức sống và giải quyết các vấn đề an sinh xã hội Vai trò của chính sách công thể hiện qua nhiều khía cạnh quan trọng.
Chính sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã hội, giúp họ đạt được những giá trị tương lai mà nhà nước mong muốn Những giá trị này phản ánh mục tiêu phát triển phù hợp với nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội Khi các chủ thể kinh tế và xã hội hoạt động theo định hướng của chính sách, họ không chỉ dễ dàng đạt được mục tiêu phát triển mà còn có cơ hội nhận được ưu đãi từ nhà nước và xã hội Điều này cho thấy rằng, bên cạnh mục tiêu định hướng, cách thức tác động của chính sách công cũng có ảnh hưởng lớn đến hành động của các chủ thể.
- Khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động KT-XH theo định hướng;
Trong nền kinh tế thị trường, việc phát huy mặt tích cực và khắc phục hạn chế là rất quan trọng Quy luật cạnh tranh đã thúc đẩy các chủ thể đầu tư vào sản xuất, đổi mới công nghệ, từ đó nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm Điều này mang lại lợi ích cho xã hội với sự gia tăng về số lượng và đa dạng hàng hóa, dịch vụ cùng với giá cả ngày càng hợp lý Tuy nhiên, thị trường cũng gây ra những tác động tiêu cực như độc quyền, chênh lệch giàu nghèo, và thất nghiệp gia tăng Để giải quyết những vấn đề này, nhà nước cần áp dụng chính sách công nhằm khắc phục thất bại của thị trường, thông qua việc trợ cấp và cung ứng dịch vụ công cho người dân.
Việc tạo lập các cân đối trong phát triển là rất quan trọng, thể hiện qua vai trò điều tiết của các chính sách do Nhà nước xây dựng Những chính sách này đảm bảo sự phát triển cân đối và bền vững giữa các vùng miền trong một quốc gia.
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát và phân bổ nguồn lực xã hội, đảm bảo quản lý hiệu quả và khai thác tối ưu các nguồn lực nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển bền vững.
Lý luận về thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn
1.2.1 Khái niệm và tiêu chí xác định Xã đặc biệt khó khăn
Theo Quyết định số 50/2016/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ, các xã thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi được phân chia thành ba khu vực: khu vực III là các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; khu vực II là các xã có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn nhưng đã tạm thời ổn định; khu vực I là các xã còn lại Trong nghiên cứu này, chúng tôi xác định xã đặc biệt khó khăn thuộc nhóm xã khu vực III.
Xã khu vực III là xã có ít nhất 2 trong 3 tiêu chí sau:
1) Số thôn đặc biệt khó khăn còn từ 35% trở lên (tiêu chí bắt buộc);
2) Tổng tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo từ 65% trở lên (trong đó tỷ lệ hộ nghèo từ 35% trở lên) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020;
3) Tổng tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo từ 55% trở lên (các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, khu vực đồng bằng sông Cửu Long từ 30% trở lên) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn
2016 - 2020 và có ít nhất 3 trong 6 điều kiện sau (đối với xã có số hộ dân tộc thiểu số từ 60% trở lên, cần có ít nhất 2 trong 6 điều kiện):
- Trục chính đường giao thông đến Ủy ban nhân dân xã hoặc đường liên xã chưa được nhựa hóa, bê tông hóa theo tiêu chí nông thôn mới;
- Trường mầm non, trường tiểu học hoặc trường trung học cơ sở chưa đạt chuẩn quốc gia theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Chưa đạt Tiêu chí quốc gia về y tế xã theo quy định của Bộ Y tế;
- Chưa có Trung tâm Văn hóa, Thể thao xã theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và
- Còn từ 20% số hộ trở lên chưa có nước sinh hoạt hợp vệ sinh;
- Còn từ 40% số hộ trở lên chưa có nhà tiêu hợp vệ sinh theo quy định của Bộ Y tế.
