CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khái niệm về bão
Bão là hiện tượng khí tượng đặc trưng bởi một khu vực áp thấp có gió xoáy theo hướng ngược chiều kim đồng hồ ở Bắc bán cầu và chiều kim đồng hồ ở Nam bán cầu Nếu tốc độ gió gần tâm bão dưới 65 km/giờ, được gọi là “áp thấp nhiệt đới”; từ 65 km/giờ trở lên là “bão nhiệt đới”; và trên 250 km/giờ được gọi là “siêu bão” Tại Trung Quốc, bão được gọi là “đại phong”, và tên gọi này cũng được người Anh phiên âm tương tự.
Người thổ dân Maya sống ở vùng biển Caribê và quanh vịnh Mêhicô gọi bão là “Hunraken”, tên của vị thần bão tố, từ đó người Tây Ban Nha đã đặt tên theo.
“Hurricane”, ngày nay là một từ quốc tế được dùng chung cho các cơn bão nhiệt đới Người philippin gọi bão theo từ địa phương là
“bagio”, còn ở châu Úc lại gọi là “willy willy”, cũng như người Việt Nam chúng ta gọi là “bão” có nghĩa là gió dữ.
Bão là hiện tượng thiên nhiên xảy ra nhanh chóng, liên quan đến chuyển động xoáy mạnh trong tầng không khí gần mặt đất Tùy thuộc vào các yếu tố tương tác giữa bề mặt và khí quyển, có nhiều loại bão khác nhau như bão biển với mưa lớn ở vùng nhiệt đới, bão tuyết ở vùng hàn đới và bão cát trên các sa mạc.
Cấu tạo của một cơn bão
Cuộc đời của mỗi cơn bão đều trải qua
Bão phát triển qua bốn giai đoạn: hình thành, trẻ, trưởng thành và suy yếu Trong đó, giai đoạn trẻ và trưởng thành là nguy hiểm nhất do bão có gió giật mạnh và lượng mưa lớn nhất Bão có thể đổ bộ vào đất liền ở bất kỳ giai đoạn nào, nhưng sự tàn phá thường đạt đỉnh trong hai giai đoạn này.
Cấu tạo của một cơn bão gồm các phần sau:
+ Mắt bão ( the Eye ): Là vùng áp lực thấp, yên tịnh nằm ngay trung tâm của vòng xoáy.
+ Mí Mắt bão ( the Eye Wall ): Nằm sát mắt bão với gió xoáy mạnh nhất.
Các giải mây xung quanh mắt bão thường mang theo lượng mưa lớn Hiện tượng này là kết quả của chu kỳ bốc hơi và đông đặc đã diễn ra trước đó, dẫn đến sự hình thành của cơn bão.
+ Lớp mây ti dày đặc phía trên ( the Dense Cirrus
Cấu tạo của một cơn bão Nguồn: Trung tâm tư liệu khí tượng Thủy văn
Một mắt bão khổng lồ (Ảnh vệ tinh)
Bão Biển Đông là hiện tượng bão nhiệt đới theo mùa, thường xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 8, với sự giảm dần từ tháng 9 nhưng vẫn có thể kéo dài đến tháng 1 Trong thời gian giữa mùa gió Đông Bắc, bão gây ra biển động mạnh mẽ và kéo dài trong nhiều ngày.
Khi bão xuất hiện ta thấy các triệu chứng như sau: Trời oi, khí áp xuống nhanh.
Trên bầu trời, những đám mây cao bay nhanh chóng xuất hiện, sau vài giờ, bầu trời bị che phủ bởi lớp mây cirro status mỏng, tạo ra quầng sáng xung quanh mặt trời Tiếp theo, những mây thấp hình vẩy cá (cirro cumulus) xuất hiện, và cuối cùng là lớp mây đen, dày với độ cao khoảng 3.000m (altostatus), khiến bầu trời trở nên u ám.
6 đen, u ám; mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống nhanh Trần mây thấp dần xuống
Cơn bão đã đến với gió mạnh và mây bay nhanh, tạo nên không khí căng thẳng Khi sấm sét xuất hiện, có thể khẳng định rằng bão đã qua Đường đi tiêu chuẩn của các trận bão thường diễn ra vào các tháng 7, 8, 9 và 10 trên Biển Đông.
