1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Thời điểm mở thừa kế theo pháp luật dân sự việt nam

73 23 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thời Điểm Mở Thừa Kế Theo Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
Tác giả Nguyễn Minh Tuấn
Người hướng dẫn PGS. TS. Lê Minh Hùng
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Dân Sự Và Tố Tụng Dân Sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 4,4 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM MỞ THỪA KẾ (11)
    • 1.1. Xác định thời điểm mở thừa kế trong trường hợp cá nhân chết thông thường (12)
      • 1.1.1. Trường hợp có giấy chứng nhận hoặc các giấy tờ chứng minh (12)
      • 1.1.2. Trường hợp không có giấy chứng nhận hoặc các giấy tờ chứng minh (13)
    • 1.2. Xác định thời điểm mở thừa kế trong trường hợp cá nhân chết do Tòa án tuyên bố (18)
      • 1.2.1. Căn cứ vào quyết định của Tòa án có thẩm quyền theo thủ tục tố tụng (19)
      • 1.2.2. Căn cứ xác định định thời điểm mở thừa kế (thời điểm cá nhân chết do Tòa án tuyên bố) trong một số trường hợp cụ thể (20)
  • CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA PHÁP LÝ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM MỞ THỪA KẾ (11)
    • 2.1. Xác định người thừa kế tại thời điểm thừa kế (30)
      • 2.1.1. Đối với người có quyền thừa kế di sản của nhau (30)
      • 2.1.2. Người thừa kế thành thai, sinh ra sau thời điểm mở thừa kế (31)
    • 2.2. Xác định di sản thừa kế (32)
      • 2.2.1. Xác định khối di sản tại thời điểm mở thừa kế (32)
      • 2.2.2. Xác định giá trị di sản tại thời điểm mở thừa kế (33)
      • 2.2.3. Tài sản phát sinh sau khi người có tài sản chết (34)
    • 2.3. Các ý nghĩa pháp lý khác (36)
      • 2.3.1. Xác định thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người thừa kế (36)
      • 2.3.2. Xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc (37)
      • 2.3.3. Xác định mốc tính thời hiệu thừa kế (39)
  • KẾT LUẬN (29)
  • PHỤ LỤC (53)

Nội dung

XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM MỞ THỪA KẾ

Xác định thời điểm mở thừa kế trong trường hợp cá nhân chết thông thường

Thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm người có tài sản qua đời, theo quy định tại khoản 1 Điều 633 BLDS năm 2005 và khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015 Để xác định thời điểm này, thường dựa vào các giấy tờ chứng minh như trích lục hộ tịch hoặc giấy chứng tử Tuy nhiên, trong một số trường hợp không có các giấy tờ này, pháp luật dân sự Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể để xác định thời điểm mở thừa kế.

1.1.1 Trường hợp có giấy chứng nhận hoặc các giấy tờ chứng minh

Thời điểm mở thừa kế được xác định dựa vào các giấy tờ chứng minh như giấy chứng nhận, trích lục hộ tịch hoặc giấy chứng tử, trong đó cần ghi rõ “giờ, ngày, tháng, năm” cá nhân qua đời Việc xác định cái chết của cá nhân phải chính xác và tuân thủ quy định của pháp luật.

“khai tử” Trích lục hộ tịch hoặc giấy chứng tử là căn cứ chấm dứt quyền công dân

Theo Khoản 9 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014, trích lục hộ tịch là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp để chứng minh sự kiện hộ tịch của cá nhân đã được đăng ký Tuy nhiên, trong trường hợp cá nhân qua đời, họ không thể tự thực hiện thủ tục đăng ký khai tử cho chính mình.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật hộ tịch năm 2014: Trong thời hạn

Trong vòng 15 ngày kể từ khi có người chết, vợ, chồng, con, cha, mẹ hoặc người thân thích khác của người deceased có trách nhiệm đăng ký khai tử Nếu người chết không có người thân thích, thì đại diện của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân liên quan sẽ phải thực hiện việc khai tử.

