1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ từ tòa án

42 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thực Tiễn Giải Quyết Các Tranh Chấp Phát Sinh Từ Hợp Đồng Bảo Hiểm Cháy, Nổ Từ Tòa Án
Tác giả Võ Thị Thu Thảo
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Thủy
Trường học Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2017
Thành phố TP Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 42
Dung lượng 634,29 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TRANH CHẤP VỀ ĐỐI TƯỢNG BẢO HIỂM, MỨC BỒI THƯỜNG VÀ THỜI GIAN BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM (10)
    • 1.1. Quy định pháp luật về đối tƣợng hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ (10)
    • 1.2. Thực trạng tranh chấp về đối tượng, mức bồi thường thiệt hại của hợp đồng bảo hiểm (11)
    • 1.3. Kiến nghị (21)
  • CHƯƠNG 2: TRANH CHẤP VỀ THỜI HẠN ĐÓNG PHÍ, THỜI ĐIỂM PHÁT SINH HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM (24)
    • 2.1. Thời hạn đóng phí trong hợp đồng bảo hiểm (24)
    • 2.2. Quy định pháp luật về nghĩa vụ đóng phí, thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng (24)
    • 2.3. Thực trạng tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ đóng phí và hiệu lực của hợp đồng (26)
    • 2.4. Vướng mắc, kiến nghị (34)
  • PHỤ LỤC (42)

Nội dung

Bên cạnh đó, việc giải quyết tốt các tranh chấp về bảo hiểm sẽ góp phần tiết kiệm ngân sách Nhà nước về chi tiêu cho hoạt động xét xử, hạn chế đến mức thấp nhất các mâu thuẫn, bất đồng c

TRANH CHẤP VỀ ĐỐI TƯỢNG BẢO HIỂM, MỨC BỒI THƯỜNG VÀ THỜI GIAN BỒI THƯỜNG BẢO HIỂM

Quy định pháp luật về đối tƣợng hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ

Hợp đồng bảo hiểm là thỏa thuận giữa bên mua và doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó bên mua phải đóng phí và doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Để hợp đồng có hiệu lực, cần đảm bảo cả về hình thức lẫn nội dung, trong đó "đối tượng" là yếu tố không thể thiếu Đối với bảo hiểm cháy nổ, đối tượng bảo hiểm bao gồm tài sản như nhà, công trình kiến trúc, máy móc thiết bị và hàng hóa Việc xác định tài sản tham gia bảo hiểm cần tuân thủ quy định pháp luật, nhưng quyết định cuối cùng thuộc về doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua Theo quy định, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm cháy nổ bắt buộc là các cơ sở có nguy cơ cháy nổ.

Cơ sở là thuật ngữ tổng quát dùng để chỉ các loại hình như nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, trụ sở làm việc, bệnh viện, trường học, rạp hát, khách sạn, chợ, trung tâm thương mại, doanh trại lực lượng vũ trang và nhiều công trình khác.

Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm cháy nổ thông thường bao gồm tất cả tài sản mà bên mua bảo hiểm mong muốn được bảo vệ, và doanh nghiệp bảo hiểm có thể xem xét để chấp nhận bảo hiểm Các tài sản này bao gồm nhà cửa và công trình xây dựng.

3 Khoản 1 Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

4 Điều 40 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

5 Điều 3 Thông tư 220/2010/TT–BTC ngày 30/12/2010 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc

6 Khoản 3 Điều 3 Luật Phòng cháy chữa cháy 2001 kiến trúc và các trang thiết bị kèm theo; máy móc thiết bị; các loại hàng hóa, vật tư, tài sản khác 7

Hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ chủ yếu liên quan đến tài sản của bên mua bảo hiểm, nhưng không phải tất cả tài sản đều được doanh nghiệp bảo hiểm xem xét bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Điều này có thể dẫn đến tranh chấp, đặc biệt trong các vụ cháy, nổ tại nhà máy, xí nghiệp, chợ và trung tâm thương mại Nguyên nhân chính của tranh chấp là sự không thống nhất giữa các bên về đối tượng bảo hiểm, gây khó khăn trong quá trình bồi thường.

Thực trạng tranh chấp về đối tượng, mức bồi thường thiệt hại của hợp đồng bảo hiểm

Trong những năm gần đây, Việt Nam chứng kiến sự gia tăng đáng kể các vụ cháy nổ Theo báo cáo của Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ, năm 2015 ghi nhận gần 2.800 vụ cháy, khiến 62 người thiệt mạng và 264 người bị thương, với thiệt hại tài sản lên đến 1.498 tỷ đồng Năm 2016, số vụ cháy tăng lên 3.006, bao gồm 1.229 vụ tại cơ sở, 1.290 vụ tại nhà dân, 169 vụ liên quan đến phương tiện giao thông và 318 vụ cháy rừng, gây ra cái chết cho 98 người và làm 180 người bị thương, thiệt hại tài sản ước tính trên 1.240 tỷ đồng cùng 1.800 ha rừng bị thiêu rụi Gần đây, vụ cháy tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn KwongLung - MeKo ở Khu Công nghiệp Trà Nóc, Cần Thơ đã gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng, phản ánh tình hình cháy nổ nghiêm trọng trên toàn quốc.

