1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào

86 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Tác giả Somphackdy Phaisengphet
Người hướng dẫn TS. Lê Nguyên Thanh
Trường học Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 86
Dung lượng 1,65 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN (16)
    • 1.1. khái niệm tội trộm cắp tài sản (16)
    • 1.2. Dấu hiệu pháp lí của tội trộm cắp tài sản (20)
      • 1.2.1. Dấu hiệu định tội (20)
      • 1.2.2. Dấu hiệu định khung hình phạt (23)
      • 1.2.3. Hình phạt (23)
    • 1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm khác (25)
      • 1.3.1. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội chiếm giữ trái phép tài sản (25)
      • 1.3.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (25)
      • 1.3.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản (27)
    • 1.4. Quy định của pháp luật hình sự lào về tội trộm cắp tài sản trong các Bộ luật hình sự (27)
      • 1.4.1. Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật Hình sự Lào năm 1990 (27)
      • 1.4.2. Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật Hình sự Lào năm 2005 (29)
      • 1.4.3. Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật hình sự Lào năm 2017 (32)
    • 1.5. Pháp luật hình sự một số nước về tội trộm cắp tài sản (33)
      • 1.5.1. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 (33)
      • 1.5.2. Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức (36)
      • 1.5.3. Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Công hòa nhân dân Trung (38)
      • 1.5.4. Tội trộm cắp tài sản trong Luật hình sự Vương quốc Thái Lan (39)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN PHẠM VI TOÀN QUỐC VÀ THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN (44)
    • 2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản (46)
      • 2.2.1. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm cơ bản (46)
      • 2.2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm tăng nặng trên địa bàn thủ đô Viêng Chăn (50)
    • 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản (52)
    • 2.4. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản (58)
      • 2.4.1. Kết quả đạt được (58)
      • 2.4.2. Những hạn chế (60)
      • 2.4.3. Nguyên nhân của các vướng mắc, hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản (61)
  • CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN (64)
    • 3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản (64)
    • 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản (66)
      • 3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật (66)
      • 3.2.2. Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản (71)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

khái niệm tội trộm cắp tài sản

Năm 1975, sau khi đất nước Lào hoàn toàn giải phóng, Đảng Nhân dân Cách mạng và nhà nước CHDCND Lào đã tập trung vào việc củng cố nền độc lập dân tộc và lãnh đạo nhân dân các bộ tộc xây dựng Tổ quốc Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chế độ xã hội mà đế quốc Mỹ đã áp đặt, tình hình an ninh trật tự xã hội trở nên phức tạp với sự gia tăng của nhiều loại tội phạm Điều này đòi hỏi một cuộc đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ chính quyền non trẻ và thúc đẩy đất nước tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn.

Trước khi bộ luật hình sự ra đời, Chính phủ đã ban hành một số sắc lệnh quy định về hoạt động điều tra, bắt và xử lý tội phạm Mặc dù các quy định trong các sắc lệnh này còn đơn giản, nhưng chúng đã tạo nền tảng quan trọng cho công tác điều tra và xử lý tội phạm, trong bối cảnh chưa có các văn bản pháp luật cụ thể liên quan.

Vào ngày 23/12/1989, Luật hình sự của CHDCND Lào đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 09/01/1990, đánh dấu lần đầu tiên tội phạm trộm cắp tài sản được quy định cụ thể tại Điều 119, mục V, phần các tội phạm cụ thể.

Ngày 27/10/1999, văn bản hướng dẫn thực hiện Luật hình sự và các hoạt động điều tra, xử lý tội phạm hình sự đã được ban hành, nhằm đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản công dân Tuy nhiên, do tính phức tạp của vấn đề, nhiều khó khăn và vướng mắc trong quá trình tố tụng hình sự vẫn chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt trong việc phòng, chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng.

Vào năm 1995, Luật tố tụng hình sự của nước CHDCND Lào được ban hành, đánh dấu một bước quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm Bên cạnh đó, Chính phủ Lào cũng đã phát hành nhiều văn bản quan trọng như Chỉ thị số 19/CP, Nghị định 91/CP và số 158/CP, cùng với Chỉ thị số 165/BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ (hiện nay là Bộ An ninh), quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng Cảnh sát trong công tác này.

Theo Bộ luật hình sự hiện hành, tội phạm xâm phạm quyền sở hữu đã được phân loại thành một mục riêng trong Chương luật.

II nhóm V “ Các tội xâm phạm sỡ hữu ”

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các tội phạm liên quan, các cơ quan chức năng cần xác định chính xác giá trị tài sản bị chiếm đoạt, theo quy định tại Chương III Điều 11 của Bộ luật Hình sự nước CHDCND Lào năm 2017.

Tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) Hành vi này do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có thể là cố ý hoặc vô ý, và xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Ngoài ra, tội phạm còn xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, cũng như quyền lợi hợp pháp của tổ chức và cá nhân, bao gồm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản và các quyền lợi hợp pháp khác của công dân.

Những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng mức thiệt hại dưới 1.000.000 kíp không được coi là tội phạm, ngoại trừ các trường hợp như cướp, cướp giật hoặc tái phạm nguy hiểm.

Tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định bởi bộ luật hình sự Để được coi là tội phạm, hành vi này phải do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ tuổi thực hiện, thể hiện lỗi và xâm phạm đến các quan hệ xã hội được bảo vệ bởi luật hình sự.

Mặc dù đã có luật hóa và sửa đổi bổ sung, nhưng các quy định pháp luật vẫn chưa mô tả rõ ràng hành vi trộm cắp tài sản Việc thiếu văn bản hướng dẫn thi hành đã dẫn đến sự không thống nhất trong cách hiểu và ý kiến về khái niệm tội phạm này cũng như các dấu hiệu pháp lý liên quan.

Từ điển Pháp luật hình sự định nghĩa “trộm cắp tài sản là hành vỉ lén lút chiếm đoạt tài sản đang cỏ người khác quản lý” 3

Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do GS.TSKH

Lê Cảm chủ biên thì để đưa ra khái niệm trộm cắp tài sản, cần khẳng định tội

1 Điều 11 khoản 1 BLHS nước CHDCND Lào năm 2017

2 Điều 11 khoản 2 BLHS nước CHDCND Lào năm 2017

Theo Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (2006), để xác định tội trộm cắp tài sản, cần thỏa mãn ba bình diện và năm đặc điểm của tội phạm Bình diện khách quan chỉ ra rằng tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; bình diện pháp lý khẳng định tội phạm là hành vi trái pháp luật; và bình diện chủ quan nhấn mạnh rằng tội phạm phải được thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự với lỗi.

Theo Đinh Văn Quế, trộm cắp tài sản được định nghĩa là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý mà không sử dụng vũ lực hay đe dọa Tuy nhiên, khái niệm này chưa làm rõ khách thể và chủ thể của tội trộm cắp tài sản.

Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, trộm cắp tài sản được định nghĩa là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc quyền quản lý của người khác.

Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, tội trộm cắp tài sản được định nghĩa là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác.

Dấu hiệu pháp lí của tội trộm cắp tài sản

Ngày 15/05/2017, Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự năm 2017, có hiệu lực từ ngày 26/06/2017, nhằm đáp ứng yêu cầu bổ sung và tách điều luật mới trước tình hình tội phạm ngày càng phức tạp Bộ luật này thay thế Bộ luật hình sự năm 2005, đồng thời hiện đại hóa các quy định pháp luật để nâng cao hiệu quả trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm Trong phần này, luận văn sẽ phân tích dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 119 BLHS năm 2005 và Điều 231 BLHS năm 2017.

* Khách thể của tội trộm cắp tài sản

Tội phạm trộm cắp tài sản xâm phạm quyền sở hữu của tổ chức và cá nhân, được quy định tại Điều 231 Nhóm V BLHS năm 2017 Hành vi này ảnh hưởng đến quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ sở hữu, tạo ra quan hệ xã hội cần được bảo vệ Luật hình sự bảo vệ tài sản của cá nhân và tổ chức, và một điểm mới trong Điều 231 là yêu cầu giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 1.000.000 kíp trở lên Nếu giá trị tài sản dưới 1.000.000 kíp, hành vi trộm cắp phải thuộc các trường hợp nghiêm trọng hoặc người vi phạm đã bị xử lý hành chính nhưng vẫn tiếp tục vi phạm.

*Mặt khách quan của tộỉ phạm

Mặt khách quan của tội phạm, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản, bao gồm các biểu hiện bên ngoài như hành vi, hậu quả, và mối quan hệ nhân quả giữa chúng Cấu thành vật chất của tội phạm này được thể hiện qua các dấu hiệu khách quan như thời gian, địa điểm, công cụ và phương tiện phạm tội.

Hành vi khách quan của tội phạm liên quan đến việc lén lút và bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác Một hành vi chiếm đoạt được xem là lén lút nếu nó được thực hiện một cách kín đáo, khiến cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không nhận ra Việc thực hiện hành vi này một cách lén lút đồng nghĩa với việc người phạm tội cố tình che giấu hành động của mình Người phạm tội luôn có ý thức giấu diếm hành vi chiếm đoạt, không để cho chủ tài sản phát hiện Ý thức che giấu này có thể hướng đến tất cả mọi người hoặc chỉ riêng chủ sở hữu tài sản.

Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội một cách bí mật, không để nạn nhân biết bất kỳ thông tin hay hành động nào liên quan đến tội ác của mình.

Người phạm tội có thể che giấu một phần hành vi của mình, khiến cho nạn nhân chỉ biết tên và diện mạo của họ mà không hay biết về những hành động phạm tội mà họ thực hiện.

Che giấu tính chất của hành vi phạm tội xảy ra khi người thực hiện hành vi phạm tội một cách công khai, nhưng không ai nhận ra đó là hành vi vi phạm pháp luật.

Hậu quả của hành vi trộm cắp tài sản là thiệt hại về giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bao gồm tiền, hàng hóa, vật dụng và giấy tờ có giá trị từ 1.000.000 kíp trở lên Nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 1.000.000 kíp, cần thỏa mãn một trong các điều kiện như gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản mà chưa được xóa án tích và còn vi phạm.

Nếu một người thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản, mỗi lần dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự, và chưa bị xử phạt hành chính, nhưng tổng giá trị tài sản từ các lần trộm cắp đạt từ 1.000.000 kíp trở lên, thì vẫn có đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

- Các vụ trộm cắp tài sản thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về thời gian

- Việc trộm cắp tài sản có tính chất chuyên nghiệp lấy tài sản trộm cắp làm nguồn sống chính

Vì mục đích trộm cắp tài sản, nhưng do hoàn cảnh khách quan, việc thực hiện hành vi trộm cắp phải diễn ra nhiều lần, dẫn đến giá trị tài sản bị xâm phạm mỗi lần dưới 1.000.000 kíp.

Những dấu hiệu này không chỉ xác định tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với xã hội, mà còn giúp chúng ta hiểu rõ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm, từ đó tìm ra giải pháp hiệu quả cho công tác phòng, chống tội phạm.

* Mặt chủ quan của tộì phạm

Khoa học luật hình sự khẳng định rằng tội phạm là sự kết hợp giữa hai khía cạnh khách quan và chủ quan Khía cạnh khách quan phản ánh những biểu hiện bên ngoài của hành vi phạm tội, trong khi khía cạnh chủ quan liên quan đến hoạt động tâm lý của người phạm tội Các yếu tố trong khía cạnh chủ quan bao gồm lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.

Lỗi trong luật hình sự Lào là thái độ tâm lý của cá nhân đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó, thể hiện qua cố ý hoặc vô ý Tội trộm cắp tài sản, giống như các loại tội chiếm đoạt khác, thường được thực hiện với lỗi cố ý, cho thấy sự nhận thức và mong muốn của người phạm tội trong việc thực hiện hành vi này.

Trong tội trộm cắp tài sản, động cơ và mục đích vụ lợi là yếu tố đặc trưng, thể hiện qua việc chiếm đoạt tài sản của người khác để biến thành của mình hoặc chuyển nhượng cho người khác Mặc dù không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, việc làm rõ động cơ và mục đích trong từng vụ trộm cắp có thể giúp xác định tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.

* Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng không phải ai cũng là chủ thể tội phạm mà chỉ những người đủ 18 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định Đối với tội trộm cắp tài sản, pháp luật hình sự Lào phân loại đây là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, do đó, chỉ những người từ 18 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi của mình.

1.2.2 Dấu hiệu định khung hình phạt

Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm khác

1.3.1 Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội chiếm giữ trái phép tài sản

Theo quy định tại Điều 240 BLHS năm 2017:

Tội chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình chiếm đoạt tài sản của người khác mà không trả lại cho chủ sở hữu hoặc cơ quan có thẩm quyền Hình phạt cho hành vi này có thể lên đến hai năm tù giam và phạt tiền từ 1.000.000 kíp đến 5.000.000 kíp.

Nếu tài sản bị chiếm giữ trái phép có giá trị lớn hoặc số lượng lớn, người vi phạm có thể bị phạt tù từ một đến năm năm và chịu mức phạt tiền từ 1.000.000 kíp đến 5.000.000 kíp.

Những điểm khác nhau cơ bản giữa tội trộm cắp tài sản và tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 240 BLHS Lào năm 2017) như sau:

Tội trộm cắp tài sản ảnh hưởng đến tài sản đang trong sự quản lý của người khác, trong khi tội chiếm giữ trái phép tài sản liên quan đến tài sản đã thoát ly khỏi sự quản lý của chủ sở hữu Điều này bao gồm tài sản không có chủ, tài sản bị đánh rơi, bỏ quên hoặc giao nhầm.

Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản bao gồm việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, trong khi tội chiếm giữ tài sản trái phép thể hiện qua hành vi cố tình không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp hoặc không giao nộp tài sản bị giao nhầm hoặc tìm được cho cơ quan có thẩm quyền, ngay cả khi đã có yêu cầu trả lại từ chủ sở hữu hoặc cơ quan chức năng theo quy định của pháp luật.

1.3.2 Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm pháp, trong đó kẻ lừa đảo sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc các phương thức khác để khiến người quản lý hoặc chủ sở hữu tài sản giao tài sản cho mình.

Theo Điều 240 Bộ luật Hình sự nước CHDCND Lào năm 2017, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 233 Cụ thể, người nào sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm, đồng thời phải chịu mức phạt tiền từ 5.000.000 kíp đến 20.000.000 kíp.

Người phạm tội sẽ bị xử phạt tù từ 3 đến 8 năm và bị phạt tiền từ 10.000.000 kíp đến 50.000.000 kíp nếu thuộc một trong các trường hợp sau: vi phạm nhiều lần, thực hiện có tổ chức, hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Phạm tội chưa đạt cũng phải chịu trách nhiệm hình sự 10

Những điểm cơ bản cần lưu ý giữa tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ( Điều 233 BLHS năm 2017 ) như sau:

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành vật chất, do đó việc xác định tài sản bị chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc Đây là dấu hiệu định lượng quan trọng giúp xác định cấu thành cơ bản hoặc cấu thành định khung tăng nặng của tội này.

Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người phạm tội thực hiện hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp Hành vi gian dối này thường diễn ra trước hoặc ngay sau khi chiếm đoạt tài sản Các phương pháp thực hiện rất đa dạng, bao gồm việc sử dụng lời nói dối, giấy tờ giả mạo, giả danh người có chức quyền, hoặc giả mạo tổ chức để ký kết hợp đồng một cách không ngay thẳng, thậm chí kết hợp nhiều cách thức để đạt được mục đích tối đa.

- Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tài sản đang trong sự quản lý của người khác

Tội trộm cắp tài sản được định nghĩa là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, trong khi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm pháp sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc các phương thức khác để chiếm đoạt tài sản.

10 Điều 233 BLHS nước CHDCND Lào năm 2017

1.3.3 Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản

Tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sử dụng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản Theo Điều 242 Bộ luật Hình sự năm 2017 của nước CHDCND Lào, hành vi này được quy định rõ ràng và nghiêm khắc.

Người có hành vi đe dọa sử dụng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản sẽ bị phạt tù từ 2 đến 5 năm, đồng thời bị phạt tiền từ 20.000.000 kíp đến 50.000.000 kíp và bị tịch thu tài sản.

Phạm tội trong các trường hợp sau đây sẽ bị phạt tù từ 3 đến 8 năm và bị phạt tiền từ 30.000.000 kíp đến 100.000.000 kíp: a) Tội phạm có tính chất chuyên nghiệp; b) Tội phạm được thực hiện có tổ chức; c) Tội phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Phạm tội chưa đạt vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự Một điểm quan trọng cần lưu ý là sự khác biệt giữa tội phạm trộm cắp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản.

- Khách thể trực tiếp của tội trộm cắp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản là quyền sở hữu của người khác

- Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản là tài sản của người khác

Tội trộm cắp tài sản được định nghĩa là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, trong khi tội cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa sử dụng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản.

Quy định của pháp luật hình sự lào về tội trộm cắp tài sản trong các Bộ luật hình sự

1.4.1 Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật Hình sự Lào năm 1990 Điều 99: Trộm cắp, cướp giật tài sản của nhà nước hoặc của chung

11 Điều 242 BLHS nước CHDCND Lào

Người nào lấy tài sản của nhà nước hoặc của chung một cách lén lút thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm

Người nào lấy tài sản của người khác thành của mình bằng cách cướp giật thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm;

Trong trường hợp người phạm tội tài sản bằng cách đột nhập, khoét ngạch, phá hủy hàng rào, cửa, rương, tủ,… thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm

Phạm tội trong các trường hợp như có tính chất chuyên nghiệp, thực hiện có tổ chức, hoặc gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị phạt tù từ 3 đến 5 năm.

Phạm tội chưa đạt cũng phải chịu trách nhiệm hình sự 12

Theo Điều 99 của bộ luật, hình thức phạt đối với tội trộm cắp và cướp giật là phạt tù, chưa có hình thức phạt tiền Hai tội này được quy định chung trong Chương IV, liên quan đến việc xâm phạm sở hữu nhà nước hoặc tài sản chung Trong khi đó, tội trộm cắp và cướp giật tài sản công dân được quy định tại Điều 110 trong Chương V, tập trung vào việc xâm phạm sở hữu của cá nhân.