1.2.2 Khái niệm học sinh trung học phổ thông xã đặc biệt khó khăn
Trường phổ thông trung học, hay còn gọi là trường trung học phổ thông, là hình thức đào tạo chính quy tại Việt Nam dành cho học sinh từ 15 đến 18 tuổi, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt Cấp học này bao gồm ba khối lớp: lớp 10, lớp 11 và lớp 12 Học sinh trung học phổ thông đặc biệt khó khăn là những em có bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại xã khu vực III.
1.2.3 Khái niệm chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn
Chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn là những quyết định của chính phủ nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách để giúp đỡ học sinh tại các vùng này Mục tiêu của chính sách là đạt được kết quả hợp lý và thúc đẩy sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa Nội dung chính sách bao gồm các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và hỗ trợ học sinh vượt qua khó khăn.
Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP của Chính phủ đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích chính sách hỗ trợ học sinh thông qua Nghị định 116/2016/NĐ-CP để hiểu rõ hơn về tác động của nó.
Chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông tại các xã đặc biệt khó khăn quy định rõ đối tượng được hưởng, mức hỗ trợ cụ thể, hồ sơ và thủ tục cần thiết, thẩm quyền giải quyết, quy trình cấp phát, cùng với kinh phí thực hiện Chính sách này nhằm đảm bảo sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả cho học sinh ở những vùng khó khăn, giúp nâng cao chất lượng giáo dục và giảm bớt gánh nặng tài chính cho gia đình.
Chính sách quy định về đối tượng áp dụng là học sinh gồm có những đối tượng sau:
Học sinh tiểu học và trung học cơ sở cần đáp ứng các tiêu chí sau: là học sinh bán trú tại trường phổ thông dân tộc bán trú, có hộ khẩu thường trú tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn, và đang học tại các trường thuộc xã khu vực III hoặc các thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi Đối với học sinh tiểu học, khoảng cách từ nhà đến trường phải từ 4 km trở lên, trong khi đó học sinh trung học cơ sở là từ 7 km trở lên Ngoài ra, học sinh còn phải đối mặt với địa hình khó khăn, như phải qua sông, suối không có cầu, đèo, núi cao, hoặc vùng sạt lở đất, đá.
Đối với học sinh trung học phổ thông là người dân tộc thiểu số, cần đảm bảo các điều kiện sau: đang theo học tại trường trung học phổ thông hoặc cấp trung học phổ thông tại trường có nhiều cấp học; bản thân và bố, mẹ hoặc người giám hộ có hộ khẩu thường trú tại xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi, cũng như các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo Ngoài ra, học sinh phải sống xa trường, với khoảng cách từ 10 km trở lên hoặc gặp khó khăn trong giao thông, như phải qua sông, suối không có cầu, đèo, núi cao, hoặc vùng sạt lở đất, đá.
Học sinh trung học phổ thông người dân tộc Kinh cần đáp ứng các điều kiện tương tự như học sinh dân tộc thiểu số, đồng thời phải thuộc nhân khẩu trong gia đình thuộc hộ nghèo.
Chính sách quy định về mức hỗ trợ mà đối tượng thụ hưởng cụ thể là:
+ Hỗ trợ tiền ăn: Mỗi học sinh được hỗ trợ mỗi tháng bằng 40% mức lương cơ sở và được hưởng không quá 9 tháng/năm học/học sinh;
Học sinh tự túc chỗ ở do trường không bố trí chỗ ở bán trú sẽ nhận hỗ trợ tiền nhà ở mỗi tháng, tương đương 10% mức lương cơ sở, với thời gian hỗ trợ không quá 9 tháng trong một năm học.
+ Hỗ trợ gạo: Mỗi học sinh được hỗ trợ mỗi tháng 15 kg gạo và được hưởng không quá 9 tháng/năm học/học sinh.
Trường phổ thông dân tộc bán trú được đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị cần thiết, bao gồm nhà ở, giường nằm, nhà bếp, phòng ăn, nhà tắm, công trình vệ sinh, và hệ thống nước sạch Tất cả các trang thiết bị này đều được thiết kế theo tiêu chuẩn hiện hành nhằm đảm bảo điều kiện học tập tốt nhất cho học sinh bán trú.