Mùa mưa bão ở các tỉnh miền Bắc thường đến sớm hơn các tỉnh miền Trung khoảng 1 đến 2 tháng
Nguồn: Trung tâm tư liệu khí tượng Thủy văn
NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH BÃO Ở VIỆT NAM VÀ ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG CỦA BÃO Ở BIỂN ĐÔNG
Nguyên nhân hình thành bão ở Việt Nam
Bão được coi như một chu trình sống với các giai đoạn sinh ra, phát triển và kết thúc Đại dương ở các vùng nhiệt đới, đặc biệt là Thái Bình Dương gần xích đạo, với ánh nắng mặt trời dồi dào, đóng vai trò là nguồn gốc hình thành và nuôi dưỡng bão, do đó được gọi là bão nhiệt đới.
Chu kỳ của không khí nóng và sự ngưng tụ là nguyên nhân hình thành bão Khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống, nước biển bốc hơi, tạo ra lớp không khí ẩm trên mặt biển Ở những vùng có áp suất thấp, nước biển bay hơi nhiều hơn và hình thành cột khí ẩm bay lên cao, từ đó ngưng tụ thành bức tường mây dày đặc.
Khi độ cao tăng, cột khí trở nên lạnh hơn, dẫn đến việc hơi nước ngưng tụ thành nước và tỏa nhiệt, làm nóng không khí xung quanh Không khí nóng sẽ thúc đẩy hơi nước bay cao hơn, tạo ra khoảng trống dưới chân cột khí Để duy trì sức mạnh, cột khí cần liên tục hút không khí ẩm từ mặt biển lên, tạo ra một quá trình tuần hoàn Sự gia tăng độ ẩm sẽ làm cho cột khí trở nên mạnh mẽ hơn.
Không khí di chuyển từ mặt biển lên cao bị ảnh hưởng bởi lực Coriolis, lực này phát sinh do sự chuyển động của không khí đối với bề mặt trái đất Sự kết hợp với lực Coriolis tạo ra chuyển động xoáy tròn của không khí, được gọi là hoàn lưu Khi tốc độ hoàn lưu nhỏ hơn 17 m/s, hiện tượng này được gọi là áp thấp nhiệt đới, trong khi tốc độ lớn hơn 17 m/s sẽ hình thành bão.
2.1.1 Điều kiện hình thành bão nhiệt đới
Bão vào Việt Nam từ vùng Biển Đông và Thái Bình Dương, là loại bão biển nhiệt đới.
Theo định nghĩa quốc tế, bão biển nhiệt đới (từ tiếng Anh là
Bão nhiệt đới, hay còn gọi là bão hoặc bão nhiệt đới, được xác định khi có tốc độ gió vượt quá 63 km/giờ (gió cấp 8) Nếu tốc độ gió dưới 63 km/giờ, hiện tượng này được gọi là áp thấp nhiệt đới, là giai đoạn tiền thân của bão Khi gió mạnh hơn 118 km/giờ (gió cấp 12), bão được phân loại là bão to với sức gió mạnh Đặc biệt, siêu bão (super typhoon) có tốc độ gió vượt quá 241 km/giờ, thể hiện sức mạnh khủng khiếp của nó.
BẢNG CẤP GIÓ VÀ SÓNG (Việt Nam)
Cấp gió Tốc độ gió Độ cao sóng trung bình
- Cây nhỏ có lá bắt đầu lay động ảnh hưởng đến lúa đang phơi màu
- Biển hơi động Thuyền đánh cá bị chao nghiêng, phải cuốn bớt buồm.
- Cây cối rung chuyển Khó đi ngược gió.
- Biển động Nguy hiểm đối với tàu, thuyền.
- Gió làm gãy cành cây, tốc mái nhà gây thiệt hại về nhà cửa Không thể đi ngược gió.
- Biển động rất mạnh Rất nguy hiểm đối với tàu, thuyền.
- Làm đổ cây cối, nhà cửa, cột điện Gây thiệt hại rất nặng.
14,0 - Sức phá hoại cực kỳ lớn.