Khi có người chết, thân nhân của người đó có trách nhiệm khai tử Nếu không có thân nhân, chủ nhà hoặc người có trách nhiệm tại cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú sẽ thực hiện việc này Từ ngày 01/01/2016, việc khai tử được thực hiện theo Luật hộ tịch năm 2014 và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP Người đi khai tử cần nộp giấy báo tử, trong đó ghi rõ họ tên, địa chỉ, địa điểm và nguyên nhân chết, cũng như "giờ, ngày, tháng, năm chết" theo Dương lịch Nếu không có giấy báo tử, có thể nộp giấy tờ khác thay thế; nếu vẫn không có, UBND cấp xã nơi người chết có trách nhiệm cấp giấy báo tử Thời điểm chết cần được xác định rõ ràng và được thể hiện trên giấy tờ liên quan.

1, 2 Điều 4 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP)

1.1.2 Trường hợp không có giấy chứng nhận hoặc các giấy tờ chứng minh 1.1.2.1 Xác định thời điểm mở thừa kế dựa vào sự thừa nhận giữa các đương sự

Giấy chứng nhận, bao gồm trích lục hộ tịch và giấy chứng tử, là cơ sở quan trọng để xác định thời điểm mở thừa kế Tuy nhiên, trong thực tế, những giấy tờ này không phải là chứng cứ duy nhất và tuyệt đối trong quá trình xác định quyền thừa kế.

Đối với việc cấp giấy báo tử, người chết tại cơ sở y tế sẽ được Thủ trưởng cơ sở y tế cấp giấy này Trong trường hợp người chết do thi hành án tử hình, Chủ tịch Hội đồng thi hành án tử hình sẽ cấp giấy xác nhận thay cho giấy báo tử Nếu Tòa án tuyên bố người đã chết, bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa sẽ thay thế cho giấy báo tử Đối với những trường hợp như chết trên phương tiện giao thông, do tai nạn, bị giết, chết đột ngột hoặc có nghi vấn, văn bản xác nhận của cơ quan công an hoặc kết quả giám định pháp y sẽ được sử dụng thay cho giấy báo tử Việc xác định thời điểm mở thừa kế cần lưu ý rằng cơ quan cấp giấy chứng tử không phải là nhân chứng trực tiếp về cái chết của người để lại di sản, mà thường chỉ dựa vào thông tin khai báo từ những người liên quan.

Trong Bản án số 137/2007/DSST ngày 19/9/2007 của TAND thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang, việc xác định thời hiệu khởi kiện dựa vào giấy chứng tử đã gặp phải vấn đề khi thông tin về thời gian chết của bà Khuyến do bà Tuyền khai không chính xác Tòa án nhận định rằng theo Giấy chứng tử số 71/HT, quyển số 01/1999, ngày 23/02/1999 do UBND phường Vĩnh Mỹ cấp, bà Khuyến đã chết vào ngày 27/10/1998 Nếu căn cứ vào ngày chết theo Giấy chứng tử, thời hiệu khởi kiện tranh chấp về quyền thừa kế di sản của bà Khuyến vẫn còn hiệu lực Qua quá trình "đối chất", bà Tuyền xác định mình là người đăng ký khai tử cho bà Khuyến, nhưng thông tin về ngày chết mà bà cung cấp là sai Do đó, ngày chết của bà Khuyến ghi nhận trong giấy chứng tử không chính xác, không thể lấy làm căn cứ để tính thời hiệu khởi kiện.

Việc xác định thời điểm người để lại di sản chết gặp nhiều khó khăn khi chỉ dựa vào giấy chứng tử, vì điều này có thể không đảm bảo tính khách quan và chính xác Thực tế cho thấy, người khai tử thường là người thân trong gia đình, và có thể có trường hợp họ cố ý khai sai lệch thời điểm để chiếm đoạt tài sản Do đó, việc Tòa án tiến hành xác minh và đối chất những người liên quan để làm rõ ngày chết, bác bỏ thông tin trong giấy chứng tử là cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi của các đồng thừa kế.

Theo quy định pháp luật, thời điểm người để lại di sản chết được xác định qua trích lục hộ tịch, giấy chứng tử hoặc các giấy tờ chứng minh khác Tuy nhiên, nếu các giấy tờ này không được chấp nhận, Tòa án sẽ dựa vào chứng cứ nào để xác định thời điểm chết? Trong thực tế, Tòa án có thể xem xét sự thống nhất giữa các đương sự về thời điểm này.