Hỗ trợ 100.000 đồng/học sinh bán trú/năm học cho việc mua sắm bổ sung và sửa chữa dụng cụ thể dục, thể thao, nhạc cụ, máy thu hình, phục vụ cho sinh hoạt văn hóa, thể dục, thể thao và các vật dụng khác.
Lập tủ thuốc dùng chung cho khu bán trú là cần thiết, với việc mua sắm các loại thuốc thông thường nhằm đáp ứng yêu cầu phòng bệnh và xử lý các trường hợp cấp cứu đột xuất Mức hỗ trợ cho mỗi học sinh bán trú là 50.000 đồng/năm học.
Trường phổ thông dân tộc bán trú được hỗ trợ kinh phí nấu ăn cho học sinh với mức tối thiểu là 135% lương cơ sở cho mỗi tháng và 30 học sinh Đối với số học sinh từ 15 trở lên, mỗi trường sẽ được tính thêm một lần định mức, nhưng tổng số lần hỗ trợ không vượt quá 5 lần mỗi tháng và 9 tháng trong một năm.
1.2.5 Khái niệm thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông xã đặc biệt khó khăn
Chúng tôi xác định thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn là quá trình chuyển hóa ý chí của Nhà nước thành hiện thực, nhằm chăm lo cho học sinh tại các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn Mục tiêu chính là tạo động lực phát triển giáo dục, nâng cao dân trí và rút ngắn khoảng cách về giáo dục, đào tạo cũng như chất lượng cuộc sống giữa các vùng miền.
1.2.6 Nội dung thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông xã đặc biệt khó khăn
Một là, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh trung học phổ thông xã đặc biệt khó khăn
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh trường phổ thông ở các xã thôn đặc biệt khó khăn
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở XÃ ĐẶC BIỆT KHO KHĂN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH CAO BẰNG
2.1 Khái quát về đặc điểm điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
- Vị trí địa lý: Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam Hai mặt Bắc và Đông
Bắc giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) với đường biên giới dài 311 km, phía Tây tiếp giáp với tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, trong khi phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn.
Khu vực này có chiều dài 80 km từ tọa độ 230 0 7'12" đến 22 0 21'21" vĩ bắc, trải dài từ xã Trọng Con, huyện Thạch An đến xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm Theo chiều Đông - Tây, khu vực này kéo dài 170 km từ tọa độ 105 0 16'15" đến 106 0 50'25" kinh đông, bao gồm xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang.
Tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương, bao gồm 1 thành phố là Cao Bằng và 12 huyện: Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hòa An, Nguyên Bình, Quảng Uyên, Phục Hòa và Thạch An.
Cao Bằng có khí hậu đặc thù của vùng lục địa miền núi cao, với bốn mùa rõ rệt, đặc biệt là mùa Hè và mùa Đông Biên độ nhiệt độ thay đổi lớn, với lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.500 mm, tập trung chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 8 Các huyện như Nguyên Bình, Bắc Hà Quảng, Thông Quảng Hòa, và Hạ Lang có lượng mưa cao từ 1.500 đến 1.900 mm, trong khi Hòa An, Nam Hà Quảng, và Trùng Khánh có lượng mưa trung bình từ 1.300 đến 1.500 mm Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 0°C đến 35°C, với mùa hè từ tháng 6 đến tháng 8 có nhiệt độ trung bình 30-34°C và tháng 7 là tháng nóng nhất Mùa đông, nhiệt độ trung bình từ 5-6°C, tháng lạnh nhất là tháng 1 Các hiện tượng thời tiết như gió lốc, tuyết rơi, sương muối và mưa đá thường xuyên xảy ra.
Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.724,6 km², là một cao nguyên đá vôi xen lẫn núi đất với độ cao trung bình trên 200 m, trong khi vùng sát biên giới có độ cao từ 600 - 1.300 m so với mực nước biển Tỉnh có địa hình núi non trùng điệp, với hơn 90% diện tích là rừng núi, trong đó núi đá vôi chiếm 25% và núi đất chiếm 65% Điểm cao nhất đạt 1.980 m, trong khi điểm thấp nhất dưới 200 m, với độ cao trung bình từ 600 - 1.000 m Địa hình được chia thành ba vùng rõ rệt: miền đông với nhiều núi đá, miền tây có sự xen kẽ giữa núi đất và núi đá, và miền tây nam chủ yếu là núi đất với rừng rậm phong phú.