7 Điều 3 Thông tư 220/2010/TT–BTC ngày 30/12/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc

8 Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy (2016), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2015 và triển khai công tác năm 2016, Hà Nội

Theo báo cáo của Bộ Công an (2016), tình hình cháy nổ ngày càng gia tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản Điều này dẫn đến việc Tòa án tiếp nhận nhiều vụ việc tranh chấp liên quan đến bảo hiểm tài sản, đặc biệt là bảo hiểm cháy nổ, giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm Số lượng vụ việc ngày càng nhiều và phức tạp, trong đó nhiều tranh chấp xuất phát từ việc bên mua bảo hiểm khởi kiện Nguyên nhân chủ yếu của những tranh chấp này là do doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận bồi thường cho các đối tượng mà bên mua bảo hiểm yêu cầu trong đơn bảo hiểm.

Trong những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một thụ lý giải quyết “tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” đối với các vụ án sau:

Vụ án giữa Công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ môi trường Bình Phước và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) bắt đầu từ hợp đồng bảo hiểm số 13/BDU/BPH/3120/00013 ký ngày 18/3/2013, trong đó PJICO đồng ý bảo hiểm toàn bộ tài sản của bên mua bảo hiểm với phí 33.256.636 đồng và giá trị bảo hiểm 7.200.000.000 đồng Tuy nhiên, vào ngày 11/10/2013, một vụ cháy nổ đã xảy ra, gây thiệt hại cho hệ thống lò đốt rác sinh hoạt Sau khi gửi hồ sơ yêu cầu bồi thường, bên mua bảo hiểm đã nhận được thông báo từ chối bồi thường từ PJICO vào ngày 21/01/2014, với lý do cho rằng sự cố xảy ra do hao mòn tự nhiên của thiết bị, không thuộc phạm vi bảo hiểm.

Tòa án đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bên mua bảo hiểm, yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thanh toán số tiền bồi thường lên tới 5.750.283.000 đồng.

Qua kết quả giải quyết vụ việc tranh chấp tác giả nhận thấy:

Xét về quan hệ pháp luật: Đây là tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến cháy, nổ

Tranh chấp giữa Công ty cổ phần đầu tư và phát triển công nghệ môi trường Bình Phước và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) liên quan đến đối tượng của hợp đồng bảo hiểm đã ký kết Doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường, cho rằng lò đốt rác không nằm trong phạm vi bảo hiểm và nguyên nhân hao mòn không thuộc trường hợp được bồi thường.

Việc đánh giá chứng cứ trong vụ tranh chấp bảo hiểm này không phức tạp, với chứng cứ rõ ràng về đối tượng bảo hiểm là lò đốt rác được ghi nhận trong hợp đồng Giá trị bảo hiểm lúc tham gia là hơn 7 tỷ đồng, nhưng bên mua bảo hiểm chỉ yêu cầu bồi thường hơn 5 tỷ đồng, cho thấy yêu cầu này hợp lý Khi giải quyết tranh chấp, người tiến hành tố tụng cần chú ý đến giá trị tài sản tại thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm để đưa ra quyết định phù hợp Nếu bên mua yêu cầu 7 tỷ đồng, việc chấp nhận hay không cần được xem xét kỹ lưỡng Doanh nghiệp bảo hiểm cũng cần thẩm định giá trị thực tế của đối tượng trước khi ký hợp đồng, tránh rủi ro liên quan đến hành vi trục lợi bảo hiểm.

Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp bảo hiểm là cần thiết và phù hợp, với người tiến hành tố tụng đã sử dụng đúng quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, cụ thể là Điều 14 và Điều 15 để xác định hình thức và thời điểm hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm Tại cấp sơ thẩm, các lập luận về Khoản 1 Điều 13 và Khoản 2 Điều 16 đã bác bỏ quan điểm của doanh nghiệp bảo hiểm về việc loại trừ trách nhiệm bảo hiểm Qua việc đánh giá khách quan và khoa học các mâu thuẫn giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, tranh chấp đã được giải quyết một cách đúng đắn, tạo sự đồng tình cao Điều này cũng là bài học cho các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm hiểu rõ hơn về bản chất của quan hệ hợp đồng Đối với người tiến hành tố tụng, việc áp dụng pháp luật và đánh giá chứng cứ phù hợp không chỉ nâng cao chất lượng xét xử mà còn đáp ứng nhiệm vụ của ngành Tòa án, đồng thời có thể xem xét sử dụng bản án làm án lệ cho các tranh chấp hợp đồng bảo hiểm liên quan đến bảo hiểm cháy, nổ.

Vào năm 2016, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một đã tiếp nhận và giải quyết vụ “tranh chấp hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ” giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh.

