BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc là trách nhiệm của người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ), theo quy định tại Điều 2 Luật BHXH Đối tượng tham gia bao gồm các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, hợp tác xã và cá nhân có thuê mướn lao động Người lao động phải là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, bao gồm nhiều loại hợp đồng lao động, từ không xác định thời hạn đến có thời hạn từ 01 đến dưới 12 tháng Kể từ ngày 01/01/2018, NLĐ có hợp đồng từ 01 đến 03 tháng cũng bắt buộc tham gia BHXH.
Khi tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) hoặc hợp đồng lao động vụ (HĐLV), người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải nộp hồ sơ bao gồm tờ khai tham gia BHXH của NSDLĐ, danh sách người lao động (NLĐ) tham gia BHXH và tờ khai tham gia BHXH của NLĐ tới cơ quan BHXH, theo quy định tại khoản 1 Điều 99 và khoản 1 Điều 97 của Luật BHXH.
Phương thức tham gia BHXH được quy định tại Điều 86 Luật BHXH, yêu cầu hàng tháng đóng trên quỹ tiền lương của người lao động hoặc trên mức lương cơ sở Theo Điều 7 và Điều 19 Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017, đơn vị cần trích tiền đóng BHXH bắt buộc từ quỹ tiền lương tháng của NLĐ, thực hiện trước ngày cuối cùng của tháng Số tiền này sẽ được chuyển vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH cùng một lần.
BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc nhà nước
Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc được xác định rõ ràng trong các văn bản pháp luật, bao gồm người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) Pháp luật quy định rằng NLĐ không thể tự nộp hồ sơ đăng ký tham gia BHXH lần đầu hay tự trích nộp tiền lương hàng tháng vào quỹ BHXH, mà mọi nghĩa vụ liên quan đến hồ sơ và đóng góp đều phải thực hiện thông qua NSDLĐ.
Điều kiện hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Để người lao động (NLĐ) được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, họ cần tham gia BHXH, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH và đáp ứng các điều kiện cụ thể cho từng chế độ.
Thứ nhất: Chế độ ốm đau
Người lao động (NLĐ) tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) có quyền hưởng chế độ khi gặp phải ốm đau hoặc tai nạn rủi ro, nhưng không phải mọi trường hợp đều được chi trả Để đủ điều kiện, NLĐ cần chứng minh rằng họ bị ốm đau hoặc gặp tai nạn không liên quan đến lao động, không phải do tự hủy hoại sức khỏe, say rượu, hoặc sử dụng chất ma túy Ngoài ra, NLĐ cũng phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm và có xác nhận từ cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế Như vậy, NLĐ cần thỏa mãn hai điều kiện cụ thể để được hưởng chế độ bảo hiểm.
Trong trường hợp người lao động (NLĐ) bị ốm đau, gặp tai nạn rủi ro, hoặc phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm, đây là tình huống thường gặp trong môi trường làm việc Việc nghỉ việc để điều trị hoặc chăm sóc gia đình là một thực tế phổ biến, ảnh hưởng đến khả năng làm việc của NLĐ.
Để được hưởng bảo hiểm ốm đau, người lao động cần có xác nhận từ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế khi ốm đau và nghỉ việc để điều trị Điều này là yêu cầu quan trọng trong thủ tục hồ sơ hưởng bảo hiểm ốm đau.
Để được hưởng bảo hiểm ốm đau, người lao động cần đáp ứng điều kiện về việc ốm đau và nghỉ việc để điều trị, trong khi điều kiện xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền là điều kiện đủ Xác nhận từ cơ sở y tế là cần thiết, vì nó là căn cứ pháp lý chứng minh sự kiện pháp lý về bảo hiểm ốm đau đã phát sinh, đồng thời là cơ sở để cơ quan bảo hiểm thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng.
Thứ hai: Chế độ thai sản
Chế độ bảo hiểm đặc thù này được thiết kế để bảo vệ thu nhập và sức khỏe của lao động nữ trong thời gian mang thai, sinh con, cũng như hỗ trợ người lao động nói chung khi nuôi con sơ sinh Chính sách này không chỉ giúp lao động nữ thực hiện thiên chức làm mẹ mà còn đảm bảo họ có thể tham gia hiệu quả vào công tác xã hội, đồng thời tạo động lực thúc đẩy bình đẳng giới.
