NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ
Khái niệm “Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch”
Thanh tra, xuất phát từ gốc La tinh "Inspestare", có nghĩa là "nhìn vào bên trong", chỉ việc xem xét hoạt động bên trong của một số đối tượng nhất định Theo Từ điển Luật học, thanh tra là hoạt động nhằm làm rõ việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ và kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân Do đó, thanh tra được hiểu là một hoạt động đánh giá quá trình thực hiện pháp luật của các chủ thể Trong lý luận về quản lý nhà nước, thanh tra là một chức năng cơ bản và thiết yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm pháp chế và tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước.
Dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ “thanh tra” đã được đề cập từ những ngày đầu xây dựng chính quyền nhân dân, cụ thể là vào ngày 23 tháng 11 năm 1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt Qua đó, quyền thanh tra được xác định chính thức và được giao cho Chính phủ.
Các bản Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến 2013 đều nhấn mạnh vai trò của "thanh tra" Khái niệm thanh tra và kiểm tra được quy định rõ ràng trong các Điều 96, 100 và 112 của Hiến pháp năm 2013 Cụ thể, Khoản 5 Điều 96 xác định nhiệm vụ của Chính phủ trong việc thực hiện công tác thanh tra.
“…Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước;…”
Pháp lệnh thanh tra năm 1990, Luật Thanh tra năm 2004 đều có khái niệm về
"Thanh tra" là một hoạt động quan trọng nhằm khẳng định và làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước Luật Thanh tra năm 2010 đã quy định cụ thể các khía cạnh này, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công tác thanh tra, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước.
“Thanh tra” bao gồm hai khái niệm chính là “thanh tra nhà nước” và “thanh tra nhân dân”, cả hai đều liên quan đến hoạt động giám sát và kiểm tra xã hội Trong quá trình giám sát, thanh tra nhân dân chỉ có quyền kiến nghị mà không có quyền xử lý vụ việc do không mang quyền lực nhà nước Hoạt động chủ yếu của cơ quan này là giám sát.
1 Trường cán bộ thanh tra (2006), Nghiệp vụ công tác thanh tra, NXB thống kê, Hà Nội, tr.9
2 Viện khoa học pháp lý – Bộ Nội vụ (2006), Từ điển Luật học, NXB Nội vụ, Hà Nội, tr.697
3 Lê Thị Thanh Nga (2012), Tổ chức và hoạt động của Thanh tra sở Giao thông vận tải, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật TP.HCM, tr.5
4 Chủ tịch Chính phủ Lâm thời (1945), Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945, Điều 1
5 Nguyễn Cửu Việt (2010), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.668
Bùi Ngọc Thanh Trung (2011) đã nghiên cứu về pháp luật liên quan đến hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực văn hóa, phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện trong luận văn thạc sĩ luật tại Đại học Luật TP.HCM.
Theo quy định tại Điều 2 và Khoản 1, Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010, thì
“Thanh tra nhà nước” là hoạt động đánh giá và xử lý theo quy định pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhằm phát hiện sơ hở trong quản lý và chính sách Mục đích của thanh tra là kiến nghị biện pháp khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật, và giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định Hoạt động này không chỉ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước mà còn bảo vệ lợi ích của Nhà nước và quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân Do đó, thanh tra là quyền và trách nhiệm của người đứng đầu mọi cơ quan hành chính, bao gồm cả “thanh tra hành chính” và “thanh tra chuyên ngành.”
Theo quy định của Luật Thanh tra 2010, tác giả nhận thấy rằng sự phân định giữa hoạt động thanh tra hành chính (TTHC) và thanh tra chuyên ngành (TTCN) vẫn còn tương đối.
Các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) và thanh tra chuyên ngành (TTCN) nhằm đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước Dù TTHC và TTCN đều liên quan đến việc thanh tra chấp hành pháp luật, nhưng việc phân định ranh giới giữa pháp luật và pháp luật chuyên ngành gặp nhiều khó khăn Tuy nhiên, mối quan hệ giữa đối tượng thanh tra và chủ thể có quyền thanh tra là tiêu chí quan trọng để xác định phạm vi hoạt động của TTHC và TTCN.