Nội dung vụ án: Ngày 22/12/2014, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn và công ty Bảo Minh chi nhánh Bình Dương ký hợp đồng bảo hiểm số PFA

Hợp đồng bảo hiểm cháy nổ bắt buộc của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn Ninh Sơn bao gồm 04 nhà kho với tổng diện tích 2.420,8m² và số tiền bảo hiểm là 3.300.000.000 đồng, có hiệu lực từ ngày 22/12/2014 đến 22/12/2015 Vào ngày 03/3/2015, xảy ra sự cố cháy tại kho A và B, và nguyên nhân được xác định là do chập điện tại kho B Công ty đã thông báo về tổn thất cho Bảo Minh qua công văn ngày 04/3/2015 Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm đã từ chối bồi thường với lý do chưa được nêu rõ.

Hợp đồng bảo hiểm giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn và Bảo Minh thuộc loại bảo hiểm tài sản theo quy định tại Thông tư số 220/210/TT của Bộ Tài chính Theo Điều 6 của Thông tư này, số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên giá trị còn lại hoặc giá trị thay thế mới của tài sản tại thời điểm tham gia bảo hiểm Biên bản giám định ngày 03/12/2015 xác định giá trị còn lại của kho A và B là 210.610.400 đồng Công ty Ninh Sơn có trách nhiệm thông báo kế hoạch khắc phục trong vòng 06 tháng kể từ ngày xảy ra sự cố và phải hoàn tất việc phục hồi trong 12 tháng, từ 03/3/2015 đến 03/3/2016 Tuy nhiên, theo công văn số 286/TB-NS-BM ngày 28/6/2016, công ty thông báo kế hoạch khởi công xây dựng lại các kho từ 01/7/2016, đã vượt quá thời gian quy định Ngoài ra, công ty chỉ đề cập đến tổn thất tại kho A và B mà không nhắc đến kho C và C2 Kết luận điều tra của cảnh sát phòng cháy chữa cháy tỉnh cũng cần được xem xét.

Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chấp nhận bồi thường cho kho A và B, không bao gồm kho C và C2, với số tiền 210.610.400 đồng dựa trên giá trị còn lại của hai kho này Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn không được chấp nhận yêu cầu khởi kiện liên quan đến kho C và C2.

Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn, buộc Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh phải bồi thường số tiền 1.962.162.163 đồng cho thiệt hại do cháy kho A và B.

Tòa án đã bác bỏ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Ninh Sơn đối với Công ty Cổ phần Bảo Minh liên quan đến kho C và C2, với số tiền tranh chấp là 1.337.837.837 đồng.

Vụ án đã được kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, và sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo từ các bên liên quan, Tòa án phúc thẩm đã quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Trong quan hệ tranh chấp giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Ninh Sơn và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh, việc ký hợp đồng bảo hiểm thiếu sự xác định cụ thể về diện tích và giá trị bảo hiểm của từng kho đã dẫn đến khó khăn trong việc xác định mức độ thiệt hại khi sự kiện bảo hiểm xảy ra Điều này gây cản trở cho việc đưa ra mức bồi thường hợp lý.

Kiến nghị

Cần tăng cường công tác tuyên truyền và nhắc nhở người dân về việc tuân thủ quy định an toàn phòng cháy chữa cháy, đặc biệt tại các nhà máy và cơ sở có nguy cơ cháy nổ cao Đồng thời, tổ chức diễn tập và tuần tra thường xuyên để phát hiện và dập tắt đám cháy ngay từ khi mới phát sinh.

Luật Kinh doanh bảo hiểm, ra đời hơn 10 năm, đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là trong quy định về đối tượng tham gia hợp đồng bảo hiểm Cần sửa đổi luật để hoàn thiện quy trình đánh giá và chấp nhận đối tượng bảo hiểm Đối với bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, cần có văn bản cụ thể liệt kê đối tượng bảo hiểm để giảm tranh chấp giữa bên mua và doanh nghiệp bảo hiểm Trong bảo hiểm tự nguyện, các bên cần ghi rõ đối tượng tham gia trong hợp đồng để tránh tình trạng lạm dụng bảo hiểm khi bên mua gặp khó khăn tài chính Việc không ghi nhận rõ ràng có thể dẫn đến việc bên mua tạo ra sự kiện bảo hiểm nhằm trục lợi.

Thông tư liên tịch số 214/2013/TTLT-BTC-BCA ngày 31/12/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 130/2006/NĐ-CP và Nghị định số 46/2012/NĐ-CP về chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc Việc không đánh giá đầy đủ đối tượng và giá trị tài sản tham gia bảo hiểm có thể dẫn đến tình trạng trục lợi bảo hiểm từ phía bên mua Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm cần đặc biệt chú ý đến những thay đổi về số lượng và chất lượng của đối tượng bảo hiểm, ghi nhận cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho mình.

Cần xác định rõ đối tượng đăng ký khi ký kết hợp đồng bảo hiểm Nếu không ghi rõ, nguyên tắc có lợi cho bên mua bảo hiểm sẽ được áp dụng, buộc doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường toàn bộ cho bên mua.