Căn cứ để được hưởng chế độ này đầu tiên phải là NLĐ (không phân biệt là
Lao động nam và lao động nữ đều thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, với điều kiện đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con Đối với lao động nữ sinh con theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền, ngoài yêu cầu đóng BHXH tối thiểu 12 tháng, còn cần phải có ít nhất 3 tháng đóng BHXH trong thời gian này.
12 tháng trước khi sinh con và thuộc các trường hợp sau:
Lao động nữ mang thai và sinh con, cũng như người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ, đều có những quyền lợi đặc biệt Ngoài ra, người nhận nuôi con dưới 6 tháng tuổi cũng được bảo vệ quyền lợi Đặc biệt, những người đặt vòng tránh thai và triệt sản cũng cần được hỗ trợ và đảm bảo quyền lợi hợp pháp.
- Là lao động nam đóng BHXH có vợ sinh con
Theo quy định về thời gian đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) trước khi hưởng chế độ thai sản, pháp luật BHXH tại Việt Nam được xem là tương đồng với một số quốc gia trong khu vực Cụ thể, Thái Lan yêu cầu 07 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh, trong khi Singapore yêu cầu ít nhất 06 tháng làm việc Nhật Bản quy định thời gian làm việc tối thiểu là 12 tháng trước đó Tại Philippines, lao động nữ được hưởng trợ cấp thai sản trong 04 lần sinh, với điều kiện đã đóng BHXH 03 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh Đặc biệt, Luật BHXH Việt Nam không giới hạn số lần sinh con được hưởng chế độ bảo hiểm thai sản.
Thứ ba: Chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí: Bao gồm chế độ hưu trí hàng tháng và chế độ BHXH một lần
Chế độ hưu trí hàng tháng cung cấp trợ cấp vật chất cho người lao động (NLĐ) đã hết tuổi lao động hoặc bị suy giảm khả năng lao động, giúp họ vượt qua khó khăn khi mất nguồn thu nhập do không còn tham gia lao động Để đủ điều kiện nhận chế độ này, NLĐ cần có ít nhất 20 năm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) và thuộc một trong các trường hợp quy định.
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi
Nam từ đủ 55 tuổi và nữ từ đủ 50 đến 55 tuổi có thể nghỉ hưu nếu có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và xã hội ban hành Ngoài ra, những người có đủ 15 năm làm việc tại nơi có hệ số phụ cấp khu vực từ 0,7 trở lên cũng đủ điều kiện nghỉ hưu.
- NLĐ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm việc khai thác than trong hầm lò
- Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp
Người lao động (NLĐ) có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên sẽ được hưởng lương hưu, nhưng mức lương hưu sẽ thấp hơn nếu họ thuộc một trong các trường hợp quy định.
+ Từ ngày 01/01/2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi Sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi
Đối tượng đủ điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm nam từ 50 tuổi trở lên, nữ từ 45 tuổi trở lên và có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên Ngoài ra, những người có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và đã có ít nhất 15 năm làm việc trong các nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và xã hội cùng Bộ Y tế quy định cũng được xem xét.
Chế độ BHXH một lần áp dụng cho những người lao động không đủ điều kiện nhận lương hưu hàng tháng Để được hưởng chế độ này, người lao động cần đáp ứng một trong các điều kiện nhất định.
3 Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật an sinh xã hội, NXB Tư pháp, tr 146
- Đủ tuổi hưởng lương hưu nhưng chưa đủ 20 năm đóng BHXH
- Ra nước ngoài để định cư
Người mắc các bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế cần được chú ý đặc biệt.
