1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại tòa án

64 31 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 64
Dung lượng 1,04 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 1.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng (10)
    • 1.2. Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Việt Nam (16)
    • 1.3. Phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (22)
  • CHƯƠNG 2. NỘI DUNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI TÒA ÁN 2.1. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (24)
    • 2.1.1. Lãi suất cho vay (24)
    • 2.1.2. Phạt vi phạm hợp đồng tín dụng (36)
    • 2.2. Tranh chấp phát sinh từ giao dịch bảo đảm (46)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 1.1 Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng

Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Việt Nam

Bài viết này sẽ phân tích các đặc điểm của tranh chấp hợp đồng thương mại dựa trên những đặc điểm của hợp đồng và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án Việt Nam.

Trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD), thường có sự tham gia của một bên là tổ chức tín dụng (TCTD) Đáng chú ý, trong hầu hết các vụ tranh chấp HĐTD, nguyên đơn thường là các TCTD, trong khi bị đơn là bên vay.

Trong hợp đồng tín dụng (HĐTD), các điều khoản về nghĩa vụ thường do tổ chức tín dụng (TCTD) soạn thảo, quy định chặt chẽ về nghĩa vụ của bên vay như trả nợ, lãi suất, và các khoản phạt chậm trả, nhằm đảm bảo bên vay thực hiện đúng cam kết Trách nhiệm lớn của bên vay dễ dẫn đến tranh chấp khi không thực hiện nghĩa vụ, trong khi TCTD thường không vi phạm các điều khoản do mình đặt ra TCTD rất chú trọng khả năng thu hồi vốn, do đó thường yêu cầu tài sản bảo đảm trong HĐTD cho vay kinh doanh; nếu bên vay không đáp ứng điều kiện này, TCTD sẽ không ký kết hợp đồng hoặc giải ngân Đối với cho vay tiêu dùng, dù không yêu cầu tài sản bảo đảm, TCTD vẫn đặt ra các điều kiện như nghề nghiệp ổn định và thu nhập xác nhận, và khi bên vay thỏa mãn những điều kiện này, HĐTD sẽ được xác lập và giải ngân sẽ diễn ra.

Trong quan hệ hợp đồng tín dụng, tổ chức tín dụng (TCTD) thường giữ vai trò chủ động, dẫn đến việc các vi phạm hợp đồng thường xảy ra từ phía khách hàng vay TCTD hiếm khi vi phạm nghĩa vụ của mình trong các giao dịch này.

Hoạt động kinh doanh tiền tệ thuộc ngành nghề có điều kiện, do đó các tổ chức tín dụng (TCTD) được cấp giấy phép thành lập đều đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn pháp lý, bao gồm cả điều kiện về vốn pháp định Điều này đảm bảo rằng TCTD có khả năng thực hiện hoạt động tín dụng, với số tiền cho vay chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài sản của họ, vì vậy họ thường không gặp khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ giải ngân.

Trong các tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng, rất hiếm khi bên vay khởi kiện do hành vi vi phạm của bên cho vay Thực tế, phần lớn các vụ tranh chấp xảy ra khi tổ chức tín dụng (TCTD) là nguyên đơn, do quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại bởi hành vi vi phạm của bên vay.

Đối tượng tranh chấp trong hợp đồng tín dụng thường liên quan đến vốn tiền tệ, với giá trị tranh chấp thường lớn, đặc biệt là trong các hợp đồng vay vốn phục vụ mục đích kinh doanh.

Vốn tiền tệ là đối tượng kinh doanh chủ yếu của tổ chức tín dụng (TCTD), đóng vai trò trung gian tín dụng, vừa cung cấp vốn cho nền kinh tế vừa cho vay lại Để thực hiện tốt cả hai vai trò này, TCTD cần bảo vệ quyền lợi của mình trước các hành vi xâm phạm, đặc biệt khi bên vay gặp khó khăn trong việc tìm kiếm lợi nhuận, dẫn đến nguy cơ vi phạm hợp đồng tín dụng (HĐTD) do không trả được nợ Điều này có thể gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của TCTD Tranh chấp giữa TCTD và bên vay thường phát sinh khi TCTD nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, với đối tượng tranh chấp chủ yếu là vốn tiền tệ, do HĐTD luôn liên quan đến vốn này.

Trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (TCTD), khoản vay cho từng khách hàng được xác định dựa trên mục đích sử dụng vốn Các hợp đồng tín dụng (HĐTD) phục vụ cho mục đích kinh doanh thường có giá trị lớn, có thể lên đến hàng trăm tỷ đồng, với bên vay chủ yếu là doanh nghiệp hoặc hộ kinh doanh cần bổ sung vốn lưu động hoặc đầu tư tài sản cố định Nhu cầu vốn của họ rất lớn và chỉ các TCTD mới có khả năng đáp ứng Tuy nhiên, khi các HĐTD có giá trị lớn này phát sinh tranh chấp, nó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của TCTD và nền kinh tế.

19 Phụ lục 4 Luật Đầu tư 2014

20 Điều 19, Điều 20 Luật Các TCTD 2010

Mặc dù số tiền cho vay tiêu dùng từ các tổ chức tín dụng (TCTD) nhỏ hơn so với cho vay kinh doanh, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với hoạt động cho vay trong dân Nhu cầu vay lớn từ cá nhân và tổ chức thường không được đáp ứng bởi các nguồn bên ngoài, buộc họ phải vay từ TCTD, mặc dù điều kiện vay vốn có thể khó khăn hơn và lãi suất cao hơn.

Tranh chấp trong hợp đồng tín dụng thường phát sinh từ các nguyên nhân như mức lãi suất cho vay, phạt chậm trả lãi, thời hạn thanh toán nợ và xử lý tài sản bảo đảm Hợp đồng tín dụng thường là mẫu do tổ chức tín dụng (TCTD) soạn thảo, với các điều khoản được quy định chặt chẽ, thường có lợi cho TCTD, đặc biệt là về phạt chậm trả lãi và lãi suất cho vay Điều khoản phạt chậm trả lãi được coi là cần thiết để hạn chế vi phạm từ bên vay, nhưng lại gây ra nhiều tranh cãi về tính hợp pháp Bên vay cho rằng điều khoản này vi phạm pháp luật, trong khi TCTD khẳng định bên vay phải chịu trách nhiệm về việc vi phạm nghĩa vụ trả nợ Tính hợp pháp của điều khoản phạt chậm trả lãi vẫn là một vấn đề gây tranh cãi trong lĩnh vực tín dụng.

Hiện nay, hầu hết các tổ chức tín dụng (TCTD) áp dụng lãi suất thả nổi trong cho vay, dẫn đến việc bên vay có thể gặp khó khăn trong khả năng thanh toán khi lãi suất tăng cao Khi ký hợp đồng tín dụng với lãi suất thấp, bên vay có thể không lường trước được biến động thị trường, dẫn đến nợ lãi không thể trả Một số TCTD đưa ra lãi suất cao cố định, khiến bên vay chấp nhận vì nhu cầu vốn, nhưng nếu gặp khó khăn trong kinh doanh, họ cũng không thể trả nợ Khi bên vay không thanh toán được, họ thường tìm cách kéo dài thời hạn trả nợ để giải quyết khó khăn tài chính, từ đó phát sinh tranh chấp trong hợp đồng tín dụng.

Tranh chấp liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm thường xuất phát từ tâm lý lo ngại của chủ sở hữu về việc tài sản của họ sẽ bị phát mãi để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Thứ tư, hầu hết bên vay và bên cho vay đều thống nhất xác nhận nợ vốn

Nợ vốn là khoản tiền vay cố định mà bên vay yêu cầu và tổ chức tín dụng (TCTD) chấp nhận cho vay, được thể hiện qua hợp đồng tín dụng (HĐTD) mà hai bên đã thỏa thuận Cả bên cho vay và bên vay tự nguyện tham gia vào quan hệ HĐTD, và khi TCTD đồng ý cho vay, cả hai bên đều đạt được mục đích của mình, dẫn đến việc hầu như không có bất đồng về nợ vốn.

Vào thứ năm, tranh chấp hợp đồng tín dụng thường liên quan đến tranh chấp phát sinh từ giao dịch bảo đảm, và cả hai loại tranh chấp này cần được giải quyết đồng thời.

Phân loại tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

Dựa trên tiêu chí về việc bên vay có đăng ký kinh doanh hoặc có mục đích lợi nhuận hay không, tranh chấp được phân thành hai loại chính: tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh thương mại.

Căn cứ vào vấn đề tranh chấp, có thể chia tranh chấp HĐTD thành hai loại sau đây:

 Tranh chấp phát sinh từ HĐTD, gồm tranh chấp liên quan đến nội dung HĐTD, các điều khoản trong hợp đồng về tư cách người đại diện ký kết

Trước đây, việc cho vay tiền khá dễ dàng, nhưng hiện nay việc đòi nợ lại trở nên khó khăn hơn Sự thay đổi này đã ảnh hưởng lớn đến cả người cho vay lẫn người vay Nguồn tài chính trở nên khan hiếm hơn, khiến nhiều người gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ Sự thận trọng trong cho vay và thu hồi nợ ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng trong lĩnh vực tài chính.