Thuật ngữ “thanh tra” hay “thanh tra nhà nước” không chỉ đơn thuần là một hoạt động, mà còn đại diện cho một hệ thống các cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng thanh tra tại Việt Nam.
Tổ chức thực hiện quyền giám sát, kiểm tra và thanh tra ở các quốc gia khác nhau có sự khác biệt rõ rệt Ở các nước Bắc Âu như Thụy Điển và Đan Mạch, cũng như Canada và một số quốc gia Nam Mỹ, cơ quan thanh tra thường thuộc Quốc hội và có nhiệm vụ giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, bao gồm cả cơ quan hành chính và nội vụ Chức năng này nhằm đảm bảo rằng các Tòa án và cơ quan hành pháp thực hiện đúng nhiệm vụ của mình Trong khi đó, các quốc gia ở Châu Á và Châu Phi có thể áp dụng những phương thức khác nhau trong việc tổ chức thanh tra.
7 Nguyễn Cửu Việt (2010), tlđd (5), tr.692
8 Trần Đức Toàn (2013), Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Nội vụ, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật
Chức năng nhiệm vụ cơ bản của các cơ quan thanh tra tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Lào, Ai Cập là giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm việc xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo, cũng như kiểm tra, thanh tra công vụ của công chức nhà nước Thanh tra hoạt động độc lập và là công cụ quản lý của cấp trên đối với cấp dưới Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh tra, như Pháp lệnh thanh tra năm 1990, Luật Thanh tra năm 2004 và Luật Thanh tra năm 2010, xác định rõ hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, và các cấp thanh tra địa phương như tỉnh, thành phố, sở, huyện, quận, thị xã.
Luật Thanh tra năm 2010 đã cải cách tổ chức và hoạt động thanh tra, chuyển giao chức năng thanh tra cho các cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm Tổng cục, Cục thuộc bộ và Chi cục thuộc sở Theo Điều 4 của luật này, cơ quan thực hiện chức năng thanh tra bao gồm cơ quan thanh tra nhà nước và các cơ quan được giao nhiệm vụ thanh tra Do đó, hiện nay, các cơ quan thanh tra được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả những cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra.
1.1.2 Khái niệm “Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch”
Khái niệm “Thanh tra sở” theo Khoản 1, Điều 19 Pháp lệnh Thanh tra năm
Theo quy định năm 1990, Thanh tra sở là tổ chức thanh tra thuộc cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Nhiệm vụ của Thanh tra sở bao gồm thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của sở và quản lý công tác thanh tra đối với các cơ quan, đơn vị trực thuộc sở.
Luật Thanh tra năm 2004 quy định rằng Thanh tra sở là cơ quan thuộc sở, có nhiệm vụ hỗ trợ Giám đốc sở trong việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến thủ tục hành chính (TTHC) và thanh tra chuyên ngành (TTCN) trong phạm vi quyền hạn của Giám đốc.
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của Thanh tra Sở VHTTDL liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của pháp luật thanh tra và các văn bản pháp luật quy định tổ chức và hoạt động của ngành VHTTDL.