Thứ tư: Chế độ tử tuất:
Chế độ này bao gồm trợ cấp mai táng phí và trợ cấp tuất
Trợ cấp mai táng: NLĐ thuộc các trường hợp sau đây thì người lo mai táng sẽ nhận được trợ cấp mai táng:
- Là NLĐ đang đóng BHXH hoặc NLĐ đang bảo lưu thời gian đóng BHXH mà có thời gian đóng từ đủ 12 tháng trở lên
- NLĐ chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc chết trong thời gian điều trị do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Người đang hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghê nghiệp hàng tháng đã nghỉ việc
- Những người thuộc các trường hợp trên bị Tòa án tuyên bố là mất tích
BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG – BỆNH NGHỀ NGHIỆP 18 2.1 Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Điều kiện để NLĐ được hưởng chế độ bảo hiểm được quy định tại Điều 43,
44 Luật BHXH; Điều 45, 46 Luật ATVSLĐ Cụ thể, NLĐ khi đáp ứng các điều kiện sau đây thì được hưởng chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN:
Người lao động (NLĐ) sẽ được hưởng chế độ tai nạn lao động (TNLĐ) khi đáp ứng đủ các điều kiện, bao gồm việc bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do tai nạn xảy ra tại nơi làm việc trong giờ làm việc, hoặc ngoài nơi làm việc và ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động (NSDLĐ).
- Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lí
Người lao động (NLĐ) có quyền nhận chế độ bảo hiểm xã hội (BNN) khi khả năng lao động của họ bị suy giảm từ 5% trở lên do mắc bệnh nằm trong danh mục BNN được Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định Điều này áp dụng cho những NLĐ làm việc trong môi trường hoặc ngành nghề có yếu tố độc hại.
Mức hưởng: Theo quy định tại Điều 46, Điều 47, Điều 49, Điều 50, Điều
Theo Điều 51, Điều 52 Luật BHXH và các Điều 48, 49, 51, 52, 53, 54, 55 Luật ATVSLĐ, mức hưởng chế độ bảo hiểm xã hội sẽ được phân chia dựa trên mức độ suy giảm khả năng lao động của người lao động.
Người lao động (NLĐ) bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% sẽ nhận trợ cấp một lần tương đương 05 lần mức lương cơ sở Đối với mức suy giảm trên 5%, mỗi 1% suy giảm sẽ được cộng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở Bên cạnh đó, NLĐ cũng nhận trợ cấp dựa trên số năm tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), cụ thể là 0,5 tháng lương cho 01 năm đầu tiên và 0,3 tháng lương cho mỗi năm tiếp theo, tính theo mức lương của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
Người lao động (NLĐ) bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên sẽ nhận trợ cấp hàng tháng bằng 30% mức lương cơ sở Đối với mỗi 1% suy giảm thêm, NLĐ sẽ được cộng thêm 2% mức lương cơ sở Bên cạnh đó, mức trợ cấp cũng được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) tương tự như trường hợp trợ cấp một lần.
Khi người lao động (NLĐ) tử vong do tai nạn lao động (TNLĐ) hoặc bệnh nghề nghiệp (BNN), thân nhân của họ sẽ nhận được trợ cấp một lần tương đương với mức quy định Trợ cấp này cũng áp dụng cho trường hợp NLĐ qua đời trong lần đầu điều trị TNLĐ hoặc BNN.
36 lần mức lương cơ sở
Trợ cấp phục vụ được áp dụng cho người lao động có khả năng lao động suy giảm từ 81% trở lên, bao gồm các trường hợp như liệt cột sống, mù hai mắt, cụt hoặc liệt hai chi, hoặc mắc bệnh tâm thần Ngoài mức trợ cấp hàng tháng, họ còn được hưởng trợ cấp phục vụ tương đương với mức lương cơ sở.
Ngoài trợ cấp thương tật, NLĐ sau khi điều trị ổn định nhưng sức khỏe chưa phục hồi có thể được nghỉ dưỡng sức từ 5-10 ngày Mức hưởng cho 1 ngày nghỉ tại nhà là 25% mức lương cơ sở, trong khi nghỉ tại cơ sở tập trung là 40% Nếu NLĐ trở lại làm việc và cần đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp, họ sẽ nhận được hỗ trợ.
Thông tư số 15/2016/TT-BYT ngày 15/5/2016 của Bộ Y tế quy định về 11 phụ lục liên quan đến các bệnh nghề nghiệp được hưởng bảo hiểm xã hội Theo đó, người lao động sẽ được hỗ trợ không quá 50% tiền học phí và không quá 15 lần mức lương cơ sở Mỗi năm, người lao động chỉ được hỗ trợ 01 lần và tổng số lần hỗ trợ không quá 02 lần.