Hợp đồng tín dụng (HĐTD) quy định rõ nghĩa vụ cung cấp thông tin, mục đích sử dụng vốn vay, nghĩa vụ trả gốc và lãi, mức lãi suất cho vay, hình thức phạt chậm trả lãi, cùng thời hạn thanh toán nợ.

 Tranh chấp phát sinh từ giao dịch bảo đảm, gồm tranh chấp liên quan đến nội dung hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh

Căn cứ vào chủ thể tranh chấp, có thể chia tranh chấp HĐTD thành hai loại sau đây:

Tranh chấp trong lĩnh vực tín dụng thường chỉ có hai bên tham gia, bao gồm tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng (TCTD) và bên vay là các doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế Ngoài ra, còn có tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa TCTD và bên vay không phải là doanh nghiệp, thường liên quan đến cho vay tiêu dùng.

Tranh chấp có thể xảy ra giữa ba bên, bao gồm những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (HĐTD) có bên thứ ba bảo lãnh kèm theo tài sản thế chấp, và những tranh chấp phát sinh từ HĐTD có bên thứ ba bảo lãnh mà không có tài sản thế chấp.

Chương 1 đã trình bày khái quát những vấn đề về khái niệm, đặc điểm cơ bản của HĐTD và tranh chấp HĐTD và đồng thời phân loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD cũng như trình bày quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện đối với loại tranh chấp này Qua những nội dung đã được trình bày, có thể thấy được rằng tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp phổ biến và thường phát sinh từ hành vi vi phạm HĐTD của một bên, đặc biệt là bên vay Ngoài ra, mối quan hệ giữa tranh chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng bảo đảm tiền vay là quan hệ không thể tách rời và vì vậy cả hai tranh chấp này luôn được giải quyết đồng thời Tranh chấp phát sinh từ HĐTD tuy không phải là loại tranh chấp quá phức tạp nhưng thường thì thời gian giải quyết tranh chấp HĐTD bị kéo dài, mà đặc biệt đối với những tranh chấp HĐTD có tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của bên thứ ba, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia tranh chấp

Nội dung này sẽ làm cơ sở cho nghiên cứu trong chương tiếp theo về thực tiễn và khó khăn trong giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng tại Tòa án, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng này.

NỘI DUNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI TÒA ÁN 2.1 Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng

Lãi suất cho vay

Quy định của pháp luật hiện hành về lãi suất trong hoạt động cho vay của TCTD

Lãi suất thường được định nghĩa là tỷ lệ giữa tổng số tiền phải trả và số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định Trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD), lãi suất bao gồm cả lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn Khi đến kỳ hạn trả nợ, nếu khách hàng không thanh toán đúng hạn mà không được điều chỉnh hoặc gia hạn, TCTD sẽ chuyển toàn bộ số nợ còn lại sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn để xử lý.

Theo Luật Các TCTD năm 2010, TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất và phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng Tuy nhiên, mức trần lãi suất cho vay không được quy định rõ ràng, và chỉ khi có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới can thiệp để đảm bảo an toàn cho hệ thống TCTD Đối với các khoản vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam phục vụ các lĩnh vực kinh tế cụ thể, TCTD phải tuân thủ mức lãi suất tối đa do Thống đốc NHNN quyết định, như trong trường hợp cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn hoặc cho vay cho các dự án xuất khẩu.

Các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bao gồm Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng, được ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 Quy chế này quy định các điều kiện và quy trình cho vay, nhằm đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong hoạt động tín dụng.

Bài viết của Lương Khả Ân (2013) trên Tạp chí Tòa án nhân dân nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng đúng quy định pháp luật về lãi suất trong việc giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng tại Tòa án Tác giả đã phân tích các khía cạnh pháp lý cần thiết để đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong quá trình xét xử các vụ án liên quan đến tín dụng ngân hàng.

25 Xem khoản 2 Điều 91 Luật Các TCTD năm 2010

26 Xem Điều 91 Luật Các TCTD năm 2010

27 Xem Điều 1 Thông tư số 08/2014/TT-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam ngày 17/03/2014

Theo quy định tại Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010, các tổ chức tín dụng (TCTD) được phép cho vay với lãi suất thỏa thuận mà không cần quy định mức lãi suất tối đa Đối với nợ gốc quá hạn, TCTD cũng có thể áp dụng lãi suất thỏa thuận, nhưng mức lãi suất không được vượt quá 150% so với lãi suất cho vay đã ký trong hợp đồng.