Cần quy định rõ ràng về việc giám định và thẩm định tài sản để đánh giá giá trị đối tượng tham gia bảo hiểm, nhằm đảm bảo tính minh bạch trong hợp đồng Doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường nếu không thực hiện đánh giá cho những đối tượng đã được quy định Việc thực hiện nguyên tắc này sẽ giúp hạn chế tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, khẳng định vai trò của doanh nghiệp trong việc mua rủi ro cho khách hàng Đối với người tiến hành tố tụng, cần đánh giá khách quan và toàn diện các chứng cứ liên quan đến vụ việc bảo hiểm, đồng thời áp dụng đúng quy định pháp luật chuyên ngành, đặc biệt là Luật Kinh doanh bảo hiểm, để giải quyết vụ việc một cách hợp lý.

Tranh chấp về đối tượng trong hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ là một vấn đề phức tạp, chủ yếu xuất phát từ sự mâu thuẫn trong cách nhìn nhận và đánh giá chứng cứ liên quan đến đối tượng bảo hiểm Để giảm thiểu tranh chấp và hạn chế số lượng vụ án tại Tòa án, các bên tham gia ký kết hợp đồng cần đảm bảo sự rõ ràng và thống nhất trong việc xác lập các điều khoản liên quan đến đối tượng bảo hiểm.

Điều 21 của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 nhấn mạnh nguyên tắc minh bạch, công khai và cụ thể trong quy trình thẩm định bảo hiểm Cần thực hiện thẩm định về số lượng và mô tả chi tiết đặc điểm cũng như giá trị tài sản được bảo hiểm Trong trường hợp tranh chấp, cần chú ý đến thời điểm xác lập hợp đồng và các quy định pháp luật liên quan để đảm bảo giải quyết đúng đắn Điều này hỗ trợ nhiệm vụ của ngành Tòa án trong việc bảo vệ công lý và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân, đồng thời tránh tình trạng lợi ích nhóm hay cá nhân ảnh hưởng đến quyết định Mục tiêu là từng bước hoàn thiện hệ thống tòa án, hướng tới việc công khai bản án trên các phương tiện thông tin đại chúng trong tương lai gần.

TRANH CHẤP VỀ THỜI HẠN ĐÓNG PHÍ, THỜI ĐIỂM PHÁT SINH HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Thời hạn đóng phí trong hợp đồng bảo hiểm

Thời hạn đóng phí trong hợp đồng bảo hiểm là khoảng thời gian mà doanh nghiệp bảo hiểm ấn định để bên mua thực hiện nghĩa vụ của mình Nếu bên mua không đóng phí đúng hạn và không có thỏa thuận khác, hợp đồng sẽ không có hiệu lực Các bên có thể thỏa thuận về phương thức đóng phí, và điều này cần được quy định rõ trong hợp đồng để xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên Tuy nhiên, việc quy định thời gian và phương thức đóng phí chưa được cụ thể hóa trong luật, dẫn đến hiểu nhầm và tranh chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Đây là nguyên nhân chính gây khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo hiểm tại Tòa án.

Quy định pháp luật về nghĩa vụ đóng phí, thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng

Thời hạn trong hợp đồng bảo hiểm là khoảng thời gian mà doanh nghiệp bảo hiểm quy định để bên mua thực hiện nghĩa vụ đóng phí Nếu bên mua không đóng phí đúng hạn và không có thỏa thuận khác, hợp đồng sẽ không có hiệu lực Các bên có thể thỏa thuận về phương thức đóng phí trong thời gian này, và điều khoản này cần được ghi rõ trong hợp đồng để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên Tuy nhiên, quy định về thời gian và phương thức đóng phí hiện chưa được cụ thể hóa trong luật, dẫn đến nhiều tranh chấp khi sự kiện bảo hiểm xảy ra Sự không rõ ràng này thường khiến doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua hiểu sai về hiệu lực hợp đồng và trách nhiệm bảo hiểm, gây khó khăn cho Tòa án khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến thời gian đóng phí bảo hiểm.

2.2 Quy định pháp luật về nghĩa vụ đóng phí, thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng

Thời gian đóng phí bảo hiểm là một điều khoản quan trọng cần ghi rõ trong hợp đồng bảo hiểm Phí bảo hiểm chính là số tiền mà bên mua phải trả cho bên bán để nhận được sản phẩm bảo hiểm phù hợp Nói cách khác, đây là nghĩa vụ tài chính mà bên mua bảo hiểm phải thực hiện đối với doanh nghiệp bảo hiểm trong một khoảng thời gian nhất định.

Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định thời gian cụ thể mà bên mua bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ đóng phí Tuy nhiên, luật lại xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm Trong hợp đồng bảo hiểm, phí bảo hiểm là một yếu tố thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của hợp đồng Cần lưu ý rằng thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm khác với thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường.