Thời điểm nhận trợ cấp cho người lao động bắt đầu từ tháng họ hoàn thành điều trị và xuất viện Nếu có thương tật hoặc bệnh tật tái phát, thời điểm hưởng trợ cấp sẽ được xác định lại từ tháng có kết luận của Hội đồng giám định y khoa.
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Đối tượng tham gia BHTN được quy định tại Điều 43 Luật Việc làm Đối tượng này bao gồm NLĐ và NSDLĐ, cụ thể như sau:
Người lao động (NLĐ) bắt buộc phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) khi làm việc theo hợp đồng lao động (HĐLĐ) hoặc hợp đồng lao động vụ (HĐLV) không xác định thời hạn; HĐLĐ hoặc HĐLV xác định thời hạn; hoặc HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn từ 3 tháng đến dưới 12 tháng Tuy nhiên, những NLĐ thuộc loại hợp đồng này nhưng đang hưởng lương hưu hoặc làm giúp việc gia đình sẽ không phải tham gia BHTN.
NSDLĐ tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) bao gồm các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, và đơn vị vũ trang nhân dân Ngoài ra, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội cũng là những thành phần quan trọng trong hệ thống BHTN.
17 Điều 20 Công ước số 102 (1952) của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (1997) đã thực hiện một nghiên cứu quan trọng về việc xây dựng mô hình chính sách cho bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam Báo cáo kết quả nghiên cứu này được công bố tại Hà Nội, nhằm cung cấp cơ sở cho việc triển khai các chính sách hiệu quả trong lĩnh vực bảo hiểm thất nghiệp.
Theo Khoản 4 Điều 3 của Luật Việc làm năm 2013, các đối tượng bao gồm tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cơ quan và tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam, cùng với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động (HĐLV) hoặc hợp đồng lao động có thời hạn từ 03 tháng trở lên, bao gồm cả hợp đồng mùa vụ hoặc theo công việc nhất định, cũng như hợp đồng không xác định thời hạn.
Khi có đối tượng cần tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải lập và nộp hồ sơ tham gia BHTN cho cơ quan bảo hiểm xã hội (BHXH) trong vòng 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động (HĐLĐ) hoặc hợp đồng lao động việc làm (HĐLV) có hiệu lực, theo Điều 11 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ.
Phương thức đóng Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật Việc làm và khoản 1 Điều 6 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP Theo đó, hàng tháng, người sử dụng lao động (NSDLĐ) sẽ trích từ quỹ tiền lương của đơn vị và trích tiền lương của từng người lao động (NLĐ) theo mức quy định để đóng vào Quỹ BHTN Thời điểm đóng BHTN của NSDLĐ và NLĐ trùng với thời điểm đóng Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, như quy định tại Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP của Chính phủ.
Theo quy định pháp luật, việc lập hồ sơ tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cho người lao động (NLĐ), trích tiền lương và nộp tiền vào quỹ BHTN tại cơ quan bảo hiểm xã hội (BHXH) hoàn toàn thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động (NSDLĐ) Tương tự như tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, NLĐ không có quyền tự thiết lập hồ sơ tham gia BHTN, tự trích tiền lương hay tự nộp tiền vào quỹ BHTN.
Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Người lao động (NLĐ) tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) sẽ nhận được các chế độ như trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ tư vấn và giới thiệu việc làm, cùng với hỗ trợ học nghề Đối với người sử dụng lao động (NSDLĐ), họ được hưởng chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ Theo quy định tại Điều 47 và Điều 49 Luật Việc làm, NLĐ thuộc đối tượng bắt buộc tham gia BHTN sẽ được hưởng chế độ này khi đáp ứng đủ các điều kiện cần thiết.