Người chiếm đoạt tài sản của người khác một cách lén lút sẽ bị xử phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm hoặc có thể bị phạt cải tạo không giam giữ.

Người nào lấy tài sản của người khác thành của mình bằng cách cướp giật thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm;

Trong trường hợp người phạm tội tài sản bằng cách đột nhập, khoét ngạch, phá hủy hàng rào, cửa, rương, tủ,… thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 5 năm a) Có tính chất chuyên nghiệp b) Thực hiện có tổ chức

12 Điều 99 BLHS nước CHDCND Lào năm 1990 c) Gây hậu quả nghiêm trọng

Phạm tội chưa đạt cũng phải chịu trách nhiệm hình sự 13

Tội trộm cắp tài sản được chia thành hai loại: trộm cắp tài sản của nhà nước hoặc của chung và trộm cắp tài sản của công dân Hai loại tội này được quy định trong hai chương khác nhau, tuy nhiên, các dấu hiệu phạm tội và hình phạt hiện tại chỉ được nêu ra một cách chung chung mà chưa có khung phạt tiền cụ thể.

1.4.2 Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật Hình sự Lào năm 2005 Đây là giai đoạn CHDCND Lào đang trong quá trình đổi mới, hội nhập và đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ trong đời sống xã hội Nhằm giải phóng sức lao động, sáng tạo của các tầng lớp trong xã hội và phù hợp với giai đoạn đất nước chuyển mình, gia nhập vào đời sống kinh tế quốc tế đòi hỏi nhà nước phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đòi hỏi Nhà nước ta cần có quan điểm bình đẳng giữa sở hữu chung và sở hữu riêng Nhưng theo quy định của Bộ luật hình sự Lào năm 2005, các nhà lập pháp chưa nhập hai khách thể riêng được quy định tại Chương IV và Chương V của Bộ luật hình sự năm 1990 Việc phân định hai hình thức sở hữu để quy định thành hai khách thể bảo vệ độc lập là tài sản thuộc sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân dẫn đến việc định tội danh là rất khó và không chính xác, không đảm bảo quyền bình đẳng về sở hữu đối với các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường Nhưng theo quy định củ Bộ luật này đã bổ sung thêm các khung phạt tiền Cụ thể là: Đối với tội trộm cắp tài sản nhà nước hoặc của chung bổ sung thêm phạt tiền trong khung cơ bản là từ 100.000 kíp đến 5.000.000 kíp và khung hình phạt bổ sung từ 1.000.000 kíp đến 10.000.000 kíp Đối với tội trộm cắp tài sản công dân bổ sung thêm phạt tiền trong khung cơ bản là từ 100.000 kíp đến 3.000.000 kíp và khung hình phạt bổ sung từ 1.000.000 kíp đến 8.000.000 kíp

Mặc dù tội trộm cắp tài sản nhà nước và tội trộm cắp tài sản công dân chưa được nhập vào một chương, nhưng các khung hình phạt đã được bổ sung và có sự thay đổi, dẫn đến mức phạt nặng hơn.

13 Điều 110 BLHS nước CHDCND Lào năm 1990 Điều 108: Tội trộm cắp, cướp giật tài sản của nhà nước hoặc của chung

1 Người nào trộm cắp tài sản của nhà nước hoặc của chung thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm và bị phạt tiền từ 100.000 kíp đến 5.000.000 kíp

2 Người nào cướp giật tài sản của nhà nước hoặc của chung thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm và bị phạt tiền từ 200.000 kíp đến 7.000.000 kíp

3 Trong trường hợp thực hiện hành vi trộm cắp bằng cách cạy phá cửa, dỡ hàng rào, mở vali, tủ đồ… thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm và bị phạt tiền từ 200.000 kíp đến 7.000.000 kíp

4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm và bị phạt tiền từ 1.000.000 kíp đến 10.000.000 kíp a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Có tổ chức thành nhóm c) Gây hậu quả nghiêm trọng 14 Đối với tội trộm cắp tài sản công dân, BLHS Lào năm 2005 quy định: Điều 119: Tội trộm cắp, cướp giật tài sản của công dân

1 Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ và bị phạt tiền từ 100.000 kíp đến 3.000.000 kíp

2 Người nào tranh cướp giật sản của người khác thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm và bị phạt tiền từ 150.000 kíp đến 5.000.000 kíp

3 Trong trường hợp thực hiện hành vi trộm cắp bằng cách cạy phá cửa, dỡ hàng rào, mở vali, tủ đồ… thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm và bị phạt tiền từ 200.000 kíp đến 5.000.000 kíp

4 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến năm năm và bị phạt tiền từ 1.000.000 kíp đến 8.000.000 kíp a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Có tổ chức thành nhóm