3 Đỗ Văn Đại (2016), Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, tập 1 (Xuất bản lần thứ 3), NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.24-25

Trong vụ tranh chấp thừa kế tài sản tại TAND huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, Tòa án đã xác định thời điểm chết của người để lại di sản dựa trên lời khai của các đương sự Cụ thể, các bên thừa nhận rằng ông Điểu đã qua đời vào năm 1986 và bà Lệ qua đời vào ngày 31/3/2010 Do đó, đây là sự việc thực tế đã xảy ra và không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong vụ án này, Tòa án không yêu cầu chị Phương cung cấp giấy chứng tử hay các giấy tờ khác để xác định thời điểm cha mẹ chị là ông Điểu và bà Lệ qua đời Thay vào đó, Tòa án dựa vào lời khai và sự thừa nhận của chị Phương, bị đơn anh Lương cùng những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan như anh Cẩm và anh Linh Tòa án sử dụng sự thỏa thuận thống nhất giữa các bên liên quan để xác định thời điểm người chết để lại di sản, từ đó chứng minh ngày mở thừa kế.

Tòa án đã có hướng xét xử hợp lý, phù hợp với thực tiễn trong việc xác định thời điểm người để lại di sản chết, mặc dù pháp luật dân sự không quy định rõ về thỏa thuận này Việc xác định thời gian tử vong của người để lại di sản dựa trên sự đồng thuận của những người thừa kế, thường là những người thân thuộc, giúp giải quyết mâu thuẫn một cách triệt để, nhanh chóng và tiết kiệm Tuy nhiên, sự thống nhất về thời điểm này phải xuất phát từ sự tự nguyện của các đương sự, không được cưỡng ép và phải tuân thủ pháp luật cũng như đạo đức xã hội.

1.1.2.2 Xác định thời điểm mở thừa kế dựa vào thời gian ghi trên bia mộ

Khi trích lục hộ tịch hoặc giấy chứng tử không đủ để chứng minh thời điểm chết của người để lại di sản, Tòa án có thể dựa vào lời khai thống nhất giữa các đương sự Ngoài ra, thời gian ghi trên bia mộ cũng có thể được sử dụng làm chứng cứ để xác định thời điểm người để lại di sản qua đời.

4 Bản án số 02/2011/DSST của TAND huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long ngày 17/01/2011 (phụ lục 1)

Bản án của TAND thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang đã xác định ngày chết của bà Khuyến là 01/5/1995 Âm lịch, dựa trên chứng cứ từ ông Trước và sự xác nhận của bà Tuyền, người đã đăng ký khai tử cho bà Khuyến, mặc dù bà Tuyền trước đó khai sai ngày chết là 27/10/1998 Tòa án đã công nhận thời gian ghi trên bia mộ là chứng cứ hợp lệ để xác định thời điểm chết của người để lại di sản Quan điểm này cũng được TAND huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương áp dụng trong vụ tranh chấp thừa kế tài sản của cố T và cố M, khi thời điểm chết của họ được xác định dựa trên thông tin ghi trên bia mộ tại thửa đất 522, tờ bản đồ 58, xã A, huyện C, cụ thể là cố T chết vào ngày 03/5/1990 và cố M vào ngày 12/12/1995.

Ý NGHĨA PHÁP LÝ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM MỞ THỪA KẾ

Xác định người thừa kế tại thời điểm thừa kế

2.1.1 Đối với người có quyền thừa kế di sản của nhau

Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản chết cùng thời điểm hoặc không thể xác định ai chết trước, họ sẽ không được thừa kế di sản của nhau Di sản của mỗi người sẽ được hưởng bởi người thừa kế của họ, trừ khi có quy định về thừa kế thế vị theo Điều 619 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trong nhiều trường hợp, những người có quyền thừa kế di sản có thể cùng chết trong một sự kiện như tai nạn giao thông, động đất hoặc mất tích trong chiến tranh Việc xác định ai chết trước hay sau rất quan trọng, vì người chết sau sẽ thừa kế di sản của người chết trước Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật dân sự chưa có quy định cụ thể về việc xác định thứ tự chết, và khi không xác định được, họ sẽ được coi là chết cùng thời điểm.

Trong quyết định giải quyết việc dân sự của TAND quận Thanh Khê, Đà Nẵng, ông H (cha của ông X) và bà T (em của ông H) đã được tuyên bố là đã chết kể từ ngày 31/10/2017, do trước năm 1975 họ đã bỏ nhà đi và biệt tích.