- Sóng biển cực kỳ mạnh. Đánh đắm tàu biển có trọng tải lớn.
Điều kiện cơ bản để hình thành bão biển nhiệt đới bao gồm nhiệt độ cao và sự dồi dào hơi nước Vùng biển thuộc đại dương nhiệt đới, nơi có nhiệt độ nước biển khoảng 28°C, là khu vực dễ phát sinh bão nhất Nhiệt độ cao khiến bề mặt biển bốc hơi nước mạnh, tạo ra áp suất thấp, từ đó hình thành các cơn bão.
Do sự chênh lệch khí áp, không khí ở các khu vực lân cận tràn vào tâm áp thấp
Tâm bão là khu vực có áp suất thấp, nơi không khí xung quanh bốc lên mạnh mẽ, tạo thành một bức tường mây dày đặc Hiện tượng này dẫn đến những cơn mưa lớn và gió mạnh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thời tiết khu vực.
Hệ thống khí xoáy hoạt động bằng cách vừa di chuyển vừa hút không khí vào trung tâm bão, dẫn đến hiện tượng gió giật mạnh Tuy nhiên, không phải tất cả các tâm áp thấp đều có khả năng phát triển thành bão.
Tại các vĩ độ nơi có sự hoạt động của gió Tín phong và lực Côriôlit, gió xoáy từ tâm áp thấp bị đẩy lên cao và di chuyển nhanh chóng, dẫn đến sự hình thành bão Do đó, bão thường xuất hiện ở khu vực vĩ tuyến này.
Vùng vĩ độ từ 5 đến 20 độ Bắc và Nam là nơi có đặc điểm khí hậu đặc biệt Ở khu vực vĩ độ thấp, từ 5 độ Bắc đến 5 độ Nam, gần xích đạo, lực Côriôlit giảm, dẫn đến việc không khí tại các tâm áp thấp không tạo thành gió xoáy mạnh mẽ và nhanh chóng được cân bằng Ngược lại, ở các vĩ độ cao, điều kiện hình thành bão nhiệt đới bị hạn chế do thiếu hụt các yếu tố cần thiết.
2.1.2 Điều kiện hình thành bão ở Việt Nam
Việt Nam nằm trong vùng có vĩ độ thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão biển nhiệt đới từ Thái Bình Dương, dẫn đến việc hàng năm đất nước phải đối mặt với nhiều cơn bão từ Biển Đông Theo thống kê, khoảng 70% số cơn bão đổ bộ vào Việt Nam xuất phát từ Thái Bình Dương, trong khi 30% còn lại phát sinh từ Biển Đông.
Do nước ta có hình dạng hẹp ngang, kéo dài ven biển với 3.260 km đường bờ biển nên ảnh hưởng của bão diễn ra trên toàn quốc.
Khu vực hay xảy ra bão trên thế giới và tần suất bão trung bình hằng năm
Nguồn:Trung tâm tư liệu khí tượng Thủy văn
Đặc điểm hoạt động của bão ở Biển Đông
Bão có tần số khá lớn và có xu hướng gia tăng
Trung bình hằng năm có từ 3 –
4 cơn bão, năm bão nhiều có tới
Năm bão ít cũng có 1 – 2 cơn bão
Trong 45 năm qua, khu vực Biển Đông đã ghi nhận 495 cơn bão ảnh hưởng đến Việt Nam, trung bình mỗi năm có khoảng 8,8 cơn bão tác động đến thời tiết của đất nước.
Biến đổi khí hậu toàn cầu đã dẫn đến sự gia tăng cả về số lượng và tính chất ác liệt của các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam Cụ thể, trong năm 2006, nước ta đã hứng chịu liên tiếp 6 trận bão mạnh, bao gồm bão Chan Chu vào tháng 5 và bão Xangsane.
Cinaron(10/2006), bão Chebi (11/2006), bão Durin và Uter (12/2006).
Bão có gió mạnh và mưa lớn
Xuất phát từ vùng biển nhiệt đới, lượng ẩm lớn nên bão di chuyển vào nước ta có gió mạnh và lượng mưa lớn.