Theo Điều 12 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, lãi suất trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng được sử dụng như công cụ để xác định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Theo quy định pháp luật hiện hành, cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng được áp dụng cho cả lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn Việc Ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất cơ bản chỉ nhằm mục đích điều hành chính sách tiền tệ, không bắt buộc các tổ chức tín dụng phải áp dụng mức lãi suất đó trong hoạt động cho vay.

Mặc dù Luật Các TCTD không quy định cụ thể mức trần lãi suất, điều này không có nghĩa là các bên có thể tự do thỏa thuận về lãi suất cho vay Theo Điều 91 Luật Các TCTD 2010, các bên phải thỏa thuận "theo quy định của pháp luật" Điều này cho thấy nhà làm luật không muốn quy định trực tiếp vấn đề này trong Luật Các TCTD mà muốn giao cho các văn bản pháp luật khác điều chỉnh Do đó, cần xác định văn bản pháp luật nào sẽ quy định về lãi suất cho vay trong quan hệ hợp đồng tín dụng.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005, tại Điều 476, mức trần lãi suất đối với khoản vay trong hạn được quy định là 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố Đối với lãi suất quá hạn, khoản 5 của điều này cũng đưa ra các quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan trong hợp đồng vay.

Theo quy định tại Điều 474 Bộ luật Dân sự 2005, không cho phép thỏa thuận mức lãi suất quá hạn, mà lãi suất này phải được tính theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, phù hợp với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.

Các quy chế cho vay và các thông tư hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định rõ về mức lãi suất cụ thể Tuy nhiên, các văn bản này không nêu rõ mức lãi suất áp dụng cho các trường hợp khác.

Theo Khoản 1 Điều 11 của Quy chế cho vay được ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, mức lãi suất cho vay sẽ được tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận, đảm bảo tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Theo Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Thống đốc NHNN Việt Nam, tổ chức tín dụng được phép cho vay bằng đồng Việt Nam với lãi suất thỏa thuận Mục tiêu của việc cho vay này là nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và cải thiện đời sống một cách hiệu quả.

Theo Điều 11 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, lãi suất quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất trong hạn đối với khoản vay trọng hạn.

Vấn đề đặt ra là liệu NHNN có quyền ban hành thông tư trái với Bộ luật Dân sự (BLDS) hay không, và Tòa án đã áp dụng quy định nào trong giải quyết tranh chấp liên quan đến lãi suất cho vay Có ý kiến cho rằng quy định về lãi suất của BLDS 2005 chỉ áp dụng cho hoạt động cho vay thông thường, trong khi TCTD không bị ràng buộc bởi mức lãi suất này Theo tác giả, khi có nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau về một vấn đề, cần xem xét nguyên tắc xác định giá trị pháp lý của các văn bản để quyết định quy định nào được áp dụng.

Phạt vi phạm hợp đồng tín dụng

Quy định của pháp luật hiện hành về phạt vi phạm trong hợp đồng tín dụng

Hiện nay, các điều khoản phạt vi phạm đối với hành vi chậm trả nợ được quy định rõ ràng trong hầu hết hợp đồng tín dụng (HĐTD) Hình thức phạt chậm trả rất đa dạng, cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) và khách hàng vay thỏa thuận phạt cả gốc lẫn lãi, bên cạnh lãi suất quá hạn Ví dụ, nếu bên B không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn và bên A phải yêu cầu Tòa án thu hồi nợ, bên B sẽ phải chịu thêm khoản phạt 5% trên số dư nợ gốc và lãi Trong một số trường hợp, các bên chỉ thỏa thuận phạt thêm lãi trên phần lãi chậm trả, với mức phạt cụ thể tùy thuộc vào thời gian chậm trả, như 2% cho thời gian chậm từ 1 đến 30 ngày và 5% cho thời gian chậm trên 30 ngày.

Lãi phạt chậm trả có thể được tính trên cả nợ gốc và lãi chậm trả, hoặc chỉ trên nợ lãi Các tổ chức tín dụng (TCTD) có thể áp dụng hình thức phạt một lần theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền lãi chậm trả, không phụ thuộc vào thời gian chậm trả Ngoài ra, có thể phạt lãi trên lãi theo mức lãi suất riêng và thời gian chậm trả, hoặc nhập lãi và phí vào nợ gốc khi đến hạn.

Vấn đề cần xem xét là tính hợp pháp của các thỏa thuận phạt giữa hai bên Cần xác định xem pháp luật có cho phép các bên thực hiện thỏa thuận phạt lần thứ hai hay áp dụng lãi chồng lãi hay không.