- Dân số: Dân số tỉnh Cao Bằng là khoảng 550 nghìn người (năm 2018), mật độ dân số
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỐI VỚI HỌC
Khái quát về đặc điểm điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
- Vị trí địa lý: Cao Bằng là tỉnh nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam Hai mặt Bắc và Đông
Tỉnh nằm ở phía Bắc giáp với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) qua đường biên giới dài 311 km, phía Tây tiếp giáp với các tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, trong khi phía Nam giáp với tỉnh Bắc Kạn và Lạng Sơn.
Địa giới hành chính của khu vực này kéo dài 80 km từ tọa độ 230 0 7'12" đến 22 0 21'21" vĩ bắc, bắt đầu từ xã Trọng Con, huyện Thạch An và kết thúc tại xã Đức Hạnh, huyện Bảo Lâm Theo chiều Đông - Tây, khu vực này có chiều dài 170 km, từ tọa độ 105 0 16'15" đến 106 0 50'25" kinh đông, trải dài từ xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang.
Tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố là Cao Bằng và 12 huyện: Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hà Quảng, Thông Nông, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hòa An, Nguyên Bình, Quảng Uyên, Phục Hòa và Thạch An.
Khí hậu Cao Bằng mang đặc trưng của khí hậu lục địa miền núi cao, với bốn mùa rõ rệt, đặc biệt là mùa Hè và mùa Đông Biên độ nhiệt độ lớn, lượng mưa ít và phân bố không đều, với mưa và bão tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, tổng lượng mưa trung bình hàng năm đạt khoảng 1.500 mm Các huyện như Nguyên Bình, Bắc Hà Quảng, Thông Quảng Hòa, Hạ Lang có lượng mưa cao từ 1.500 - 1.900 mm, trong khi Hòa An, Nam Hà Quảng, Trùng Khánh có lượng mưa trung bình từ 1.300 - 1.500 mm Các hiện tượng thời tiết như gió lốc, gió bấc, tuyết rơi, sương muối và mưa đá thường xuyên xảy ra Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 0 o C đến 35 o C, với ba tháng mùa hè (từ tháng 6 đến tháng 8) có nhiệt độ trung bình từ 30 - 34 o C, tháng 7 là tháng nóng nhất, và mùa đông có nhiệt độ trung bình từ 5-6 o C, tháng 1 là tháng lạnh nhất Tần suất sương muối thường xảy ra vào tháng 1.
Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.724,6 km², nổi bật với địa hình cao nguyên đá vôi và núi đất, có độ cao trung bình trên 200 m, trong khi khu vực sát biên giới có độ cao từ 600 - 1.300 m so với mực nước biển Với hơn 90% diện tích là rừng núi, trong đó núi đá vôi chiếm 25% và núi đất chiếm 65%, Cao Bằng sở hữu điểm cao nhất đạt 1.980 m và điểm thấp nhất dưới 200 m Độ cao trung bình dao động từ 600 - 1.000 m, tạo nên ba vùng địa hình rõ rệt: miền đông nhiều núi đá, miền tây có sự xen kẽ giữa núi đất và núi đá, và miền tây nam chủ yếu là núi đất với nhiều rừng rậm.
- Dân số: Dân số tỉnh Cao Bằng là khoảng 550 nghìn người (năm 2018), mật độ dân số
Tỉnh có mật độ dân số 78 người/km² và bao gồm 28 dân tộc khác nhau Trong đó, dân tộc Tày chiếm tỷ lệ cao nhất với 42,54%, tiếp theo là dân tộc Nùng với 32,86% Dân tộc Dao chiếm 9,63%, dân tộc Mông chiếm 8,45%, và dân tộc Kinh chiếm 4,68% Ngoài ra, dân tộc Sán Chay chiếm 1,23%, dân tộc Lô Lô chiếm 0,39%, dân tộc Hoa chiếm 0,033%, dân tộc Ngái chiếm 0,013%, trong khi các dân tộc khác chiếm 0,18%.