Theo số liệu thống kê trong nhiều năm, số cơn bão có tốc độ từ 20 – 29 m/s (72
Tốc độ gió trong các cơn bão thường đạt từ 104 km/giờ (cấp gió 8 – 10), chiếm khoảng 43% tổng số cơn bão, trong khi những cơn bão có tốc độ gió mạnh hơn 30 m/s (tương đương 108 km/giờ, cấp gió 11) cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể Những cơn bão này thường đi kèm với mưa lớn, với lượng mưa tối đa trong một ngày tại vùng trung tâm bão dao động từ 200 – 300 mm, chiếm gần một nửa số cơn bão, và khoảng 1/5 số cơn bão có lượng mưa vượt quá 300 mm/ngày.
Trong các trận bão, lượng mưa thường dao động từ 300 đến 400 mm, thậm chí có thể lên tới 500 – 600 mm Khu vực ven biển miền Trung là nơi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất từ bão, với lượng mưa bão chiếm hơn 1/3 tổng lượng mưa hàng năm của vùng này.
Mùa bão chậm dần từ Bắc vào Nam, Bão mạnh nhất ở Bắc Trung Bộ
Trên khu vực Biển Đông, bão phát sinh từ tháng 5 đến tháng
12 Sau khi phát triển mạnh, bão di chuyển từ Đông sang Tây và đổ bộ vào vùng biển nước ta.
Mùa bão chính thức ở nước ta từ tháng 6 đến tháng 11, bão đến sớm có thể từ tháng 5 và muộn có thể sang tháng 12.
Bão tập trung nhất vào tháng 9, sau đó đến các tháng 10 và tháng 8 Tổng số cơn bão trong 3 tháng này chiếm tới 70% số cơn bão trong toàn mùa.
Mùa bão ở mỗi địa phương thay đổi theo sự di chuyển của dải hội tụ nhiệt đới, với mùa bão càng về phía Nam thì thời gian xuất hiện bão càng chậm do gió mùa Đông Bắc mạnh lên, đẩy dải hội tụ nhiệt đới lùi về phía Nam Thời gian bão xuất hiện mạnh mẽ khác nhau giữa các khu vực.
+ Từ Móng Cái đến Thanh Hóa, bão mạnh vào các tháng 7, 8.
+ Thanh Hóa – Quảng Trị: tháng 9.
+ Quảng Trị - Quảng Ngãi: tháng 10.
+ Quảng Ngãi – Thành phố Hồ Chí Minh: tháng 11
+ Thành phố Hồ Chí Minh – Cà Mau: tháng 12
Mùa bão di chuyển từ Bắc vào Nam liên quan đến hoạt động của dải hội tụ nội chí tuyến và sự mở rộng của áp cao cận chí tuyến Tây Thái Bình Dương Ngoài ra, áp thấp Tây Nam Á cũng có sự khơi sâu trong mùa hè của Bán cầu Bắc, cùng với sự mạnh lên của gió mùa Đông Bắc vào cuối giai đoạn chuyển tiếp từ gió mùa hè sang gió mùa đông.
Khu vực Bắc Trung Bộ, Miền Trung, là nơi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ bão do vị trí địa lý nằm giữa các vùng có hoạt động bão biển nhiệt đới Thời điểm bão thường đổ bộ vào khu vực này trùng với mùa bão trên Biển Đông và Thái Bình Dương, dẫn đến những cơn bão mạnh nhất.
Nam Bộ gần như không có Bão (khoảng 20 năm mới thấy một lần vào tháng
Bão diễn biến thất thường
Bão ở Việt Nam diễn biến thất thường cả về thời gian, không gian và mức độ hoạt động.
Thời gian mùa bão có sự biến động đáng kể, với sự khác biệt trong thời điểm bắt đầu và kết thúc Một số năm, bão đến sớm hơn dự kiến, trong khi những năm khác lại đến muộn Tương tự, mùa bão cũng có thể kết thúc sớm hoặc kéo dài hơn so với thông thường, dẫn đến sự thay đổi trong độ dài của mùa bão qua các năm.