14 Điều 108 BLHS nước CHDCND Lào năm 2017, tr.38 c) Gây hậu quả nghiêm trọng 15

Như vậy, tội trộm cáp tài sản trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2005, sau hơn

Sau 10 năm thi hành, Bộ luật hình sự 2005 đã đóng góp quan trọng vào việc bảo đảm an ninh, chính trị và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, nhưng vẫn bộc lộ một số bất cập, nhất là chưa thể chế hóa đầy đủ quan điểm cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước Sự phát triển của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa yêu cầu hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, phải trở thành công cụ thúc đẩy và bảo vệ phát triển kinh tế Trong bối cảnh tội phạm gia tăng, đặc biệt là tội lừa đảo, cần xem xét lại chính sách hình sự hiện hành, vì biện pháp trừng phạt nghiêm khắc không đủ hiệu quả để giảm thiểu tội phạm Bộ luật hình sự 2005 đã được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu mới trong đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có việc điều chỉnh mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội trộm cắp tài sản, thể hiện sự chuyển biến trong chính sách hình sự nhằm giảm nhẹ hình phạt và phù hợp hơn với thực tiễn.

15 Điều 119 BLHS nước CHDCND Lào năm 2005, tr.42

1.4.3 Tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật hình sự Lào năm 2017

Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2017 được ban hành dựa trên các quy định của Hiến pháp năm 2015 về bảo vệ quyền con người và quyền sở hữu hợp pháp, kế thừa từ Bộ luật hình sự năm 2005 Chương V quy định 17 tội xâm phạm sở hữu, với hình phạt được thiết lập nhằm đảm bảo sự bình đẳng trong xử lý các hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước và cá nhân Chính sách của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới nhấn mạnh xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, yêu cầu sự đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế Tuy nhiên, việc duy trì hai nhóm tội xâm phạm sở hữu đã dẫn đến những bất cập trong việc xác định tội danh, khi người phạm tội chỉ quan tâm đến giá trị tài sản mà không phân biệt nguồn gốc sở hữu Để phù hợp với chính sách kinh tế xã hội, Bộ luật hình sự 2017 đã hợp nhất hai chương về tội xâm phạm sở hữu thành một chương duy nhất, mang tên "Các tội xâm phạm sở hữu".

Pháp luật hình sự một số nước về tội trộm cắp tài sản

1.5.1 Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 Để đáp ứng ỵêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, ngày 27/11/2015, Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016 Tuy nhiên, khi chưa có hiệu lực, do có sai sót nên BLHS năm 2015 bị dừng lại để sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 144//2016/QH 13 của Quốc hội ngảy 29/6/2016 Đến ngày 20/6/2017, Quốc hội thông qua Luật sửạ đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 và Luật này có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 Như vậy, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực từ ngày 1/1/2018

Tội trộm cắp tài sản được quì định tại Điều 173 BLHS năm 2015 có cấu thành tội phạm cơ bản như sau:

Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các trường hợp nhất định, sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm Các trường hợp này bao gồm việc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà vẫn tiếp tục vi phạm, hoặc đã từng bị kết án về tội này hoặc các tội liên quan.

Theo các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174 và 290 của Bộ luật này, những hành vi vi phạm chưa được xóa án tích có thể gây ra tác động tiêu cực đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội Đặc biệt, tài sản liên quan đến vụ việc có thể là phương tiện kiếm sống chính của nạn nhân và gia đình họ, hoặc là những kỷ vật, di vật có giá trị tinh thần lớn.

So với Điều 138 BLHS năm 1999, tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có sự thay đổi đáng chú ý Cụ thể, nếu giá trị tài sản trộm cắp dưới 2 triệu đồng nhưng rơi vào một trong các trường hợp quy định, thì sẽ bị xử lý theo quy định mới.

Năm 2015, đã có sự thay đổi quan trọng trong quy định pháp luật khi thay thế dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” bằng dấu hiệu “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” Đồng thời, cũng bổ sung thêm dấu hiệu liên quan đến tài sản, trong đó tài sản được xác định là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, cũng như tài sản mang tính kỷ vật, di vật.

Nghiên cứu quy định về tội trộm cắp tài sản từ năm 1945 đến nay cho thấy rằng các quy định này ngày càng hoàn thiện, phù hợp với yêu cầu phòng chống tội phạm qua các giai đoạn lịch sử Việc tổng hợp kinh nghiệm thực tiễn trong đấu tranh chống tội phạm trộm cắp, cùng với việc phân tích các quy định pháp luật hình sự trước đây và hiện tại, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao và hoàn thiện các quy định về tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự.