Tỉnh Cao Bằng, với đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, mang lại nhiều thuận lợi nhờ vào bề dày lịch sử và văn hóa Nơi đây không chỉ là điểm giao thoa của nhiều dân tộc mà còn lưu giữ bản sắc văn hóa đa dạng Sau 520 năm hình thành và phát triển, Cao Bằng đã khẳng định vị thế là phên giậu vững chắc nơi biên cương phía Bắc.
Cao Bằng, vùng đất ghi dấu ấn lịch sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam, là nơi đón Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về lãnh đạo cách mạng sau 30 năm tìm đường cứu nước Đây cũng là nơi khai sinh Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay Cao Bằng đã mở ra bước ngoặt quan trọng trong chiến tranh với chiến thắng của chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc.
Năm 1979, Cao Bằng đã thể hiện tinh thần kiên cường và dũng cảm trong việc bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc Những đóng góp sức người, sức của của người dân nơi đây đã góp phần quan trọng vào trang sử hào hùng chống ngoại xâm, giữ gìn nền hòa bình và độc lập dân tộc của đất nước.
Cao Bằng hiện vẫn là một trong những tỉnh khó khăn nhất tại vùng Trung du và miền núi phía Bắc, với chất lượng, năng suất và sức cạnh tranh kinh tế còn thấp Các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ chưa có sự gắn kết chặt chẽ, thiếu các cụm liên kết ngành và khu vực để mở rộng quy mô và thúc đẩy tăng trưởng Ngành công nghiệp phát triển chậm, quy mô nhỏ và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế còn hạn chế, trong khi tốc độ tăng trưởng du lịch cũng chưa tương xứng với tiềm năng Hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển Thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt 54% so với mức trung bình cả nước, và tỷ lệ hộ nghèo cùng hộ cận nghèo ở mức cao nhất cả nước.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là việc đầu tư cho văn hóa, văn học và nghệ thuật còn hạn chế Sự thiếu hụt trong việc xây dựng các thiết chế văn hóa từ cấp tỉnh đến cơ sở đã ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền văn hóa địa phương.
Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, dẫn đến trình độ dân trí không đồng đều Chăm sóc sức khỏe cho người dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa và biên giới, vẫn gặp nhiều khó khăn, với tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn cao Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, khi tỷ lệ hộ tái nghèo và số hộ cận nghèo vẫn ở mức cao.
Tình hình thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
ở xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
2.2.1 Giới thiệu về quy mô phát triển trường, lớp, học sinh tại tỉnh Cao Bằng qua các năm học
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12434 học sinh.
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11965 chiếm tỉ lệ: 96,2%; Tổng số giáo viên:
854, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,3
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12681 học sinh.
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11763 chiếm tỉ lệ: 96,3%; Tổng số giáo viên:
830, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,26;
Qui mô khối THPT: Tổng số 30 trường, trong đó:
- Trường THPT có khối THCS: 06 trường;
- Trường THPT Chuyên tỉnh: 01 trường;
- Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh: 01 trường;
Tổng số học sinh: 12214 học sinh.
Số học sinh dân tộc thiểu số: 11847 chiếm tỉ lệ: 97%; Tổng số giáo viên: 835, tỉ lệ giáo viên/lớp: 2,1;
Các trường Trung học phổ thông tại tỉnh Cao Bằng chủ yếu nằm xa trung tâm thành phố, đối mặt với nhiều khó khăn trong hệ thống giao thông Địa hình nơi đây bao gồm nhiều núi đá, núi đất và rừng rậm, gây trở ngại cho việc di chuyển.
Theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Cao Bằng có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 12 huyện Tỉnh có tổng cộng 199 xã, phường, thị trấn, trong đó khu vực I có 11 xã, khu vực II có 49 xã và khu vực III có 139 xã Tổng số thôn, xóm, bản thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là 1.598 xóm.
Huyện/TP Tổng số xã/phường
Phân chia khu vực Thôn/xóm
KV I KV II KV III ĐBKK
Chất lượng học tập ở các trường THPT hiện nay không đồng đều, với tỷ lệ học sinh có học lực khá và giỏi chủ yếu tập trung tại các trường nằm ở trung tâm Thành phố.