Ngày 31 tháng 07 năm 2007, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 01/2007/QH12 về cơ cấu tổ chức của Chính phủ và số phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa XII, Bộ VHTTDL được thành lập, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên cơ sở sáp nhập Tổng cục Du lịch, Tổng cục Thể dục thể thao; tiếp nhận phần QLNN về gia đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em
Ngày 06 tháng 6 năm 2008, Liên Bộ VHTTDL, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở VHTTDL thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng VHTT thuộc UBND cấp huyện Sở VHTTDL được thành lập trên cả nước, trên cơ sở sáp nhập Sở Thể dục thể thao, Sở Du lịch về Sở VHTT, chức năng quản lý về gia đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em chuyển về Sở VHTTDL quản lý, chức năng quản lý về thông tin (báo chí, xuất bản) của Sở VHTT chuyển về Sở Thông tin và Truyền thông quản lý Theo đó, Thanh tra Sở VHTTDL là một tổ chức thuộc cơ cấu cứng của Sở VHTTDL 15 cũng được thành lập trên cơ sở sáp nhập Thanh tra Sở Thể dục Thể thao, Thanh tra Sở Du lịch và Thanh tra Sở VHTT
Do vậy, tác giả trình bày quá trình hình thành và phát triển của Thanh tra
Sở VHTTDL thành 02 giai đoạn: Giai đoạn trước 2008 và giai đoạn từ năm 2008 đến nay
Trong giai đoạn này, Thanh tra Sở VHTTDL chưa được thành lập, và tổ chức cũng như hoạt động của Thanh tra Sở VHTTDL liên quan mật thiết đến quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức thanh tra trước đó như Thanh tra Sở VHTT, Thanh tra Sở Thể dục thể thao và Thanh tra Sở Du lịch, những tổ chức này đã được sáp nhập để tạo thành Thanh tra Sở VHTTDL.
Từ năm 1945 đến năm 1954: ngày 28 tháng 8 năm 1945, Bộ Thông tin- Tuyên truyền được thành lập là bộ chủ quản về văn hóa giai đoạn này Đến năm
Năm 1946, cơ quan chủ quản về văn hóa là Ty Thông tin tuyên truyền đã được đổi tên thành Ty Thông tin theo Sắc lệnh số 224/SL ngày 27 tháng 11 năm 1946 của Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ Đến tháng 8 năm 1954, Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập Bộ Tuyên truyền, tách ra độc lập từ Nha Tuyên truyền và Văn nghệ.
Ngày 30 tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 14/SL, thiết lập Bộ Thanh niên và Nha Thể dục Trung ương Theo Thông tư liên tịch số 43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 06 tháng 6 năm 2008 của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ, nội dung này thuộc phần III, khoản 2, được quy định bởi Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Thanh niên, tiền thân của ngành Thể dục thể thao hiện nay, được thành lập vào ngày 27 tháng 3 năm 1946 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 38/SL, thiết lập Nha Thanh niên và Thể dục trong Bộ Quốc gia Giáo dục, bao gồm một Phòng Thanh niên Trung ương và một Phòng Thể dục Trung ương Đến ngày 09 tháng 7 năm 1960, Nghị định số 26/CP của Chính phủ quy định thành lập Công ty Du lịch Việt Nam, tiền thân của Tổng cục Du lịch, trực thuộc Bộ Ngoại thương Vào ngày 16 tháng 3 năm 1963, Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT-TCCB, quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty Du lịch Việt Nam.
Pháp luật về thanh tra được quy định bởi các Sắc lệnh: Ngày 23 tháng 11 năm
Năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL, quy định việc thành lập một Ban Thanh tra đặc biệt Ban này có nhiệm vụ giám sát tất cả các công việc và nhân viên của các Ủy ban Nhân dân và các cơ quan của Chính phủ.
Vào ngày 29 tháng 01 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 9-SL quy định thủ tục bắt bớ, giam cầm và truy tố các nhân viên của Chính phủ cùng các đại biểu Quốc hội Sau đó, vào ngày 18 tháng 12 năm 1947, Chủ tịch tiếp tục ký Sắc lệnh số 138B-SL.
Năm 1949, Sắc lệnh số 64/SL được bãi bỏ, đưa ra quy định mới về Ban Thanh tra trực thuộc Thủ tướng phủ, áp dụng đặc quyền tài phán cho các thành viên trong Ban Thanh tra Ngày 03 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 57/SL, quy định mỗi Bộ phải có Văn phòng, các Nha và có thể có cơ quan thanh tra cùng ban cố vấn Điều này dẫn đến việc hình thành các quy định pháp luật đầu tiên về tổ chức thanh tra tại một số bộ, ngành, xác định vai trò kiểm soát thông qua cơ chế kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan, nhân viên trong hệ thống hành chính nhà nước.