So với quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, hình phạt quy định trong Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 không có nhiều thay đổi ngoài

Điều 173 Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam năm 2015 đã bỏ hình phạt tù chung thân tại khoản 4 của điều luật Điều này quy định 4 khung hình phạt khác nhau, nhằm điều chỉnh các mức án phù hợp với tính chất và mức độ vi phạm.

- Khung cơ bản quy định mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

- Khung tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm Khung tăng nặng thứ 2 có mức phạt tù từ 7 năm đến 15 năm

- Khung tăng nặng thứ 3 có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 Hình phạt bổ sung cho tội này là phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng

Dấu hiệu định khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật Hình sự năm 2015 không có nhiều thay đổi so với Bộ luật Hình sự năm 1999 Theo Điều 173, các nhà làm luật đã bổ sung thêm trường hợp chiếm đoạt tài sản thỏa mãn dấu hiệu định khung về trị giá tài sản, với khung hình phạt nhẹ hơn so với các trường hợp tại khoản 1, bao gồm việc đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về tội này hoặc các tội liên quan.

Theo Bộ luật Hình sự 2015, các hành vi vi phạm tại các điều 171, 172, 174, 175 và 290 chưa được xóa án tích có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội Những vi phạm này không chỉ tác động đến tài sản, mà còn ảnh hưởng đến phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ Đặc biệt, tài sản bị thiệt hại có thể bao gồm những kỷ vật, di vật và đồ thờ cúng mang giá trị tinh thần sâu sắc đối với người bị hại.

Khoản 3 và khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh” và “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” Cả Bộ luật Hình sự Việt Nam và Lào đều quy định rằng tài sản bị chiếm đoạt do hành vi trộm cắp có thể là tiền, hàng hóa, vật dụng và giấy tờ có giá trị từ 1.000.000 kíp trở lên Nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 1.000.000 kíp, cần thỏa mãn một trong các điều kiện như gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản mà chưa được xóa án tích và còn vi phạm.

Trong Bộ Luật Hình sự Việt Nam, các dấu hiệu định tội đối với hành vi trộm cắp tài sản bao gồm việc đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về chiếm đoạt tài sản, đã có án tích chưa được xóa và gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội Sự khác biệt giữa Bộ Luật Hình sự Việt Nam và Bộ Luật Hình sự Lào cũng cần được xem xét để hiểu rõ hơn về các quy định pháp lý trong từng quốc gia.

BLHS Lào chỉ xử lý tội trộm cắp tài sản có giá trị từ 1 triệu kíp trở lên, mà không phân định mức giá trị thiệt hại theo từng khung hình phạt như BLHS Việt Nam Điều này cho thấy ưu điểm của BLHS Việt Nam trong việc phân biệt rõ ràng giữa tội trộm cắp và các trường hợp không phải tội phạm Việc quy định này cần được tiếp tục phát huy để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và xử lý tội phạm.

Trong Bộ luật Hình sự (BLHS) CHDCND Lào, quy định về tội trộm cắp tài sản chỉ đề cập một phần đến dấu hiệu định tội, đặc biệt đối với các trường hợp có nhân thân xấu hoặc các yếu tố không liên quan đến giá trị tài sản bị chiếm đoạt Ngược lại, BLHS Việt Nam quy định cụ thể hơn, bao gồm các trường hợp như “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” và “tài sản là di vật, cổ vật” Sự khác biệt này giữa hai hệ thống pháp luật là điểm cần lưu ý khi nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản.

1.5.2 Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức

Khác với Bộ luật Hình sự năm 2017 của CHDCND, chỉ quy định tội trộm cắp tài sản trong một điều luật (Điều 231), Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức lại dành riêng một chương (chương 19) để quy định nhiều tội danh liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản Cụ thể, các điều luật bao gồm: Điều 242 về trộm cắp tài sản, Điều 243 quy định trường hợp đặc biệt nghiêm trọng của tội trộm cắp, Điều 244 liên quan đến trộm cắp có vũ khí, băng nhóm, và đột nhập, Điều 244a về trộm cắp có băng nhóm nghiêm trọng, Điều 247 quy định về trộm cắp trong nhà và trong gia đình, Điều 248a về trộm cắp và chiếm đoạt đồ vật có giá trị nhỏ, và Điều 248c liên quan đến việc lấy trộm năng lượng điện.