Các trường THPT tại tỉnh Cao Bằng bao gồm THPT Chuyên, THPT DTNT và THPT Thành Phố, cùng với các trường thuộc trung tâm một số huyện như THPT Trùng Khánh ở huyện Trùng Khánh, THPT Hòa An ở huyện Hòa An và THPT Nguyên Bình ở huyện Nguyên Bình.
Các trường THPT tại tỉnh Cao Bằng chủ yếu có sức học trung bình và yếu, do nhiều trường nằm xa trung tâm huyện, khiến học sinh phải di chuyển từ 35 đến 40 km để đến trường Cụ thể, xã Vĩnh Phong, Đức Hạnh, Yên Thổ (huyện Bảo Lâm) cách trường THPT Bảo Lâm từ 35 đến 40 km; xã Cô Ba, Cốc Pàng (huyện Bảo Lạc) cách trường THPT Bảo Lạc cũng từ 36 đến 40 km; và xã Lũng Nặm, Tổng Cọt (huyện Hà Quảng) cách trường THPT Đàm Quang Trung từ 35 đến 40 km Thêm vào đó, địa hình khó khăn, giao thông bất lợi với nhiều khu vực phải vượt sông, suối không có cầu, đèo núi cao và vùng sạt lở đất, càng làm tăng thêm khó khăn cho việc học tập của học sinh.
Tỉ lệ học sinh bỏ học tại các trường THPT ở tỉnh Cao Bằng không đồng đều, với số liệu thống kê từ phòng GDTrH - Sở GD&ĐT tỉnh Cao Bằng trong năm học 2018 - 2019 cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các địa phương.
Nhiều trường THPT nằm ở khu vực địa hình khó khăn, như phải qua sông, suối không có cầu, đèo, núi cao hay vùng sạt lở đất, thường có tỉ lệ học sinh bỏ học cao Cụ thể, Trường THPT Bảo Lâm có tỉ lệ bỏ học 10,9%, Trường THPT Lý Bôn 7,3% và Trường THPT Thông Nông 6,9% Ngoài ra, Trường THPT Đàm Quang Trung cũng ghi nhận tỉ lệ bỏ học 6,0%.
Một số trường có điều kiện giao thông thuận lợi hơn cho thấy tỉ lệ học sinh bỏ học thấp hơn Cụ thể, trường THPT Thành phố Cao Bằng có tỉ lệ bỏ học chỉ 0,5%, trường THPT Cao Bình là 0,9%, trường THPT Trùng Khánh là 1,9% và trường THPT Quảng Uyên là 0,8%.
2.2.2 Tình hình thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
2.2.2.1 Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quản lý
Kể từ ngày 01 tháng 9 năm 2016, chính sách hỗ trợ học sinh phổ thông tại các xã đặc biệt khó khăn đã được thực thi, tỉnh Cao Bằng đã ban hành nhiều văn bản để triển khai và tổ chức thực hiện Nghị định 116/2016/NĐ-CP.
Trong những năm gần đây, nhà nước đã ban hành nhiều quyết định nhằm hỗ trợ học sinh trung học phổ thông tại các xã đặc biệt khó khăn ở tỉnh Cao Bằng Các chính sách này nhằm cải thiện điều kiện học tập và khuyến khích học sinh vượt qua khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tại vùng sâu vùng xa.
- Quyết định 85/2010/QĐ-TTg ngày 21 tháng 12 năm 2010;
- Quyết định 12/2013/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2013
- Quyết định 36/2013/QĐ-TTg ngày 18 tháng 6 năm 2013.
Để tích hợp và giảm thiểu sự chồng chéo trong các chính sách hỗ trợ học sinh bán trú và trường phổ thông dân tộc bán trú, cũng như hỗ trợ học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2016/NĐ-CP vào ngày 18 tháng 7 năm 2016.
Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn là một quy định quan trọng nhằm triển khai thực hiện các chính sách giáo dục Văn bản này đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo quyền lợi cho học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục ở những vùng khó khăn.