Mặc dù pháp luật về hoạt động thanh tra công nhân (TTCN) thời kỳ đầu chỉ tồn tại dưới hình thức Sắc lệnh, nhưng đây là hình thức pháp lý đầu tiên, tạo nền tảng cho hoạt động của Ban Thanh tra Văn bản này, mặc dù được ban hành trước Hiến pháp năm 1946, vẫn có tính quy phạm Hiến pháp và là một trong những văn kiện pháp lý quan trọng trong lĩnh vực này.
16 http://www.bvhttdl.gov.vn/vn/gioi-thieu-bo/gt-lich-su/index.html, truy cập ngày 19/4/2015
19 Chủ tịch nước (1945), tlđd (4), Điều 1
20 Chủ tịch nước (1949), Sắc lệnh 138B-SL ngày 18 tháng 12 năm 1949, Điều 6
21 Bùi Ngọc Thanh Trung (2011), tlđd (6), tr 28
Bài viết của Phạm Tuấn Khải (1998) nêu rõ những vấn đề cơ bản trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước, tạo nền tảng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật về hoạt động thanh tra, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch Trong giai đoạn này, các thanh tra sở chưa được thành lập.
Từ năm 1954 đến 1975, ngày 20 tháng 5 năm 1955, Bộ Tuyên truyền được thành lập và đổi tên thành Bộ Văn hóa Năm 1957, Ban Thể dục thể thao Trung ương được thành lập và đến năm 1960, cơ quan này được đổi thành Ủy ban Thể dục thể thao Đặc biệt, vào ngày 18 tháng 8 năm 1969, theo Nghị định 145 CP của Hội đồng Chính phủ, Công ty Du lịch Việt Nam đã được chuyển giao cho Phủ Thủ tướng quản lý.
Theo Hiến pháp 1959, công tác thanh tra, kiểm tra được quy định rõ ràng, trong đó Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm ban hành thông tư, chỉ thị và kiểm tra việc thực hiện chúng Ngày 31 tháng 8 năm 1970, Nghị quyết số 164-CP được ban hành nhằm tăng cường công tác thanh tra và củng cố hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước Nghị quyết nêu rõ việc thành lập Ban Thanh tra chuyên trách cho các ngành quản lý tổng hợp, sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực quan trọng Các ngành chưa có Ban Thanh tra cần khẩn trương thành lập, trong khi những ngành đã có cần kiện toàn tổ chức Để đảm bảo hiệu quả, các tổ chức thanh tra cần phải gọn nhẹ và có cán bộ có năng lực, đạo đức, trình độ chính trị và nghiệp vụ vững vàng, nắm vững chính sách, pháp luật, đồng thời có ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao.
Tổ chức và hoạt động thanh tra, đặc biệt là thanh tra của bộ, ngành, đã được điều chỉnh bởi một hệ thống quy phạm pháp luật (QPPL) tương đối cụ thể, với sự phát triển và đa dạng trong tổ chức, hoạt động và thẩm quyền Các quyền hạn trong hoạt động thanh tra bao gồm quyền kết luận, quyền kiến nghị sửa chữa với thủ trưởng cơ quan, và quyền báo cáo với Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra của Chính phủ để xem xét và quyết định kiến nghị truy tố trước Tòa án Trưởng đoàn hoặc Phái viên có trách nhiệm gửi báo cáo cho Ủy ban Thanh tra của Chính phủ và cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp của cơ quan, đơn vị được thanh tra Những quy định này đã được kế thừa và thể hiện rõ rệt trong Pháp lệnh nước ở Việt Nam.