Khi ông H qua đời, số người thừa kế tài sản của ông gồm có 03 người: bà T, ông X và vợ ông H Nếu xác định bà T qua đời trước, thì số người thừa kế của bà T sẽ là 02 người.

Quyết định số 21/2017/QĐ-DSST ngày 31/10/2017 của TAND quận Thanh Khê, Đà Nẵng, nêu rõ vấn đề xác định thứ tự chết trong hàng thừa kế, đặc biệt là khi không thể xác định ai chết trước Điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế và các bên liên quan Pháp luật Pháp áp dụng nguyên tắc suy đoán pháp lý cho các trường hợp này, như người dưới 15 tuổi được coi là chết sau người lớn hơn, hoặc trong trường hợp đàn ông và phụ nữ cách nhau không quá 3 tuổi, đàn ông sẽ được coi là chết sau Mặc dù nguyên tắc này có thể không hoàn toàn chính xác, nhưng trong trường hợp thiếu bằng chứng, nó cần được xem xét Tác giả đề xuất Quốc hội cần nghiên cứu và sửa đổi quy định để phù hợp với thực tiễn, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp thừa kế trong các tình huống không xác định được thứ tự chết, đồng thời bảo đảm quyền lợi cho những người thừa kế.

2.1.2 Người thừa kế thành thai, sinh ra sau thời điểm mở thừa kế

Ngày nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã làm cho việc sinh ra trẻ em bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm trở nên phổ biến Tuy nhiên, một vấn đề pháp lý quan trọng là liệu những cá nhân được sinh ra sau thời điểm mở thừa kế có được công nhận là người thừa kế hay không, điều này vẫn chưa được quy định rõ trong pháp luật dân sự.

Cá nhân được sinh ra sau khi mở thừa kế nhờ sự tiến bộ của y học, cho phép người chồng lưu trữ và sử dụng tinh trùng để thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm Trong một số trường hợp, người chồng có thể gửi tinh trùng đến cơ sở lưu trữ và sau đó qua đời Nếu người vợ tự ý sử dụng tinh trùng để thụ thai và sinh con, đứa trẻ sẽ có mối quan hệ huyết thống với người đã khuất, nhưng theo quy định pháp luật, đứa trẻ này không được công nhận là người thừa kế theo Điều 613 BLDS.

Năm 2015, việc chấp nhận lấy tinh trùng hoặc trứng để thụ tinh theo phương pháp khoa học và sinh con sau thời điểm mở thừa kế có thể làm gia tăng số lượng người thừa kế Điều này phụ thuộc vào ý chí của người vợ hoặc chồng còn sống, ảnh hưởng đến quyền lợi của các thừa kế khác và có thể dẫn đến tranh chấp pháp lý Do đó, nếu cá nhân được sinh ra sau thời điểm mở thừa kế, sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến quyền thừa kế.

21 Phạm Văn Bằng (2014), “Những vấn đề đặt ra về chế định thừa kế khi sửa đổi Bộ luật dân sự”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp, số 05 (261), tr.32

Bài viết của Nguyễn Hồ Bích Hằng và Ngô Thị Anh Vân (2015) đề cập đến những góp ý liên quan đến quyền thừa kế theo quy định của Bộ luật Dân sự Tác giả phân tích tư cách hưởng thừa kế của những người được thành thai và sinh ra sau thời điểm mở thừa kế, nhằm làm rõ các quy định và quyền lợi của họ trong quá trình thừa kế.

Theo Tạp chí Khoa học pháp lý, số 05 (90), tr.45-50, người thừa kế không được quyền thừa kế tài sản của cha/mẹ đã qua đời Tác giả nhấn mạnh rằng việc lấy tinh trùng hoặc trứng của người đã chết để thụ thai và sinh con sau thời điểm mở thừa kế cần có sự đồng ý bằng văn bản của người đã để lại tinh trùng/trứng Đối với trường hợp thừa kế thế vị, cũng cần có sự đồng ý bằng văn bản của ông/bà trước khi vợ/chồng quyết định lấy tinh trùng/trứng để thụ tinh và sinh con sau thời điểm mở thừa kế.