Thứ nhất, Chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV hợp pháp, không thuộc trường hợp chấm dứt HĐLĐ, HĐLV để hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng
Để đủ điều kiện nhận hỗ trợ từ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), người lao động cần đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong vòng 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) hoặc hợp đồng lao động vụ (HĐLV) đối với hợp đồng không xác định thời hạn và hợp đồng xác định thời hạn Đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc giúp việc gia đình có thời hạn từ 3 tháng đến dưới 12 tháng, yêu cầu là đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng Ngoài ra, để được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm và học nghề, người lao động cần tham gia BHTN từ đủ 9 tháng trở lên trong vòng 24 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ hoặc HĐLV.
Để đủ điều kiện nhận trợ cấp thất nghiệp, người lao động cần nộp hồ sơ tại Trung tâm dịch vụ việc làm trong vòng 03 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động tự do.
Nếu sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN mà vẫn chưa tìm được việc làm, người lao động sẽ được xem xét hỗ trợ Ngày đầu tiên trong thời hạn 15 ngày này tính từ ngày đăng ký thất nghiệp, và chỉ tính các ngày làm việc Thời hạn này không áp dụng cho những trường hợp đang thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an hoặc đi học tập kéo dài.
Người từ 12 tháng tuổi trở lên có thể bị áp dụng các biện pháp như đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc Ngoài ra, những người này cũng có thể bị tạm giam hoặc chấp hành hình phạt tù Trong trường hợp ra nước ngoài định cư hoặc đi lao động theo hợp đồng, hoặc trong trường hợp tử vong, các biện pháp này sẽ không còn hiệu lực.
Phương thức đóng BHTN hoàn toàn phụ thuộc vào doanh nghiệp, do đó, khi doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ như trốn đóng, đóng không đủ, hoặc giải thể, quyền hưởng BHTN của người lao động sẽ phải căn cứ vào các điều kiện khác để xác định.
BẢO HIỂM Y TẾ
Nghĩa vụ tham gia bảo hiểm y tế tại doanh nghiệp
Hiện nay, bảo hiểm y tế (BHYT) tại Việt Nam bao gồm hai hình thức: BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung vào BHYT bắt buộc Theo Điều 12 của Luật BHYT năm 2008 và khoản 6 Điều 1 của Luật BHYT năm 2014, đối tượng tham gia BHYT bắt buộc được phân chia thành các nhóm đóng, bao gồm người lao động (NLĐ) làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng có thời hạn từ 3 tháng trở lên, người quản lý doanh nghiệp hưởng lương, cán bộ, công chức, viên chức, và những người hoạt động không chuyên trách tại xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật.
Tất cả các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc đều đóng BHYT theo mức 6% tiền lương tháng hoặc mức lương cơ sở, trong đó, người sử dụng lao động (NSDLĐ) đóng 4% và người lao động (NLĐ) đóng 2% Theo quy định tại Luật BHYT năm 2014, hàng tháng, NSDLĐ có trách nhiệm trích tiền đóng BHYT từ lương của NLĐ và nộp vào quỹ BHYT Cụ thể, NSDLĐ phải thực hiện việc trích tiền đóng BHXH bắt buộc và chuyển vào tài khoản của cơ quan BHXH tại ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước trước ngày cuối cùng của tháng Khi có NLĐ tham gia BHYT bắt buộc, NSDLĐ cần lập danh sách kèm theo Tờ khai tham gia BHYT lần đầu và gửi tới cơ quan BHXH Trong vòng 10 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ, cơ quan BHXH sẽ cấp thẻ BHYT cho NSDLĐ hoặc NLĐ.
Cũng giống như tham gia BHXH bắt buộc, người lao động (NLĐ) thuộc đối tượng tham gia BHYT bắt buộc không thể tự nộp hồ sơ cho cơ quan BHXH hoặc tự trích tiền lương để đóng vào quỹ BHYT, mà phải thông qua người sử dụng lao động (NSDLĐ).
Điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm y tế
Kể từ ngày 01/8/2017, mã số BHXH của người lao động được thống nhất với số thẻ BHYT, và thẻ BHYT chỉ ghi ngày bắt đầu có giá trị mà không ghi thời gian hết hạn Trước đó, thẻ BHYT của người lao động tại doanh nghiệp có thời hạn tối đa 01 năm, từ đầu tháng đóng BHYT đến ngày 31/12 trong năm.