24 Quốc hội (1959), Hiến pháp, Điều 76, 89
Thanh tra 1990 và Luật Thanh tra 2004 Giai đoạn này, Thanh tra Sở chưa được thành lập
Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Tổ chức của Thanh tra Sở VHTTDL được quy định theo Điều 23 của Luật Thanh tra năm 2010, cùng với Điều 15 của Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011, và Điều 8 của Nghị định số 71/2009/NĐ-CP, nhằm hướng dẫn thi hành các quy định liên quan đến thanh tra trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch.
1.3.1 Tổ chức của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
1.3.1.1 Địa vị pháp lý của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Thanh tra Sở VHTTDL là đơn vị thuộc Sở VHTTDL, có nhiệm vụ hỗ trợ Giám đốc Sở thực hiện các quyền hạn và trách nhiệm liên quan đến thủ tục hành chính (TTHC) và thanh tra công (TTCN) trong phạm vi quản lý nhà nước của Sở VHTTDL.
Theo Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BVHTT-BNV, Thanh tra Sở là một tổ chức bắt buộc trong cơ cấu của Sở VHTTDL, được thành lập thống nhất trên toàn quốc Là một bộ phận thuộc Sở VHTTDL, Thanh tra Sở có mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ với Giám đốc Sở, thể hiện qua tổ chức, biên chế, kinh phí hoạt động và phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn Mối quan hệ này không chỉ quan trọng về mặt tổ chức mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Sở VHTTDL.
Sở VHTTDL có quyền đề xuất với Chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc thành lập Thanh tra Sở VHTTDL, sau khi đã thống nhất ý kiến với Chánh Thanh tra tỉnh Giám đốc Sở VHTTDL chịu trách nhiệm bổ nhiệm và miễn nhiệm Chánh Thanh tra Sở VHTTDL (sau khi có sự đồng thuận với Chánh Thanh tra tỉnh), cũng như bổ nhiệm và miễn nhiệm Phó Chánh Thanh tra theo đề nghị của Chánh Thanh tra Sở, đồng thời quyết định việc phân bổ biên chế cho cơ quan này.
41 Chính phủ (2009), Nghị định số 71/2009/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2009, Điều 8, Khoản 1
Thanh tra Sở VHTTDL, theo quy định tại Điều 3, Khoản 2 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ (2015), là một bộ phận thuộc Sở, có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý nhà nước Cơ quan này không chỉ tham mưu và hỗ trợ Giám đốc Sở VHTTDL mà còn có vị trí tương đương với các phòng, ban chuyên môn khác trong Sở Tuy nhiên, Thanh tra Sở VHTTDL còn có những đặc thù riêng biệt, khác với các phòng chuyên môn nghiệp vụ khác.
Thanh tra là hoạt động đặc thù, yêu cầu tính độc lập tương đối với Thủ trưởng cơ quan QLNN Thanh tra Sở VHTTDL có tính độc lập cao hơn so với các phòng, ban khác, với tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng Trong một số nhiệm vụ nhất định, Thanh tra Sở VHTTDL có quyền ban hành quyết định hành chính độc lập, như quyết định thành lập đoàn thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra, và quyết định xử phạt vi phạm hành chính Điều này cho phép Thanh tra Sở đưa ra kiến nghị độc lập dựa trên thông tin và chứng cứ thu thập được, trong khi các phòng nghiệp vụ khác chỉ có thể tham mưu và trình Giám đốc Sở quyết định mà không có tư cách pháp nhân.
Trong tổ chức của Sở VHTTDL, Thanh tra Sở là cơ cấu duy nhất thực hiện hoạt động thanh tra, đóng vai trò quan trọng nhất của đơn vị Thanh tra Sở có quyền thực hiện thanh tra hành chính đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân thuộc quyền quản lý của Sở theo quy định pháp luật Điều này có nghĩa là tất cả các phòng, ban nghiệp vụ và đơn vị sự nghiệp thuộc Sở đều là đối tượng thanh tra Trong quá trình hoạt động, Thanh tra Sở có quyền xem xét, đánh giá, kiểm tra và xử lý các đơn vị, tổ chức có địa vị pháp lý tương đương.