Văn bản số 5129/BGD ĐT-CTHSSV ngày 14 tháng 10 năm 2016 hướng dẫn thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông tại các xã, thôn đặc biệt khó khăn Chính sách này nhằm cải thiện điều kiện học tập và nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh ở những vùng khó khăn, đảm bảo mọi trẻ em đều có cơ hội tiếp cận giáo dục Việc triển khai các biện pháp hỗ trợ sẽ giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho gia đình học sinh và khuyến khích sự phát triển toàn diện của các em.
- Nghị định số 06/2018/NĐ-CP 05/01/2018 của Chính phủ và các chính sách hiện hành đối với học sinh, sinh viên người DTTS;
- Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017;
Quyết định số 103/QĐ-TTg ngày 22/1/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các thôn đặc biệt khó khăn và xã thuộc các khu vực I, II, III trong vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-2020 Ủy ban Nhân dân tỉnh Cao Bằng cùng với Sở Giáo dục tỉnh Cao Bằng đã ban hành nhiều văn bản hàng năm để triển khai Nghị định 116/2016 của Chính phủ, nhằm cải thiện điều kiện giáo dục tại các khu vực này.
Văn bản số 951/SGD&ĐT-GDDT& HSSV ngày 25/8/2017 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2017-2018 liên quan đến Giáo dục dân tộc, Giáo dục chính trị và Công tác học sinh, sinh viên Nội dung văn bản nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng giáo dục cho các đối tượng học sinh, sinh viên, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục dân tộc và giáo dục chính trị Các cơ sở giáo dục cần triển khai các chương trình và hoạt động phù hợp nhằm phát huy giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời trang bị kiến thức và kỹ năng cho học sinh, sinh viên để họ trở thành công dân có trách nhiệm trong xã hội.
Đánh giá chung
2.3.1 Một số kết quả nổi bật
Theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP, trong năm học 2018 - 2019, toàn tỉnh đã hỗ trợ tiền ăn cho 31.163 học sinh và tiền ở cho 14.642 học sinh tại 417 trường học với tổng kinh phí lên tới 170 tỷ 492 triệu đồng Đồng thời, tỉnh cũng đã đầu tư hơn 459 triệu đồng cho việc mua sắm và sửa chữa dụng cụ thể dục thể thao, nhạc cụ, và máy tính cho các trường bán trú Trong học kỳ 1 năm học 2019 - 2020, hỗ trợ tiền ăn cho 31.960 học sinh và tiền ở cho 15.452 học sinh với tổng kinh phí 84 tỷ 946 triệu đồng, cùng với việc mua sắm dụng cụ học tập và lập tủ thuốc cho khu bán trú trị giá trên 459 triệu đồng Từ năm 2018 đến học kỳ 1 năm học 2019 - 2020, toàn tỉnh đã hỗ trợ trên 6.800 tấn gạo cho 97.016 học sinh.
Trong giai đoạn từ năm học 2017 - 2018 đến 2019 - 2020, tỉnh Cao Bằng đã hỗ trợ cho học sinh tại các trường trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn bằng nguồn ngân sách của Nhà nước Cụ thể, 18.102 học sinh được hỗ trợ tiền ăn, 15.694 học sinh nhận hỗ trợ tiền ở tại 30 trường THPT, với tổng kinh phí lên tới hơn 115 tỷ 585 triệu đồng Ngoài ra, tỉnh cũng đã cung cấp hơn 2.439 tấn gạo cho 18.102 học sinh.
Chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn mang lại giá trị và ý nghĩa to lớn, giúp nâng cao chất lượng giáo dục và tạo cơ hội phát triển cho các em học sinh trong môi trường khó khăn.
Chính sách hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số và người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo tại các xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn mang tính nhân văn sâu sắc Chính sách này đã giúp hàng nghìn học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Cao nhận được hỗ trợ tiền ăn và tiền nhà ở hàng tháng, tạo điều kiện cho các em yên tâm học tập Nhờ đó, sĩ số lớp học được duy trì và chất lượng dạy học cũng được nâng cao.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là một vấn đề nhân văn quan trọng, nhằm tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, thường sống ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, có cơ hội học tập Nhà nước cần hỗ trợ người nghèo để họ có thể tiếp cận giáo dục, đồng thời phát huy tài năng của những người xuất sắc trong cộng đồng.