Tuy Luật Các TCTD 2010 không quy định về việc thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng, nhưng cả Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 đều cho phép điều này Do đó, có thể áp dụng quy định chung nếu luật chuyên ngành không có hướng dẫn cụ thể Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 13 Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, các bên trong hợp đồng tín dụng có thể thỏa thuận về phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi, tuy nhiên, quy định này không hướng dẫn rõ ràng về cách thức thỏa thuận tiền phạt chậm trả phù hợp với pháp luật.

Pháp luật cho phép thỏa thuận phạt đối với hành vi vi phạm hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng tín dụng Tuy nhiên, cần làm rõ rằng việc này không đồng nghĩa với việc pháp luật cho phép thỏa thuận phạt thêm lần nữa hoặc tính lãi chồng lãi.

Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến điều kiện cho vay cần dựa vào quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 và các văn bản dưới luật, đặc biệt là Quy chế cho vay theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001.

Tưởng Duy Lượng đã trình bày tại hội thảo về chế định hợp đồng trong dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan đến hợp đồng Bài viết có thể được tìm thấy tại trang web của VIAC, cung cấp thông tin chi tiết và ý kiến đóng góp của ông về vấn đề này Truy cập vào liên kết để tìm hiểu thêm về những nội dung quan trọng trong dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi.

Trong bài viết của Lương Khải Ân (2013), tác giả phân tích cách áp dụng đúng quy định pháp luật về lãi suất nhằm giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng tại Tòa án Bài báo được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24 kỳ II tháng 12/2013, trang 14-15, cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy trình pháp lý liên quan đến tranh chấp tín dụng và tầm quan trọng của việc tuân thủ quy định pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng.

Theo Khoản 1 Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005, phạt vi phạm được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, trong đó bên vi phạm nghĩa vụ sẽ phải trả một khoản tiền cho bên bị vi phạm.

Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định về phạt vi phạm hợp đồng, cho phép bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nếu có thỏa thuận trong hợp đồng, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo Điều 294 Tuy nhiên, sự thiếu quy định về khoản phạt vi phạm trong Luật Các TCTD 2010 đã dẫn đến nhiều quan điểm trái chiều trong ngành Tòa án Đối với phạt chậm thanh toán nợ gốc, có ý kiến cho rằng việc phạt này không hợp pháp vì vi phạm chỉ được phạt một lần với lãi quá hạn, do đó không thể phạt thêm trên nợ gốc Ngược lại, phạt chậm trả lãi có thể áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, cụ thể là Điều 422 cho phép thỏa thuận phạt chậm trả lãi Ngoài ra, Điều 305 cũng quy định về trách nhiệm dân sự trong trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ, yêu cầu bên chậm trả phải trả lãi theo lãi suất cơ bản Tuy nhiên, quy định này không rõ ràng về việc tính lãi trên lãi chậm trả, dẫn đến khả năng áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự 2005 cho phạt chậm trả lãi.

Theo quan điểm thứ hai, thỏa thuận phạt chậm trả lãi trong hợp đồng tín dụng có thể bị điều chỉnh bởi Điều 300 và Điều 301 Luật Thương mại 2005 khi vay vốn phục vụ mục đích kinh doanh, vì cả khách hàng vay và tổ chức tín dụng đều có mục đích sinh lợi Luật Thương mại cũng áp dụng cho trường hợp cho vay tiêu dùng nếu khách hàng chọn lựa Do đó, thỏa thuận phạt chậm trả lãi giữa các bên là hợp pháp nếu mức phạt không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng vi phạm.

Quan điểm thứ ba cho rằng thỏa thuận phạt chậm trả lãi là trái pháp luật do tính chất lãi chồng lãi Tuy nhiên, quan điểm này không chỉ ra rõ ràng thỏa thuận này vi phạm quy định pháp luật nào.

Điều khoản phạt chậm trả không được quy định trong Luật Các Tổ chức Tín dụng 2010, dẫn đến việc tính hợp pháp của điều khoản này cùng với căn cứ pháp luật liên quan đang bị đặt ra nhiều câu hỏi.

39 Lương Khải Ân (2013), tlđd (36), tr.14, 15

Vấn đề áp dụng điều khoản phạt do chậm trả lãi đang gây tranh cãi, đặc biệt là về việc Tòa án có chấp nhận thỏa thuận này hay không Cần xem xét căn cứ vào các quy định pháp luật để đưa ra quyết định xét xử phù hợp.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD liên quan đến thỏa thuận phạt vi phạm

Thực tiễn giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại liên quan đến hợp đồng tín dụng cho thấy việc áp dụng khoản tiền phạt do bên vay vi phạm thời hạn thanh toán nợ gốc và lãi suất thường gây tranh chấp giữa các bên Sự khác biệt trong quan điểm giải quyết của các Thẩm phán và Tòa án các cấp cũng là một yếu tố quan trọng cần được lưu ý.