Sự khác nhau giữa hai thời điểm của hợp đồng bảo hiểm thường liên quan đến thời gian đóng phí bảo hiểm Tranh chấp xảy ra khi doanh nghiệp bảo hiểm từ chối yêu cầu bồi thường, lý do thường là bên mua bảo hiểm đã thực hiện nghĩa vụ đóng phí nhưng xảy ra sự kiện bảo hiểm ngay sau đó Trong một số trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm cấp giấy chứng nhận hoặc đơn bảo hiểm cho bên mua khi họ chưa hoàn thành nghĩa vụ đóng phí, nhưng thời gian thỏa thuận vẫn còn hiệu lực Doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng bên mua chưa thực hiện nghĩa vụ, trong khi bên mua lại cho rằng việc cấp chứng nhận đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã chấp nhận khoản nợ phí bảo hiểm, và do đó, doanh nghiệp vẫn phải bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

Theo quy định pháp luật, trách nhiệm bảo hiểm phát sinh trong các trường hợp sau: Hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết và bên mua bảo hiểm đã thanh toán đầy đủ phí; Hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết với thỏa thuận cho phép bên mua bảo hiểm nợ phí; Có chứng cứ xác nhận hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết và bên mua bảo hiểm đã thanh toán đầy đủ phí, nhưng thực tế hợp đồng bảo hiểm vẫn phát sinh hiệu lực.

13 Khoản 11 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

Theo Khoản 3 Điều 15 sửa đổi bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực pháp lý từ thời điểm giao kết hoặc theo thỏa thuận của các bên, trong khi trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm phát sinh theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm Để xác định trách nhiệm bảo hiểm, cần có hai điều kiện: đã giao kết hợp đồng và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí Thỏa thuận giữa hai bên và các điều khoản trong Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng cần được xem xét Quan hệ tranh chấp trong lĩnh vực này rất phức tạp, dẫn đến sự đánh giá chứng cứ khác nhau giữa các cấp Tòa án và gia tăng tỷ lệ án hủy, sửa giữa các cấp xét xử Do đó, khi giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ, cần áp dụng quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm để đảm bảo tính chính xác và công bằng.

Thực trạng tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ đóng phí và hiệu lực của hợp đồng

Trong những năm gần đây, số vụ việc tranh chấp bị Tòa án cấp trên hủy, sửa ngày càng gia tăng, đặc biệt liên quan đến thời hạn đóng phí trong hợp đồng bảo hiểm Từ thực trạng này, tác giả đề xuất phân tích một số bản án đã được giải quyết nhưng có sự khác biệt trong cách xử lý, nhằm cung cấp kinh nghiệm cho những người tham gia tố tụng và ký kết hợp đồng bảo hiểm Điều này giúp họ có cái nhìn toàn diện hơn về hợp đồng bảo hiểm.

Vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa Công ty TNHH Tuấn Lộc và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa thụ lý và giải quyết vào năm 2013.

Vào ngày 18/9/2008, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tuấn Lộc đã ký hợp đồng bảo hiểm số 09080339 với Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam, bảo hiểm cho nhà, công trình kiến trúc, máy móc thiết bị và hàng hóa tại Đồng Nai với mức phí 60.000.000 đồng và số tiền bảo hiểm lên đến 40.000.000.000 đồng Thời gian bảo hiểm kéo dài từ 18/9/2008 đến 18/9/2009, với yêu cầu thanh toán phí trong vòng 15 ngày kể từ thông báo thu phí Ngày 20/10/2008, Công ty Tuấn Lộc đã nhận hóa đơn và thực hiện ủy nhiệm chi thanh toán, tuy nhiên vào lúc 16 giờ 18 phút cùng ngày, một vụ cháy đã xảy ra tại công ty, gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản và thiết bị.

Bên mua bảo hiểm đã yêu cầu bồi thường nhưng vào ngày 08/02/2010, doanh nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường với lý do vi phạm thời gian đóng phí Vì vậy, bên mua bảo hiểm đã quyết định khởi kiện để giải quyết tranh chấp.

Nhận định và kết quả giải quyết của 02 cấp Tòa án:

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định rằng bên mua bảo hiểm đã hoàn tất việc thanh toán phí bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm trước khi xảy ra vụ cháy Khi phí bảo hiểm được đóng đầy đủ, hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực và doanh nghiệp bảo hiểm bắt đầu phát sinh trách nhiệm bồi thường Do đó, điều kiện về trách nhiệm bồi thường bảo hiểm đã được thỏa mãn theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm Tòa án đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bên mua bảo hiểm, Công ty Trách nhiệm hữu hạn.

Theo Khoản 1 Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi bổ sung năm 2011, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tuấn Lộc đã yêu cầu Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam thanh toán số tiền 4.077.368.822 đồng Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm không đồng ý với quyết định giải quyết của tòa án cấp sơ thẩm và đã tiến hành kháng cáo.