Nhà nước chú trọng đến việc hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp, nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của họ Điều này góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và vùng miền trong cả nước, từ đó đảm bảo thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, với dân giàu, nước mạnh mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đang phấn đấu.
Chính sách này mang lại giá trị và ý nghĩa không chỉ cho con em người dân tộc thiểu số tại tỉnh Cao Bằng, mà còn cho tất cả học sinh người dân tộc thiểu số và người dân tộc Kinh thuộc hộ nghèo ở các xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn trên toàn quốc.
2.3.2 Những bất cập trong việc thực hiện chính sách hỗ trợ đối với học sinh trung học phổ thông ở xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Cao Bằng
Học sinh nhận được chế độ chính sách hỗ trợ của nhà nước không chỉ dành cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, mà còn áp dụng cho những trường hợp sống ở khu vực địa hình khó khăn hoặc có giao thông đi lại hạn chế.
Hội đồng nhân dân tỉnh Cao Bằng đã quy định khoảng cách từ 4,5 km trở lên đối với học sinh trung học phổ thông, tuy nhiên quy định này không phù hợp với thực tế tại địa phương Tại trường THPT Bế Văn Đàn, hàng năm chỉ có khoảng 80 đến 100 hồ sơ tuyển sinh lớp 10 được nộp, mặc dù chỉ tiêu là 210 học sinh Điều này dẫn đến việc một số học sinh từ các huyện xa như Nguyên Bình (45 km), Thạch An (50 km) và Trùng Khánh (35 km) không trúng tuyển vào trường THPT ở huyện đã nộp hồ sơ và theo học tại trường.
Nhiều học sinh thuộc hộ nghèo và cận nghèo không được hưởng chính sách theo Nghị định 116/2016/NĐ-CP, dẫn đến tình trạng bỏ học Đặc biệt, Nghị định 86/2015/NĐ-CP sẽ hết hiệu lực trong năm học 2020-2021, tạo ra lo ngại về việc hỗ trợ cho nhóm đối tượng này.
Trong năm học 2017 - 2018, tỉnh Cao Bằng có tổng cộng 12.434 học sinh cấp THPT, trong đó có cả học sinh cấp THCS Số học sinh bỏ học là 417, chiếm tỷ lệ 3,3% Đáng chú ý, 252 trong số học sinh bỏ học thuộc hộ nghèo và cận nghèo, chiếm tỷ lệ 60,4%.
Trong năm học 2018 - 2019, tỉnh Cao Bằng có tổng cộng 12.681 học sinh cấp THPT, trong đó bao gồm cả học sinh cấp THCS Tuy nhiên, có 385 học sinh đã bỏ học, chiếm tỷ lệ 3,03% Đặc biệt, trong số học sinh bỏ học, có đến 300 em thuộc hộ nghèo và cận nghèo, tương đương với tỷ lệ 77,9%.
Trong năm học 2019 - 2020, tỉnh Cao Bằng có tổng cộng 12.214 học sinh cấp THPT, trong đó bao gồm cả học sinh cấp THCS Tỷ lệ học sinh bỏ học là 3,33%, với 406 học sinh bỏ học, trong đó 317 học sinh thuộc hộ nghèo và cận nghèo, chiếm 78,1%.
Mặc dù tỷ lệ học sinh bỏ học trong năm học 2018 - 2019 có sự giảm sút, nhưng tỷ lệ học sinh thuộc hộ nghèo và cận nghèo lại có xu hướng gia tăng Cụ thể, năm học 2018 - 2019 ghi nhận mức tăng 17,5% so với năm trước, và con số này tiếp tục tăng lên 17,7% trong năm học 2019 - 2020.
Nhiều xã đặc biệt khó khăn đã tiến hành sát nhập với các xã khác, dẫn đến việc không còn giữ tên gọi theo quyết định của Nhà nước, tuy nhiên, việc bổ sung thông tin kịp thời vẫn chưa được thực hiện.