Nhiều vấn đề liên quan đến di sản thừa kế vẫn còn tồn tại, bao gồm ý chí của người đã khuất và việc chia di sản cho những người thừa kế hợp pháp Ngoài ra, thời hiệu thừa kế và thời hiệu xác lập quyền sở hữu đối với di sản cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

Xác định di sản thừa kế

2.2.1 Xác định khối di sản tại thời điểm mở thừa kế

Việc xác định khối di sản thừa kế rất quan trọng, vì nó phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế, giúp xác định rõ di sản còn lại Thời điểm này là căn cứ để đánh giá số lượng và giá trị di sản so với trước khi mở thừa kế Xác định khối di sản thừa kế không chỉ giúp người hưởng thừa kế nhận được quyền lợi hợp pháp, mà còn ngăn chặn tình trạng tài sản bị phân tán hoặc chiếm đoạt bởi người khác.

Tòa án Nhân dân Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, đã tuyên bố ông T1 đã chết kể từ ngày 28/7/2017, sau khi ông mất tích từ năm 1960 Trước đó, vợ ông T1, bà T2, đã qua đời vào ngày 18/12/1998 Việc không xác định được thời điểm cụ thể ông T1 qua đời đã dẫn đến khó khăn trong việc xác định khối di sản của ông Ông T1 được hưởng thừa kế từ bà T2, trong khi bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 do đã chết trước khi ông được tuyên bố là đã chết.

Sau nhiều năm kể từ khi người để lại di sản qua đời, các thừa kế thường yêu cầu chia di sản Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người quản lý di sản có thể đã thực hiện giao dịch một phần di sản với bên thứ ba hoặc do Nhà nước thu hồi, giải tỏa quyền sử dụng đất, vật kiến trúc và tài sản gắn liền với đất, dẫn đến những phức tạp trong quá trình phân chia di sản.

23 Quyết định số 09/2017/QĐDS-ST ngày 28/7/2017 của TAND thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đăng trên

Trang Thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của TAND tối cao, địa chỉ: https://congbobanan

Theo quyết định Giám đốc thẩm của HĐTP TAND tối cao, di sản thừa kế từ cố Khuê và cố Hiến bao gồm 11.355m2 đất và một căn nhà do cụ Cử quản lý Trong quá trình quản lý, cụ Cử đã chuyển nhượng một phần di sản cho nhiều người khác Năm 2004, một phần đất đã bị Nhà nước giải tỏa để xây trạm bơm, dẫn đến việc bồi thường 714 triệu đồng và cấp 02 lô đất thổ cư HĐTP TAND tối cao xác định rằng phần đất này là di sản thừa kế và không có căn cứ để cho rằng đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cụ Cử Việc Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định đất bị quy hoạch vẫn là di sản là không chính xác, do đó, HĐTP TAND tối cao đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm.

Trong vụ án này, cụ Cử đã tự ý chuyển nhượng di sản mà không có sự đồng ý của các thừa kế, dẫn đến việc khối di sản ban đầu không còn đủ do Nhà nước thu hồi một phần Khi yêu cầu chia di sản được đưa ra, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xác định một phần di sản không còn, điều này là chưa chính xác Việc Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm nhằm bảo vệ quyền lợi của các thừa kế là hoàn toàn hợp lý.

Để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế, HĐTP TAND tối cao cần đưa ra hướng dẫn chi tiết về cách xác định khối di sản thừa kế Trong trường hợp khối di sản có sự thay đổi sau thời điểm mở thừa kế, cần phải cộng dồn những thay đổi này vào khối di sản tại thời điểm mở thừa kế, nhằm đảm bảo đầy đủ khối di sản trước khi tiến hành phân chia.

2.2.2 Xác định giá trị di sản tại thời điểm mở thừa kế

Thời điểm mở thừa kế là thời gian quan trọng để xác định khối di sản còn lại của người đã khuất và giá trị di sản tại thời điểm đó Nhiều trường hợp cho thấy giá trị di sản có thể thay đổi so với thời điểm trước khi mở thừa kế.

24 Quyết định Giám đốc thẩm số 131/2013/DS-GĐT ngày 27/9/2013 của HĐTP TAND tối cao (phụ lục 2)

Trong vụ án thừa kế tại TAND huyện Cẩm Khê, Phú Thọ, Tòa án xác định ông X qua đời vào tháng 01/2016, để lại tài sản gồm ngôi nhà trị giá 115.364.000 đồng và quyền sử dụng đất 967,4m² Tuy nhiên, việc không xác định rõ ngày tháng cụ thể của ông X có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế Nếu giả định ông X mất vào ngày 30/01/2016, giá trị tài sản sẽ tăng gấp đôi do quy hoạch dự án xây dựng khu thương mại được công bố vào ngày 29/01/2016 Ngược lại, nếu ông X mất vào ngày 01/01/2016, giá trị đất sẽ không thay đổi.