43 Chính phủ (2013), Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013, Phụ lục một số biểu mẫu trong xử phạt vi phạm hành chính
Theo Nghị định số 71/2009/NĐ-CP, việc thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch được quy định tại Điều 16, bao gồm 24 lĩnh vực như di sản văn hóa, nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, quyền tác giả và quyền liên quan, thư viện, quảng cáo (trừ quảng cáo trên các phương tiện báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm), hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa, hoạt động kinh doanh dịch vụ thể thao, và kinh doanh du lịch.
Thanh tra Sở VHTTDL có sự tồn tại bắt buộc trong cơ cấu tổ chức của Sở VHTTDL, được quy định tại Điều 5 Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Khoản 2, Điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV Hoạt động và tổ chức của Thanh tra Sở còn được điều chỉnh bởi Nghị định số 71/2009/NĐ-CP, tạo ra cơ sở pháp lý rõ ràng hơn so với các phòng nghiệp vụ khác thuộc Sở VHTTDL, vốn không có văn bản quy phạm pháp luật riêng điều chỉnh về tổ chức và hoạt động.
Thanh tra Sở VHTTDL hoạt động dưới sự chỉ đạo và giám sát của Thanh tra tỉnh, đảm bảo tuân thủ quy định trong công tác thanh tra hành chính.
Sở VHTTDL có trách nhiệm lập chương trình thanh tra dựa trên kế hoạch của Thanh tra tỉnh và phải báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình hoạt động Thanh tra tỉnh và Chánh Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ cho Thanh tra Sở, đồng thời giải quyết các vấn đề chồng chéo trong thanh tra giữa các sở và huyện Ngoài ra, Chánh Thanh tra tỉnh cũng cần thống nhất ý kiến trong việc thành lập và bổ nhiệm Chánh Thanh tra Sở.
Trong hoạt động thanh tra chuyên ngành, Thanh tra Sở VHTTDL thực hiện theo chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ của Thanh tra Bộ VHTTDL Đơn vị này cần xây dựng kế hoạch thanh tra dựa trên kế hoạch của Bộ, đồng thời thực hiện công tác thông tin và báo cáo định kỳ hoặc đột xuất về kết quả thanh tra Ngoài ra, Thanh tra Sở còn có trách nhiệm kiến nghị và đề xuất với Thanh tra Bộ VHTTDL nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại địa phương.
Thanh tra Sở VHTTDL có những đặc điểm riêng biệt so với các cơ quan thanh tra khác như Thanh tra Sở Tư pháp, Thanh tra Sở Nội vụ, Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường, và Thanh tra Sở Xây dựng Sự khác biệt này thể hiện qua chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của từng cơ quan, góp phần tạo nên sự đa dạng trong hệ thống thanh tra nhà nước.
Thanh tra Sở VHTTDL là cơ quan thanh tra đa ngành, đa lĩnh vực, liên quan đến quản lý của Sở VHTTDL Mỗi lĩnh vực quản lý có đặc thù riêng và khác biệt theo vùng miền, như nghệ thuật biểu diễn ở miền Nam khác với miền Bắc và miền Trung Hơn nữa, mỗi lĩnh vực còn được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật Di sản văn hóa, Luật Điện ảnh, và Luật Quảng cáo, tạo nên sự phong phú và đa dạng trong nội dung và phạm vi thanh tra.
Sở VHTTDL rất rộng và phức tạp
Trong hoạt động thanh tra chuyên ngành, Thanh tra Sở VHTTDL thường phối hợp với Đoàn kiểm tra liên ngành Đoàn này có nhiệm vụ tham gia thường xuyên và bao gồm các thành viên như Trưởng Đoàn, Phó trưởng Đoàn, cùng các thành viên khác trong Đoàn kiểm tra liên ngành.