Tranh chấp phát sinh từ giao dịch bảo đảm

Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng (HĐTD) và giao dịch bảo đảm luôn có mối liên hệ chặt chẽ, do đó việc giải quyết chúng cần được thực hiện đồng thời Những khó khăn trong giải quyết tranh chấp giao dịch bảo đảm có thể dẫn đến vướng mắc trong việc xử lý tranh chấp HĐTD Hiện nay, tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo đảm ngày càng phổ biến, đặc biệt là khi tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của bên thứ ba.

Quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp bảo lãnh và thế chấp trong hoạt động cho vay của TCTD

Hiện nay, nhiều hợp đồng tín dụng (HĐTD) được bảo đảm bằng biện pháp thế chấp tài sản thuộc sở hữu của bên thứ ba, không phải của bên vay Trong trường hợp này, hợp đồng bảo đảm có thể là hợp đồng bảo lãnh hoặc hợp đồng thế chấp Mối quan hệ giữa bên thứ ba cung cấp tài sản đảm bảo và tổ chức tín dụng (TCTD) trong quan hệ nghĩa vụ cần được làm rõ để xác định quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan.

Hầu hết các hợp đồng bảo đảm tiền vay tại các TCTD thường được thiết lập dưới hình thức hợp đồng thế chấp, bất kể tài sản đó thuộc sở hữu của bên vay hay bên thứ ba.

Trước đây, theo BLDS 1995 và các nghị định 178/1999/NĐ-CP, 165/1999/NĐ-CP, tài sản bảo đảm tiền vay không chỉ được quy định trong hợp đồng cầm cố, thế chấp mà còn có mặt trong hợp đồng bảo lãnh, được gọi là bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba.

Theo Điều 318 BLDS 2005, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp Pháp luật phân biệt rõ ràng giữa thế chấp và bảo lãnh Cụ thể, theo khoản 1 Điều 342, thế chấp là việc bên thế chấp sử dụng tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ dân sự mà không chuyển giao tài sản cho bên nhận thế chấp Trong khi đó, Điều 361 định nghĩa bảo lãnh là cam kết của bên bảo lãnh với bên có quyền, trong đó bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hạn.

BLDS 2005 đã bỏ quy định bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba của BLDS

Luật Đất đai 2013 đã loại bỏ quy định về bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất (QSDĐ) của bên thứ ba, chỉ cho phép người sử dụng đất được quyền thế chấp QSDĐ Điều này đã gây khó khăn trong việc xác định hợp đồng bảo đảm giữa các bên, đặc biệt khi tài sản bảo đảm là QSDĐ hoặc tài sản gắn liền trên đất của người thứ ba Luật Nhà ở 2014 cũng chỉ đề cập đến việc thế chấp nhà ở mà không có quy định về bảo lãnh Nghị định 163/2006/NĐ-CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP đã quy định rằng bảo lãnh bằng QSDĐ và quyền sở hữu rừng sản xuất sẽ được chuyển thành thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ của người khác.

Theo quy định của BLDS 2005, bên thế chấp có quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo nghĩa vụ dân sự, nhưng không xác định rõ nghĩa vụ nào được bảo đảm, cũng như không phân biệt giữa việc thế chấp tài sản để đảm bảo nghĩa vụ của chính mình hay của bên thứ ba Điều này đặt ra câu hỏi về tính hợp pháp của giao dịch bảo đảm tiền vay tại các TCTD khi tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của bên thứ ba, và liệu nghĩa vụ được bảo đảm ở đây là nghĩa vụ trả nợ của bên vay hay nghĩa vụ của bên bảo đảm.

Có quan điểm cho rằng hợp đồng bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba không phải là hợp đồng thế chấp mà là hợp đồng bảo lãnh, do Bộ luật Dân sự 2005 không yêu cầu bên bảo lãnh phải chỉ định tài sản cụ thể Khi bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ, bên bảo lãnh cần sử dụng tài sản của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh, do đó, bảo lãnh cũng có thể được xem như một biện pháp bảo đảm bằng tài sản Sự khác biệt giữa bảo lãnh và thế chấp là bên bảo lãnh không cần chỉ rõ tài sản bảo đảm Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng theo quy định của BLDS 2005, bảo lãnh chỉ được coi là biện pháp bảo đảm đối nhân, tức là dựa vào uy tín của bên bảo lãnh để đảm bảo nghĩa vụ.