Theo quy định tại Điều 26, Điều 27, Điều 28 Luật BHYT, NLĐ muốn được hưởng chế độ BHYT thì phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Khi đi khám chữa bệnh, NLĐ phải xuất trình thẻ BHYT còn giá trị sử dụng và giấy tờ tùy thân có ảnh hợp lệ
Người lao động (NLĐ) khi khám chữa bệnh tại cơ sở đăng ký ban đầu hoặc chuyển viện đúng tuyến chuyên môn kỹ thuật và thực hiện đầy đủ thủ tục bảo hiểm y tế (BHYT) sẽ được hưởng quyền lợi Trong trường hợp cấp cứu, NLĐ có thể được tiếp nhận tại bất kỳ cơ sở khám chữa bệnh nào, nhưng cần xuất trình thẻ BHYT và giấy tờ tùy thân có ảnh hợp lệ trước khi ra viện Tuy nhiên, tình trạng cấp cứu phải được cơ sở khám chữa bệnh xác nhận Nếu NLĐ đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu tại các cơ sở tuyến huyện, họ có thể khám chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở nào cùng tuyến.
Thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) của người lao động (NLĐ) phải còn giá trị sử dụng và có hiệu lực kể từ ngày NLĐ đóng BHYT Trong trường hợp NLĐ đang trong quá trình cấp lại hoặc đổi thẻ BHYT, khi đi khám chữa bệnh cần cung cấp giấy hẹn cấp lại hoặc đổi thẻ do cơ quan bảo hiểm xã hội (BHXH) cấp cùng với giấy tờ tùy thân Điều này được quy định tại Điều 8 Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014, hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế.
Khi tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) bắt buộc, người lao động (NLĐ) sẽ được hưởng quyền lợi BHYT khi khám và chữa bệnh, bao gồm cả dịch vụ khám bệnh, chẩn đoán, điều trị và xét nghiệm trong cả trường hợp ngoại trú lẫn nội trú.
32 Công văn số: 3340/BHXH-ST ngày 08/8/2017 về việc cấp sổ BHXH, thẻ BHYT theo mã số BHXH của BHXH Việt Nam
Theo quy định tại điểm b mục 1.1, khoản 1 Điều 47 Quyết định số 959/QĐ-BHXH ngày 09/9/2015, việc quản lý thu BHXH, BHYT, BHTN và sổ BHXH, thẻ BHYT được quy định rõ ràng Người lao động (NLĐ) được thanh toán toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định cho các chi phí khám chữa bệnh như chẩn đoán hình ảnh, phẫu thuật, và chi phí sinh con Tuy nhiên, phần chi phí không được quỹ BHYT thanh toán sẽ do NLĐ tự chi trả Với nguyên tắc “mức đóng theo thu nhập, mức hưởng theo bệnh lý”, BHYT cam kết đảm bảo nhu cầu chăm sóc sức khỏe và an toàn tài chính cho NLĐ.
Quyền hưởng bảo hiểm y tế của người lao động trong trường hợp người sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ thực hiện bảo hiểm y tế
Điều 49 Luật BHYT năm 2008 có quy định trường hợp không đóng hoặc đóng không đầy đủ theo quy định của pháp luật thì NSDLĐ phải đóng đủ số tiền chưa đóng nhưng không quy định việc thanh toán chi phí KCB cho người tham gia BHYT trong thời gian nợ đóng BHYT Do đó, Công văn số 2228/BYT-BH ngày 26/4/2011 về việc truy thu và giải quyết quyền lợi về BHYT, Công văn số 6168/BYT-BH ngày 03/10/2011 về việc giải quyết quyền lợi KCB trong thời gian không đóng BHYT, Công văn số 2005/BYT-BH ngày 12/4/2016 về việc thanh toán chi phí KCB BHYT đối với NLĐ làm việc tại các doanh nghiệp đã thực hiện truy đóng BHYT cùng của Bộ Y tế đều khẳng