So sánh với quy định về tội trộm cắp tài sản tại Điều 231 BLHS Lào năm

2017, chúng ta thấy tội trộm cắp tài sản trong BLHS Cộng hòa Liên bang Đức có những điểm giống và khác nhau như sau:

Các tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức và Lào có những điểm tương đồng quan trọng, bao gồm việc xâm phạm quyền sở hữu của người khác, hành vi chiếm đoạt tài sản và thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN PHẠM VI TOÀN QUỐC VÀ THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:37

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
10. Nguyễn Ngọc Anh (2009) “Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Công an nhân dân, số 4, tr.22-26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm sở hữu"”", Tạp chí "Công an nhân dân
11. Phạm Văn Beo (2010) Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 – Phần các tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 – Phần các tội phạm)
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
12. Thái Chí Bình (2012) “Tội trộm cắp tài sản – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7, tr.15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tội trộm cắp tài sản – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. "Tạp chí" Tòa án nhân dân
13. Lê Cảm (2005) Những vấn đề cơ bản về khoa học hình sự (Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề cơ bản về khoa học hình sự (Phần chung)
Nhà XB: Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
14. Nguyễn Ngọc Chí (2000) Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu
15. Lê Văn Đệ (2004) Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam
Nhà XB: Nxb Công an nhân dân
16. Nguyễn Ngọc Điệp (2017) Bình luận khoa học phần các tội phạm – Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận khoa học phần các tội phạm – Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Nhà XB: Nxb Thế giới
17. Giáo trình luật hình sự Lào, phần chung (2005), Nxb Bộ Tư Pháp Viêng Chăn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật hình sự Lào, phần chung
Tác giả: Giáo trình luật hình sự Lào, phần chung
Nhà XB: Nxb Bộ Tư Pháp Viêng Chăn
Năm: 2005
18. Giáo trình luật hình sự Lào, phần các tội phạm (2005), Nxb Bộ Tư Pháp Viêng Chăn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình luật hình sự Lào, phần các tội phạm
Tác giả: Giáo trình luật hình sự Lào, phần các tội phạm
Nhà XB: Nxb Bộ Tư Pháp Viêng Chăn
Năm: 2005
19. Đinh Thị Bích Hà (dịch và giới thiệu) (2007) Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Nhà XB: Nxb Tư pháp
20. Trần Mạnh Hà (2006) “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội Trộm cắp tài sản khi định tội danh”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5, tr.7-10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội Trộm cắp tài sản khi định tội danh"”", Tạp chí "Tòa án nhân dân
21. Nguyễn Ngọc Hòa – Lê Thị Sơn (2006) Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển pháp luật hình sự
Nhà XB: Nxb Tư pháp
22. Học viện Tư Pháp (2011) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
Nhà XB: Nxb Tư pháp
23. PhạXaySồmBắt SổmXạNúc, “Đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản công dân tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản công dân tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”
24. Hoàng Văn Hùng (2007) Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng, chống tội này ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng, chống tội này ở Việt Nam
25. Trần Thị Bích Liên (2016) Tội trộm cắp tài sản do người nước ngoài thực hiện từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ , Học viện Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tội trộm cắp tài sản do người nước ngoài thực hiện từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
26. Lê Văn Luật (2002) “Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về định tội danh đối với một số tội xâm phạm sở hữu"”," Tạp chí "Tòa án nhân dân
27. Đinh Văn Quế (1998) Bình luận án, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình luận án
Nhà XB: Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
28. Nguyễn Thị Mộng Thúy (2013) Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An
29. ViLaXon NamPhone, “Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản công dân trên địa bàn tỉnh Chăm Pa Sắc nước CHDCND Lào”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản công dân trên địa bàn tỉnh Chăm Pa Sắc nước CHDCND Lào”

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO  - Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO (Trang 1)
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO  - Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO (Trang 2)
BLHS Bộ luật hình sự - Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào
lu ật hình sự (Trang 5)
Thực trạng của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thủ đô Viêng Chăn còn được thể hiện ở hệ số tình hình tội phạm là số vụ trộm cắp tài sản trên  100.000  dân - Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào
h ực trạng của tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thủ đô Viêng Chăn còn được thể hiện ở hệ số tình hình tội phạm là số vụ trộm cắp tài sản trên 100.000 dân (Trang 45)
Để đánh giá một cách khách quan, toàn diện tình hình tội trộm cắp tài sản tại thủ đô Viêng Chăn, ngoài thống kê về số vụ án, đối tượng phạm tội ở trên cần  xem xét vụ án đã khám phá, số đối tượng bị phát hiện, song chưa đủ yếu tố cấu  thành để đưa ra xét  - Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào
nh giá một cách khách quan, toàn diện tình hình tội trộm cắp tài sản tại thủ đô Viêng Chăn, ngoài thống kê về số vụ án, đối tượng phạm tội ở trên cần xem xét vụ án đã khám phá, số đối tượng bị phát hiện, song chưa đủ yếu tố cấu thành để đưa ra xét (Trang 46)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w