Trong không gian khí hậu Việt Nam, có năm bão hoạt động mạnh gây thiệt hại nặng nề cho Bắc Bộ, đặc biệt là các trận bão lụt lịch sử vào năm 1945 và 1971 Đồng thời, khu vực Nam Bộ cũng ghi nhận những năm bão bất thường, như cơn bão Linđa vào năm 1997, đã gây tổn thất lớn cho cư dân địa phương.
Mức độ hoạt động của bão có sự biến động rõ rệt, với số lần xuất hiện của các cơn bão và hậu quả của chúng thay đổi qua các năm Có những năm ghi nhận nhiều bão, trong khi đó cũng có những năm lại ít bão hơn Bên cạnh đó, cường độ của bão cũng không đồng nhất, với năm mạnh mẽ và năm yếu ớt.
TÁC HẠI CỦA BÃO Ở BIỂN ĐÔNG VÀ VIỆT NAM – BIỆN PHÁP PHÒNG CHÓNG VÀ GIẢM NHẸ ẢNH HƯỞNG CỦA BÃO
Tác hại của bão ở Biển Đông và Việt Nam
Bão là thiên tai thường xảy ra hàng năm, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, đặc biệt ảnh hưởng lớn đến cư dân vùng ven biển.
Một cơn bão đang hoạt động trên Biển Đông (Ảnh vệ tinh)
Cơn bão gây ra thiệt hại nghiêm trọng với mưa lớn dẫn đến lũ lụt ở khu vực gần tâm bão Gió lốc mạnh có thể phá hủy công trình nhân tạo và cấu trúc tự nhiên Khi bão xảy ra trùng với thủy triều cao, hiện tượng xói mòn bờ biển và lũ lụt nghiêm trọng trên đất liền sẽ xảy ra.
Cơn bão không chỉ tạo ra các cơn lốc xoáy với sức mạnh khủng khiếp, mà còn gây thiệt hại nghiêm trọng đến công trình, nhà cửa và cây cối Mức độ thiệt hại của bão phụ thuộc không chỉ vào cường độ của nó mà còn vào cách thức đổ bộ Khi bão tấn công từ phía bên phải, thiệt hại thường lớn hơn so với phía bên trái, vì ở phía bên phải, tốc độ gió và tốc độ di chuyển của bão bổ sung cho nhau, trong khi ở phía bên trái, chúng lại bù trừ lẫn nhau.
Trên biển, bão gây sóng to dâng cao tới 9 – 10 m làm lật úp tàu thuyền Gió bão làm mực nước biển dâng cao thường khoảng 1,5 – 2 m, đôi khi tới
Mực nước biển dâng cao từ 3 đến 4 mét gây ngập mặn tại các vùng ven biển và bồi lấp cát trên đồng ruộng Mưa lớn trên cát triền sông dẫn đến lũ lụt, kết hợp với sóng to và nước dâng, gây ngập lụt rộng rãi tại đồng bằng, nhấn chìm nhà cửa, ruộng đồng và làng mạc.
Gió giật mạnh, đổi chiều còn tàn phá những công trình vững chắc như công sở, cầu cống, cột điện cao thế,
Trận bão tràn vào Thanh Hóa mùa hè năm
1995 đã gây nên cái chết cho khoả ng
600 người và thiệt hại nhiều n h à c ử a t h u y ề n b è
Lind a xảy ra vào năm
Vào năm 1997, bão gió mạnh cấp 14 với tốc độ 150 km/giờ đã tấn công đồng bằng sông Cửu Long, gây ra thiệt hại lớn cho khu vực Cơn bão này không chỉ đánh đắm nhiều tàu thuyền mà còn khiến 4.500 người thiệt mạng, gây ra nỗi kinh hoàng cho cư dân nơi đây.
200 nghìn căn nhà và 325 nghìn ha ruộng.
Trận bão lũ lịch sử, bão số 5 Lekima đổ diễn ra vào tháng 10 năm 2007 đã gây thiệt hại lớn cho miền trung là một ví dụ
Trận bão này làm 70 người chết, 16 người bị mất tích,
126 người bị thương, 135 000 ngôi nhà bị sập, hư hỏng, hàng trăm nghìn ha lúa và hoa màu bị mất trắng, ư ớc tính thiệt hại hàng trăm nghìn tỉ đồng.