định như sau: i) Luật BHYT số 25/2008/QH12 và các văn bản hướng dẫn thực hiện không quy định việc cho truy hưởng BHYT đối với NLĐ trong thời gian đơn vị sử dụng lao động không đóng, chậm đóng BHYT sau đó đã thực hiện việc truy đóng BHYT; ii) Việc truy thu tiền đóng BHYT: thực hiện theo quy định của khoản 1 Điều 11 Luật BHYT: cùng với việc phải đóng đủ số tiền tham gia BHYT chưa đóng cho NLĐ còn phải nộp số tiền lãi trong thời gian chậm đóng theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố; iii) Việc cấp thẻ BHYT: cấp giấy xác nhận cho NLĐ về việc tham gia BHYT trong thời gian không được cấp thẻ BHYT sau khi đã truy đóng BHYT; iv)
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) và các văn bản hướng dẫn, không có quy định cho phép truy hưởng BHYT đối với người lao động (NLĐ) trong thời gian người sử dụng lao động (NSDLĐ) không đóng hoặc chậm đóng BHYT, ngay cả khi sau đó đã thực hiện truy đóng Điều này dẫn đến việc quỹ BHYT không thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho NLĐ trong thời gian NSDLĐ vi phạm nghĩa vụ đóng BHYT Để nâng cao trách nhiệm của NSDLĐ, Điều 49 Luật BHYT năm 2014 quy định rằng NSDLĐ không chỉ phải đóng đủ số tiền còn thiếu mà còn phải hoàn trả toàn bộ chi phí khám chữa bệnh mà NLĐ đã chi trả trong thời gian chưa có thẻ BHYT Quy định này giúp bảo vệ quyền lợi cho NLĐ, đảm bảo an toàn cho quỹ BHYT và thuận lợi cho cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc giải quyết chế độ cho NLĐ, đồng thời khẳng định rằng các chi phí khám chữa bệnh phát sinh trong thời gian NSDLĐ chậm đóng BHYT không thuộc trách nhiệm thanh toán của quỹ BHYT.
Tại bản án số: 01/2018/LĐ-PT ngày 26/01/2018 về việc “Tranh chấp BHTN,
TAND tỉnh Bình Định đã xử lý vụ việc liên quan đến ông A, người không có thẻ BHYT do Công ty nợ tiền BHXH, dẫn đến việc ông không được hưởng chế độ BHYT khi điều trị tại bệnh viện Ông A đã yêu cầu Công ty thanh toán chi phí điều trị tại nhà, 20% chi phí điều trị đồng chi trả với BHYT và tiền mua BHYT tự nguyện Tòa án đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông A, khẳng định việc áp dụng đúng tinh thần của Điều 49 Luật BHYT năm 2014.
Bản án số 107/2018/LĐ-PT của TAND TP Hồ Chí Minh liên quan đến tranh chấp lao động về bảo hiểm xã hội và bồi thường thiệt hại khi chấm dứt hợp đồng lao động Bà N làm việc tại Công ty từ tháng 02/2014 đến tháng 5/2015 nhưng không được tham gia bảo hiểm y tế (BHYT), dẫn đến việc không được hưởng chế độ nghỉ bệnh Bà N đã khởi kiện Công ty yêu cầu thanh toán chi phí điều trị bệnh, nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã bác bỏ yêu cầu này Tuy nhiên, tòa án phúc thẩm đã nhận định rằng Công ty có trách nhiệm thanh toán chi phí khám chữa bệnh và tiền lương trong thời gian nghỉ bệnh do không thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm theo quy định pháp luật Do đó, Công ty phải thanh toán số tiền mà bà N đã chi để mua BHYT theo hộ gia đình, khẳng định rằng tòa án áp dụng Điều 49 Luật BHYT để bảo vệ quyền lợi của người lao động trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ BHYT.