49 Khoản 22 Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 72 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ

Công văn số 1573/NHNN-PC ngày 19/03/2012 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nêu rõ rằng dịch vụ bảo lãnh không yêu cầu tài sản phải được đưa vào để đảm bảo nghĩa vụ dân sự Bản thân hình thức bảo lãnh đã được công nhận là một trong bảy biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.

Sự đa dạng trong cách hiểu của các cơ quan tiến hành tố tụng và chuyên gia pháp lý về bảo lãnh và thế chấp đã gây ra tình trạng xét xử không đồng nhất trong các tranh chấp tại Tòa án.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐTD có liên quan đến hợp đồng bảo lãnh, thế chấp

Tranh chấp liên quan đến giao dịch bảo đảm với tài sản của bên thứ ba, như hợp đồng bảo lãnh và thế chấp, thường xảy ra khi tổ chức tín dụng (TCTD) yêu cầu Tòa án xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ Tuy nhiên, bên bảo đảm có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu do vi phạm quyền lợi của họ, hoặc không tuân thủ quy định pháp luật về nội dung và hình thức của hợp đồng.

Trong thực tiễn xét xử, một số vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng đã dẫn đến việc Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp giữa bên thứ ba và tổ chức tín dụng (TCTD), nhằm bảo đảm nghĩa vụ thanh toán cho người vay tiền Hội đồng xét xử nhận định rằng hình thức hợp đồng không đúng, bản chất thực sự là hợp đồng bảo lãnh chứ không phải hợp đồng thế chấp Phán quyết này đã gây hoang mang cho nhiều TCTD, khi mà hơn 80% hợp đồng bảo đảm tại các TCTD được ký dưới hình thức này Nếu hợp đồng thế chấp bị tuyên vô hiệu, các khoản vay có tài sản bảo đảm có thể trở nên không có giá trị bảo đảm.

Trong vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam và bà Phạm Thị Kim Loan, Tòa án đã bác yêu cầu tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu của bên bảo đảm Ngân hàng yêu cầu phát mãi tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số 220/69H và số 220/69K Hoàng Hoa Thám, quận Bình Thạnh, TPHCM do bà Nhim Thị Bến và ông Nhim Văn Lài sở hữu Tuy nhiên, bà Bến và ông Lài không đồng ý cho phát mãi tài sản vì cho rằng họ chỉ ký hợp đồng thế chấp, không phải hợp đồng bảo lãnh, và hợp đồng này không tuân thủ quy định pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã xác định rằng yêu cầu phát mãi tài sản bảo đảm của Ngân hàng hoàn toàn phù hợp với các thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp tài sản đã được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm hợp lệ, đồng thời tuân thủ các quy định pháp luật tại Điều 351, 355, 369 Bộ luật Dân sự năm 2005 và các Điều 23, 43.