Biện pháp phòng chóng và giảm nhẹ ảnh hưởng của bão
3.2 Biện pháp phòng chóng và giảm nhẹ ảnh hưởng của bão
Hỗ trợ khả năng ứng phó cho ngư dân đánh bắt thủy sản
Công tác phát và thu nhận thông tin dự báo, cảnh báo và chỉ đạo ứng phó với bão và ATNĐ:
Đài tiếng nói Việt Nam đang tiến hành rà soát và kiểm tra để đảm bảo phủ sóng toàn bộ vùng lãnh hải của đất nước, cũng như các khu vực biển quốc tế nơi tàu đánh cá Việt Nam hoạt động.
Khi thời tiết xấu, cần tăng cường thời gian phát bản tin bão, bao gồm cả những thông tin về bão xa, nhằm giúp các tàu đánh cá xa bờ nắm bắt kịp thời thông tin quan trọng.
+ Bộ giao thông vận tải chỉ đạo Cục hàng hải phối hợp với Bộ
Tư lệnh Bộ đội Biên phòng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống thông tin chuyên ngành nhằm quản lý tàu thuyền nghề cá Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân trong việc liên lạc hai chiều với đất liền mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nghề cá.
Bộ Thủy sản phối hợp với Bộ Quốc phòng và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tiến hành kiểm tra trang thiết bị thông tin trên các tàu thuyền đánh cá xa bờ Mục tiêu là đảm bảo tất cả tàu thuyền đều được trang bị thiết bị thông tin đầy đủ và thực hiện đăng ký ngư trường mới trước khi ra khơi Đồng thời, sẽ tổ chức bộ phận chuyên trách để thu nhận thông tin và quản lý hoạt động của tàu thuyền đánh cá trên biển.
+ Ngoài ra cần xây dựng các trạm thu phát sóng, cột tín hiệu cảnh báo bão, các vị trí bắn pháo hiệu để cảnh báo bão cho tàu thuyền.
Thông báo các thông tin dự báo
Cơ quan Khí Tượng – Thủy văn Việt Nam đã cung cấp thông tin dự báo về bão, bao gồm tọa độ, hướng di chuyển, tốc độ và cấp độ mạnh của bão Những thông tin này giúp các tàu thuyền trên biển có biện pháp phòng tránh, đồng thời hỗ trợ việc sơ tán dân nếu cần thiết Sự hợp tác với Ủy ban Kinh tế - xã hội châu Á – Thái Bình Dương đã nâng cao chất lượng nghiên cứu và dự báo thiên tai, nhằm giảm thiểu thiệt hại do bão gây ra.
Dương (ESCAP) và tổ chức khí tượng thế giới (WNO) sẽ nâng cao hiệu quả dự báo bão ở nước ta.
Tiếp tục cải tiến và nâng cao độ chính xác công tác dự báo
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo áp dụng bản tin dự báo bão với thời hạn 48 giờ, hướng tới việc mở rộng thời gian dự báo dài hơn Các bản tin sẽ được cập nhật chi tiết và cụ thể hơn, đồng thời tăng số lần phát bản tin khi bão xuất hiện trên Biển Đông và di chuyển vào bờ Điều này nhằm hỗ trợ công tác chỉ đạo và giúp người dân chủ động phòng tránh thiên tai hiệu quả hơn.
Tiến hành cứu hộ, cứu trợ, giải quyết kịp thời hậu quả tác hại sau khi bão tràn qua
Cần tập trung huy động mọi nguồn lực, bao gồm nhân lực, phương tiện giao thông, thiết bị kỹ thuật, thông tin, y tế, lương thực, thực phẩm, quần áo và các vật dụng thiết yếu, để hỗ trợ nhân dân vùng bị thiên tai.
Tăng cường năng lực cho công tác tìm kiếm – cứu nạn xa bờ
Tăng cường đầu tư nguồn lực; trang bị thêm tàu cứu hộ cứu nạn cho Ủy ban
Quốc gia TKCN đảm bảo đủ công suất để có thể cứu hộ cứu nạn đến vùng biển xa.