Tòa án cấp phúc thẩm đã nhận định rằng bên mua bảo hiểm không nộp phí bảo hiểm trong thời hạn quy định và không có văn bản đồng ý nộp phí hoặc thỏa thuận gia hạn thời gian đóng phí Do đó, Tòa án đã chấp nhận kháng cáo của doanh nghiệp bảo hiểm, sửa bản án sơ thẩm và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bên mua bảo hiểm về tranh chấp Hợp đồng bảo hiểm.

Qua vụ việc trên, tác giả nhận thấy:

Vụ tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ xoay quanh nghĩa vụ đóng phí và thời gian đóng phí để xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm Tòa án cấp sơ thẩm nhận định rằng mặc dù bên mua bảo hiểm đã quá hạn nộp phí, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chấp nhận phí và không có văn bản hủy bỏ hợp đồng, đồng thời đã xuất hóa đơn cho bên mua Tòa án cho rằng việc doanh nghiệp bảo hiểm nhận phí chậm là một thỏa thuận ngầm giữa hai bên, mặc dù không có văn bản chính thức Tuy nhiên, lập luận này thiếu căn cứ pháp lý và trái với quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm Hơn nữa, Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét đúng thời điểm chuyển tiền vào tài khoản của doanh nghiệp bảo hiểm, dẫn đến việc xác định thời gian nộp phí không chính xác.

Cấp phúc thẩm khẳng định rằng hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản và mọi sửa đổi, bổ sung cũng cần phải được thực hiện bằng văn bản Dù doanh nghiệp bảo hiểm đã đồng ý với việc chậm thanh toán phí từ bên mua bảo hiểm và muốn tiếp tục hợp đồng, thỏa thuận này vẫn phải được ghi lại bằng văn bản Trong trường hợp không có văn bản nào khác bổ sung cho hợp đồng đã ký, hợp đồng bảo hiểm sẽ tự động chấm dứt Do đó, cấp phúc thẩm đã sửa án sơ thẩm và không chấp nhận kết quả giải quyết của cấp sơ thẩm.

Kết quả giải quyết của hai cấp xét xử trong cùng một vụ việc hoàn toàn khác nhau, với mỗi cấp có nhận định riêng Mấu chốt của vấn đề nằm ở thời hạn nộp phí và thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường của hợp đồng bảo hiểm Cấp sơ thẩm đã không đánh giá đầy đủ các chứng cứ khi cho rằng bên mua bảo hiểm đã thanh toán trước khi vụ cháy xảy ra, trong khi thực tế số tiền phí chỉ được chuyển vào tài khoản của doanh nghiệp sau vụ việc một ngày và đã quá hạn theo thông báo của doanh nghiệp bảo hiểm Hơn nữa, doanh nghiệp bảo hiểm không có văn bản nào thỏa thuận chấp nhận việc thanh toán của bên mua bảo hiểm, do đó không thể coi đây là thỏa thuận khác như lập luận của cấp sơ thẩm Theo quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, nếu bên mua bảo hiểm không đóng phí đúng hạn, hợp đồng bảo hiểm sẽ bị chấm dứt và sẽ có hậu quả pháp lý tương ứng.

16 Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

17 Khoản 2 Điều 25 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

18 Khoản 2 Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

Theo Khoản 2 Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, khi hợp đồng bảo hiểm chấm dứt, bên mua bảo hiểm vẫn phải đóng đủ phí đến thời điểm đó Điều này có nghĩa là bên mua chưa đủ điều kiện để yêu cầu bồi thường theo quy định của luật Tòa án cấp phúc thẩm đã áp dụng đúng quy định về hình thức hợp đồng, sửa đổi, bổ sung hợp đồng, thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm và chấm dứt hợp đồng Dựa trên những điều này, Tòa án cấp phúc thẩm đã đưa ra lập luận hợp lý để bác bỏ quyết định của cấp sơ thẩm, đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật.

Tác giả nhận thấy rằng nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt trong kết quả giải quyết giữa hai cấp xét xử là do cách hiểu và áp dụng quy định pháp luật khác nhau, đặc biệt là trong việc thực thi các quy định pháp luật chuyên ngành Cụ thể, có sự nhầm lẫn giữa thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng theo Bộ luật Dân sự và thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường bảo hiểm theo Luật Kinh doanh bảo hiểm.

Tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ đóng phí và hiệu lực hợp đồng thường xuất phát từ việc các bên chưa thực hiện quy trình giao kết hợp đồng một cách chặt chẽ, đặc biệt là trong việc xác định quyền và nghĩa vụ Việc thanh toán phí bảo hiểm chỉ được bên mua thực hiện nhanh chóng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, dẫn đến mâu thuẫn giữa các bên Một ví dụ điển hình là vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Huada Furniture Việt Nam và Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), được Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vào năm 2015.

Vào ngày 20/12/2011, doanh nghiệp bảo hiểm đã gửi báo giá chi tiết cho bên mua bảo hiểm về hợp đồng bảo hiểm cháy nổ và các rủi ro đặc biệt Sau khi bên mua đồng ý, vào ngày 26/12/2011, doanh nghiệp bảo hiểm phát hành hợp đồng bao gồm Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm, thông báo phí và hóa đơn Thời hạn bảo hiểm được xác định từ ngày 06/01/2012 đến ngày 06/01/2013, cùng với việc thanh toán phí bảo hiểm.