Theo tác giả TAND tối cao, cần có hướng dẫn rõ ràng cho các Tòa án trong việc xác định ngày chết của người để lại di sản, bao gồm đầy đủ giờ, ngày, tháng, năm Việc này nhằm đảm bảo quyền lợi của người thừa kế và xác định chính xác giá trị di sản thừa kế sau thời điểm mở thừa kế.

2.2.3 Tài sản phát sinh sau khi người có tài sản chết

Di sản thừa kế không chỉ bao gồm tài sản của người chết để lại mà còn có thể bao gồm những tài sản phát sinh sau thời điểm mở thừa kế Việc xác định chính xác di sản thừa kế, bao gồm cả tài sản phát sinh, là rất quan trọng để đảm bảo quyền lợi của từng người thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình chia di sản thừa kế, tranh chấp liên quan đến đất tái định cư do Nhà nước bồi hoàn khi thu hồi đất thường xảy ra Pháp luật dân sự chưa quy định rõ ràng về việc xác định phần đất tái định cư là di sản thừa kế hay không, dẫn đến sự lúng túng trong xét xử của Tòa án HĐTP TAND tối cao đã nhấn mạnh rằng trong trường hợp đất đã được bồi thường ngang giá, chỉ tiền bồi thường mới được coi là di sản, trong khi đất tái định cư cấp cho người đang ở trên đất cần được xem xét một cách cụ thể.

Bản án số 14/2017/DSST, được TAND huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ ban hành vào ngày 28/9/2017, đã được công bố trên Trang Thông tin điện tử của TAND tối cao Để tìm hiểu thêm chi tiết về bản án và quyết định, bạn có thể truy cập địa chỉ: https://congbobanan.toaan.

gov.vn/2ta40641t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 12/5/2018

Quyết định Giám đốc thẩm số 131/2013/DS-GĐT ngày 27/9/2013 của HĐTP TAND tối cao đã chỉ ra rằng đất bị quy hoạch không phải là di sản Nếu cả tiền bồi thường và đất tái định cư có giá trị tương đương với đất bị quy hoạch, thì cả hai đều được xác định là di sản Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm đã sai khi khẳng định rằng đất bị quy hoạch vẫn được coi là di sản Do đó, HĐTP TAND tối cao đã quyết định hủy bỏ bản án của hai cấp tòa này.

Theo tác giả, quan điểm của HĐTP TAND tối cao là hợp lý, nhưng cần làm rõ việc hỗ trợ đất nền tái định cư dành cho người đang sinh sống trên đất (người quản lý di sản) hay cho người để lại di sản Việc cấp đất cho người để lại di sản là không hợp lý, vì mục đích chính của hỗ trợ tái định cư là tạo điều kiện an cư cho người còn sống HĐTP TAND tối cao cần hướng dẫn cách xác định đất tái định cư phát sinh sau khi người có tài sản qua đời, trong đó nếu nhà, đất bị thu hồi và được bồi thường tương xứng, thì tiền bồi thường được coi là di sản, còn đất tái định cư cấp cho người đang ở trên đất thu hồi không phải là di sản mà là hỗ trợ cho người quản lý di sản Nếu tiền bồi thường và đất tái định cư tương xứng với giá trị đất bị thu hồi, thì đất tái định cư sẽ được xác định là di sản.

Trong lĩnh vực pháp luật dân sự, việc xác định tiền phúng điếu có phải là di sản thừa kế hay không vẫn còn gây tranh cãi Một số quan điểm cho rằng tiền phúng điếu được coi là di sản thừa kế vì nó liên quan đến việc viếng người đã khuất và do đó thuộc về tài sản của người chết Ngược lại, một số ý kiến khác cho rằng tiền phúng điếu không phải là di sản thừa kế, bởi vì quyền và nghĩa vụ tài sản của người chết chỉ được xem xét từ thời điểm mở thừa kế.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:33

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w