Khắc phục hậu quả lâu dài như
Việc tu bổ và tái thiết các hệ thống công trình công cộng, bao gồm đường sá, cầu cống, đê đập, điện nước, và thông tin liên lạc, là rất quan trọng Đồng thời, cần chú trọng đến việc cải thiện nhà ở cho cư dân và nâng cao vệ sinh môi trường để đảm bảo chất lượng cuộc sống.
Thực hiện đúng các văn bản pháp quy, chính sách hỗ trợ đối với dân cư vùng bị bão lũ.
Quy hoạch sử dụng đất hợp lý cho các điểm dân cư, khu công nghiệp và đê kè ven biển là cần thiết để giảm thiểu tác hại của bão.
Tổ chức đánh bắt thủy sản
Bộ thủy sản hướng dẫn tổ chức các đội đánh bắt trên biển hiệu quả và hỗ trợ lẫn nhau khi gặp sự cố Đồng thời, cơ quan này cũng tuyên truyền để khuyến khích chủ phương tiện đăng ký bảo hiểm khi đánh bắt xa bờ Ngoài ra, việc tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho thuyền trưởng là cần thiết, nhằm đảm bảo họ có đủ kiến thức và kinh nghiệm khi ra khơi.
Để bảo vệ tàu thuyền trước bão, cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu neo đậu trú bão theo quyết định của chính phủ Mục tiêu là hoàn thành khoảng 75 trong tổng số 98 khu theo quy hoạch vào năm 2010 Đồng thời, tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân vào các khu trú tránh bão.
Bão là thiên tai khủng khiếp, vì vậy con người đã nỗ lực tìm cách phòng tránh thiệt hại từ xa xưa Trước khi khoa học phát triển, nhiều người tin rằng bão là hình phạt từ trời hoặc sự giận dữ của Long Vương Họ xây dựng đê điều để ngăn ngừa lũ lụt, nhưng những công trình này vẫn có thể bị vỡ, dẫn đến thảm họa chết người và tàn phá ruộng đồng, như đã xảy ra ở vùng ven sông Hoàng.
Hà, Dương Tử bên Tàu hay sông Hồng Hà miền
Miền Trung Việt Nam vẫn phải đối mặt với bão lụt hàng năm, gây thiệt hại nặng nề cho người dân Mặc dù khoa học chưa thể hoàn toàn ngăn chặn bão, nhưng các nhà khí tượng học đã phát triển nhiều công cụ để theo dõi sự hình thành, sức mạnh và hướng đi của bão, giúp người dân có thể chuẩn bị và giảm thiểu thiệt hại.
Dự báo bão hiện nay cần phải chính xác về đường đi của bão để thực hiện các biện pháp phòng chống hiệu quả tại những khu vực có khả năng bị ảnh hưởng.
Mặc dù đường đi của bão có thể được dự đoán theo lý thuyết, nhưng diễn biến thực tế của bão trong hành trình lại rất phức tạp và có thể thay đổi theo những hướng không thể lường trước.
[1] Nguyễn Văn Âu, Địa lí tự nhiên
Biển Đông , NXB ĐHQG Hà Nội,
[2] Nguyễn Hữu Danh, Tìm hiểu thiên tai trên Trái Đất , NXB Giáo
[3] Phùng Ngọc Đĩnh, Tài nguyên
Biển Đông Việt Nam , NXB Giáo dục, Năm 1999.
[4] Vũ Tự Lập, Địa lí tự nhiên Việt Nam , NXB Đại học sư Phạm, Năm
[5] Đặng Duy Lợi, Giáo trình địa lí tự nhiên Việt Nam 1 và 2 , NXB Đại học sư Phạm, Năm 2008.
[6] Nguyễn Ngọc Thụy, Biển Đông tiềm năng gọi chúng ta , NXB Thanh
[7] Phạm Ngọc Toàn - Phan Tất Đắc.
Khí hậu Việt Nam NXB Khoa học và kĩ thuật Hà Nội Năm 1993.
[8] Phạm Quang Vinh, Phân vùng tự nhiên Việt Nam (phần biển và hải đảo) ,
Viện Địa lí – Viện khoa học công nghệ Việt Nam, Năm 1998.
[9] Thông tin về thiên tai ở Việt Nam. Cục quản lý đê điều và phòng chống lụt bão trung ương www.ccfsc.org.v