Theo Khoản 2 Điều 24 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu bồi thường trong vòng 30 ngày kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực Vào ngày 12/01/2012, một vụ cháy xảy ra tại công ty của bên mua bảo hiểm Ngày 13/01/2012, bên mua bảo hiểm đã thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về sự cố và yêu cầu xác minh thiệt hại Mặc dù bên mua bảo hiểm đã thanh toán phí vào ngày 16/01/2012, doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng họ chưa nhận được hợp đồng bảo hiểm hoặc thông báo nào từ bên mua trước khi xảy ra vụ cháy Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm cho rằng trách nhiệm bồi thường chỉ bắt đầu từ ngày 02/02/2012.

Vướng mắc, kiến nghị

24 Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

25 Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

26 Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

Xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm khi bên mua không đóng phí hoặc đóng phí không đầy đủ là vấn đề quan trọng Thời gian thực hiện nghĩa vụ đóng phí là yếu tố quyết định việc bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt là hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ Tuy nhiên, quy định hiện hành còn thiếu chặt chẽ, dẫn đến nhiều tranh chấp phức tạp và gây ra sự không đồng nhất trong việc giải quyết, ảnh hưởng bởi lợi ích của một số tổ chức hoặc cá nhân.

Để đảm bảo việc áp dụng quy định pháp luật chính xác và thống nhất trong xét xử, cần tiến hành rà soát và sửa đổi các quy định một cách rõ ràng và đồng bộ Điều này giúp tránh tình trạng phải suy luận, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đồng nhất.

Điều 15 Luật Kinh doanh bảo hiểm đã được sửa đổi, bổ sung, tuy nhiên cần quy định rõ hơn về "bằng chứng" chứng minh hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và phí bảo hiểm đã được thanh toán Theo luật, "bằng chứng" bao gồm giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm cấp, và trách nhiệm bảo hiểm phát sinh từ thời điểm cấp giấy chứng nhận hoặc đơn bảo hiểm Để tránh tranh chấp về thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cần dự kiến số tiền bồi thường và tính toán phí bảo hiểm cũng như các chi phí liên quan khi ký kết hợp đồng Ngoài ra, cần có điều khoản chế tài đối với việc vi phạm nghĩa vụ đóng phí của bên mua bảo hiểm.

Khi sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm, cần chú ý đến sự thống nhất và rõ ràng giữa các Điều 14, Điều 15, Điều 23 và Điều 25 của luật này.

Bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thỏa thuận để sửa đổi và bổ sung phí bảo hiểm cũng như các điều kiện, điều khoản trong hợp đồng Tất cả các sửa đổi và bổ sung này cần phải được lập thành văn bản để đảm bảo tính hợp pháp và rõ ràng.

Để giảm thiểu tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ đóng phí và thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cần đính kèm quy tắc và điều khoản hợp đồng khi ký kết hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ Hợp đồng phải ghi rõ thời hạn đóng phí và kèm theo biên bản giải thích các điều khoản Nếu bên mua không nộp phí đúng hạn, hợp đồng bảo hiểm sẽ không có hiệu lực theo Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm Biên bản này cần được ký và đóng dấu để xác nhận Trong trường hợp sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm, cần quy định rõ thời gian đóng phí và thời gian chờ trong hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ, nhằm đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên Thời gian chờ là khoảng thời gian mà bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí nhưng chưa thực hiện, khiến hợp đồng chưa phát sinh hiệu lực nhưng cũng không bị chấm dứt.

Giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ là sự xác nhận rằng doanh nghiệp bảo hiểm đồng ý bảo hiểm, không phải là cơ sở xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm Nó là bằng chứng chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng không đồng nghĩa với việc cam kết bồi thường Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm không được xác định chỉ qua giấy chứng nhận mà cần có các điều kiện khác.

Nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm là bên mua chỉ được bồi thường khi đã đóng phí bảo hiểm, nghĩa là họ phải có sự đóng góp tài chính vào quỹ bảo hiểm để đủ điều kiện nhận quyền lợi.

Theo Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, hợp đồng bảo hiểm chỉ được coi là có hiệu lực khi các bên ghi nhận ý chí tham gia Nếu doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp giấy chứng nhận nhưng bên mua bảo hiểm chưa đóng phí, điều này không thể hiện ý chí tham gia hợp đồng của bên mua (trừ khi có thỏa thuận gia hạn đóng phí) Do đó, trách nhiệm bảo hiểm chưa phát sinh và hợp đồng có thể bị chấm dứt nếu không có thỏa thuận bằng văn bản khác.

Nghĩa vụ bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được kích hoạt khi hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết và bên mua bảo hiểm đã hoàn tất việc đóng phí bảo hiểm đầy đủ.