53 Bản án 891/2009/KDTM-ST ngày 17/4/2009 của TAND thành phố Hồ Chí Minh

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định rằng các giao dịch bảo đảm cần có căn cứ hợp pháp để được công nhận Hội đồng xét xử đã không chấp nhận yêu cầu tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu, khẳng định rằng dù hợp đồng chỉ được gọi là “hợp đồng thế chấp”, nhưng nội dung đã rõ ràng thể hiện đây là hợp đồng bảo lãnh kèm theo thế chấp tài sản Hợp đồng đã quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bà Bến và ông Lài trong vai trò bên thế chấp tài sản để bảo lãnh cho bên vay tiền, và tên hợp đồng cũng được xác định là “Hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba”.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
16. Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất“Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những quy định chung
1. Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật ngân hàng, Nhà xuất bản Hồng Đức Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật ngân hàng
Tác giả: Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nhà xuất bản Hồng Đức
Năm: 2013
2. Nguyễn Anh (2013), Giải pháp pháp lý để hạn chế và khắc phục những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải pháp pháp lý để hạn chế và khắc phục những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
Tác giả: Nguyễn Anh
Năm: 2013
3. Phạm Lê Ninh (2010), Tranh chấp về lãi suất cho vay trong HĐTD - Thực trạng và giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học, Trường đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tranh chấp về lãi suất cho vay trong HĐTD - Thực trạng và giải pháp
Tác giả: Phạm Lê Ninh
Năm: 2010
4. Đào Thị Huyền Trang (2014), Những tranh chấp có thể phát sinh từ hợp đồng tín dụng và hướng khắc phục, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học, Trường đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những tranh chấp có thể phát sinh từ hợp đồng tín dụng và hướng khắc phục
Tác giả: Đào Thị Huyền Trang
Năm: 2014
5. Lương Khả Ân (2013), “Vận dụng đúng quy định của pháp luật về lãi suất, giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng tại Tòa án”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23 Kỳ I tháng 12-2013, tr.22-26 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vận dụng đúng quy định của pháp luật về lãi suất, giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng tại Tòa án”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Lương Khả Ân
Năm: 2013
6. Lương Khải Ân (2013), “Vận dụng đúng quy định của pháp luật về lãi suất, giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng tại Tòa án”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24 kỳ II tháng 12/2013, tr.14, 15 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vận dụng đúng quy định của pháp luật về lãi suất, giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng tại Tòa án”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Lương Khải Ân
Năm: 2013
7. Đoàn Đức Lương (2013), “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng vay tiền”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20 Kỳ I tháng 10-2013, tr.22-24 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vướng mắc trong áp dụng pháp luật về lãi suất trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng vay tiền”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Đoàn Đức Lương
Năm: 2013
8. Tưởng Duy Lượng (2013), “Có được thỏa thuận phạt nhiều lần về một vi phạm, được thỏa thuận lãi chồng lãi trong hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tín dụng không?” (Kỳ I), Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24 Kỳ II tháng 12-2013, tr. 27-33 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Có được thỏa thuận phạt nhiều lần về một vi phạm, được thỏa thuận lãi chồng lãi trong hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tín dụng không?” (Kỳ I), "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Tưởng Duy Lượng
Năm: 2013
9. Tưởng Duy Lượng (2014), “Có được thỏa thuận phạt nhiều lần về một vi phạm, được thỏa thuận lãi chồng lãi trong hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tín dụng không?” (Kỳ II), Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1 Kỳ I tháng 01-2014, tr. 24-33 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Có được thỏa thuận phạt nhiều lần về một vi phạm, được thỏa thuận lãi chồng lãi trong hợp đồng vay tài sản, hợp đồng tín dụng không?” (Kỳ II), "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Tưởng Duy Lượng
Năm: 2014
10. Đỗ Văn Đại (2014), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản án, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản án
Tác giả: Đỗ Văn Đại
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Năm: 2014
11. Đoàn Thái Sơn (2014), “Lãi quá hạn và phạt vi phạm trong quan hệ tín dụng ngân hàng”, Tạp chí ngân hàng, số 11 tháng 6/2014, tr.46-48 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lãi quá hạn và phạt vi phạm trong quan hệ tín dụng ngân hàng”, "Tạp chí ngân hàng
Tác giả: Đoàn Thái Sơn
Năm: 2014
12. Nguyễn Thanh Tùng, “Vướng mắc trong việc giải quyết yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền lãi chậm thanh toán trong họp đồng dân sự và thương mại ở Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21 Kỳ I tháng 11-2013, tr.18-21.Tài liệu từ internet Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vướng mắc trong việc giải quyết yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền lãi chậm thanh toán trong họp đồng dân sự và thương mại ở Việt Nam”, "Tạp chí Tòa án nhân dân," số 21 Kỳ I tháng 11-2013, tr.18-21
1. Thành Trung , “Xưa dễ dãi cho vay, nay khó khăn đòi nợ”, http://dantri.com.vn/kinh-doanh/xua-de-dai-cho-vay-nay-kho-khan-doi-no-1385569663.htm, truy cập ngày 02/6/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xưa dễ dãi cho vay, nay khó khăn đòi nợ
2. Tưởng Duy Lượng, “Hội thảo chế định hợp đồng trong dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)”,http://viac.vn/thu-vien/gop-y-cua-ong-tuong-duy-luong-trong-tai-vien-viac-lien-quan-den-du-thao-bo-luat-dan-su-sua-doi-a324.html, truy cập ngày 09/07/2016 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hội thảo chế định hợp đồng trong dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
1. Bộ luật Dân sự (Bộ luật số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005 2. Bộ luật Dân sự (Bộ luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015 Khác
7. Luật Giao dịch điện tử (Luật số 51/2005/QH11) ngày 29/11/2005 8. Luật Các tổ chức tín dụng (Luật số 47/2010/QH12) ngày 16/06/2010 9. Luật Doanh nghiệp số (Luật 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014 Khác
11. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật số 80/2015/QH13) ngày 22/6/2015 Khác
12. Luật Đất đai (Luật số 45/2013/QH13) ngày 29/11/2013 13. Luật Nhà ở (Luật số 65/2014/QH13) ngày 25/11/2014 Khác
15. Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w