Các bên cần chú ý đến cả hai mệnh đề và đảm bảo thực hiện đầy đủ, đồng thời ghi rõ thời hạn thanh toán phí để tiến hành.

Tranh chấp bảo hiểm cháy, nổ liên quan đến thời điểm đóng phí là vấn đề phức tạp trong việc xác định trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm đối với bên mua bảo hiểm Qua nghiên cứu một số vụ việc, tác giả nhận thấy rằng có sự sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố tụng, dẫn đến những quyết định không chính xác trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Bộ luật Dân sự quy định về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, ảnh hưởng đến trách nhiệm bồi thường bảo hiểm theo Luật Kinh doanh bảo hiểm Nghiên cứu các vụ việc liên quan giúp các bên tham gia giao dịch hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ có cái nhìn toàn diện hơn, từ đó giảm thiểu thiệt hại và tranh chấp Đây là bài học kinh nghiệm quý báu cho đội ngũ thẩm phán trong công tác xét xử.

Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp theo quy định pháp luật, trong đó có các vụ việc liên quan đến hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ Khi thụ lý các vụ việc này, vấn đề thường gặp là xác định đối tượng hợp đồng và thời gian đóng phí để xác định trách nhiệm bồi thường Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều quan điểm và quyết định trái ngược giữa các cấp Tòa án, chủ yếu do việc áp dụng không đúng quy định pháp luật chuyên ngành Điều này dẫn đến tình trạng án bị hủy, sửa Nghiên cứu này nhằm phân tích và đánh giá những vướng mắc trong quy định pháp luật, từ đó giúp thẩm phán và những người tiến hành tố tụng hiểu rõ hơn trong việc áp dụng pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ thống tư pháp và thực hiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 03/2017/NQ – HĐTP.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A Văn bản quy phạm pháp luật

1 Bộ luật Dân sự năm 2005 (Số 33/2005/QH11) ngày 14/6/2005

2 Bộ luật Dân sự năm 2015 (Số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015

3 Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000

4 Luật số 61/2010/QH12 ngày 24/11/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm

5 Luật Phòng cháy và chữa cháy số 27/2001/QH10 ngày 29/6/2001

6 Luật số 40/2013/QH13 ngày 22/11/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy

7 Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội

8 Nghị định số 42/2001/NĐ–CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm

9 Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy

10 Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc

11 Nghị định số 45/2007/NĐ–CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm

12 Nghị định số 123/2011/NĐ–CP ngày 28/12/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và sửa đổi một số điều của Nghị định 45/2007/NĐ–CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:34

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
19. Nguyễn Thị Thủy (2009) Xây dựng và phát triển pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam, luận án tiến sĩ, Trường Đại học luật TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng và phát triển pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam
20. Trần Thị Lan Thanh (2013) Quản lý Nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học luật TP. HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm cháy nổ bắt buộc
21. Nguyễn Thị Thủy, “Về nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và vấn đề xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm”. Tạp chí KHPL, số 5 (42)/2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và vấn đề xác định thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm”. "Tạp chí KHPL
22. Ngọc Lan (2012), “Bảo hiểm cháy nổ rủi ro đặc biệt, cần nâng phí”. Báo Đầu tư chứng khoán ngày 07/8/2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hiểm cháy nổ rủi ro đặc biệt, cần nâng phí”. "Báo Đầu tư chứng khoán
Tác giả: Ngọc Lan
Năm: 2012
23. Nguyễn Thị Thủy (2006), “Nhận diện hành vi trục lợi trong bảo hiểm tài sản”. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội (số 9) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhận diện hành vi trục lợi trong bảo hiểm tài sản”. "Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Tác giả: Nguyễn Thị Thủy
Năm: 2006
24. Bảo hiểm phi nhân thọ, Nhà xuất bản tài chính Hà Nội (2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hiểm phi nhân thọ
Nhà XB: Nhà xuất bản tài chính Hà Nội (2010
25. Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy (2016), Báo cáo Tổng kết công tác năm 2015 và triển khai công tác năm 2016, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo Tổng kết công tác năm 2015 và triển khai công tác năm 2016
Tác giả: Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy
Năm: 2016
4. Luật số 61/2010/QH12 ngày 24/11/2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm Khác
5. Luật Phòng cháy và chữa cháy số 27/2001/QH10 ngày 29/6/2001 Khác
6. Luật số 40/2013/QH13 ngày 22/11/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và chữa cháy Khác
7. Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội Khác
8. Nghị định số 42/2001/NĐ–CP ngày 01/8/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm Khác
9. Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy Khác
10. Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc Khác
11. Nghị định số 45/2007/NĐ–CP ngày 27/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm Khác
14. Nghị định số 73/2016/NĐ – CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm Khác
15. Thông tư số 155/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 của Bộ tài chính quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm Khác
16. Thông tư liên tịch số 41/2007/TTLT-BTC-BCA ngày 24/4/2007 của liên Bộ tài chính – Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc Khác
17. Thông tư số 220/2010/TT-BTC ngày 30/12/2010 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w