34 Phụ lục số 5 của Luận văn
35 Phụ lục số 11 của Luận văn
Trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm y tế (BHYT) và sau đó chấm dứt hoạt động, quyền lợi khám chữa bệnh của người lao động (NLĐ) sẽ không được đảm bảo Pháp luật hiện tại chưa quy định rõ ràng về việc ai sẽ thanh toán quyền lợi BHYT khi doanh nghiệp không còn tồn tại Một ví dụ điển hình là bản án số 01/2017/LĐ-ST của TAND tỉnh Khánh Hòa, liên quan đến ông Thái, NLĐ tại Công ty TNHH Sao Đại Hùng, nơi đã nợ tiền BHYT Mặc dù cơ quan BHXH đã truy thu khoản nợ này, nhưng Công ty đã chấm dứt hoạt động trước khi hoàn thành nghĩa vụ Bản án sơ thẩm chỉ ra rằng chi phí khám chữa bệnh trong thời gian Công ty chậm đóng BHYT không thuộc trách nhiệm của BHXH Hơn nữa, Luật BHYT năm 2008 và 2014 không yêu cầu BHXH phải hoàn trả tiền BHYT đã đóng, ngay cả khi khoản nợ được truy thu thành công Do đó, yêu cầu của ông Thái về việc đòi lại tiền BHYT và chi phí khám chữa bệnh không được chấp nhận, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
36 Phụ lục số 12 của Luận văn
37 Bản án số: 03/2017/LĐ-PT ngày 04/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng (xem Phụ lục số 13 của Luận văn)
Theo Khoản 28 Điều 1 Luật BHYT năm 2014, cơ quan, tổ chức và người sử dụng lao động (NSDLĐ) có trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế (BHYT) Nếu không đóng hoặc đóng không đầy đủ, họ sẽ bị xử lý và phải hoàn trả toàn bộ chi phí cho người lao động (NLĐ) trong phạm vi quyền lợi BHYT mà NLĐ đã chi trả Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp đã chấm dứt hoạt động sau khi cơ quan bảo hiểm xã hội đã truy đòi thành công, NLĐ sẽ không có cơ sở để hưởng chế độ BHYT, dẫn đến việc không được thanh toán chi phí khám, chữa bệnh trong thời gian doanh nghiệp vi phạm nghĩa vụ đóng BHYT Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của NLĐ, khi họ đã hoàn thành nghĩa vụ của mình nhưng lại mất đi quyền lợi do sự vi phạm của doanh nghiệp.
Theo Điều 47 Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017, nếu người lao động phát sinh chi phí khám chữa bệnh do người sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, và thẻ BHYT hết giá trị sử dụng từ 30 ngày trở lên, cơ quan BHXH sẽ thanh toán trực tiếp chi phí khám chữa bệnh sau khi đơn vị đóng đủ số tiền chậm đóng BHYT.
Quyết định số 888/QĐ-BHXH ngày 16/7/2018 quy định rằng nếu đối tượng tại Khoản 1 Điều 17 chậm đóng bảo hiểm y tế (BHYT) từ 30 ngày trở lên, thì đơn vị sử dụng lao động sẽ phải chịu trách nhiệm theo Điều 49 của Luật BHYT sửa đổi, bổ sung.
Tác giả đồng tình với quy định tại khoản 2 Điều 47 Quyết định 595/QĐ-BHXH, cho rằng quy định này giúp bảo vệ quyền lợi của người lao động khi nhà sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm y tế (BHYT) Điều này đảm bảo nguyên tắc chia sẻ rủi ro trong BHYT, khi trách nhiệm thanh toán chi phí khám chữa bệnh không chỉ thuộc về nhà sử dụng lao động Hơn nữa, việc không cần xác định tình trạng hoạt động của nhà sử dụng lao động khi nộp tiền chậm đóng BHYT cũng mang lại sự linh hoạt hơn cho người lao động Tuy nhiên, việc hưởng chế độ BHYT của người lao động vẫn chưa được kịp thời do phải chờ nhà sử dụng lao động hoàn tất nghĩa vụ nộp tiền.
Ngoài việc giao nhiệm vụ đảm bảo quyền hưởng bảo hiểm y tế cho người lao động cho cơ quan bảo hiểm xã hội, tác giả cũng đưa ra các đề xuất nhằm khắc phục tình trạng này.
Cần nâng cao chế tài xử phạt vi phạm hành chính và điều chỉnh mức lãi suất chậm nộp Đồng thời, cần sửa đổi quy định về xử lý doanh nghiệp giải thể, phá sản, đặc biệt là quyền ưu tiên thanh toán tiền bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm xã hội (BHXH) Quy định này nên được đặt sau việc trả lương cho người lao động để đảm bảo rằng không xảy ra tình trạng xử lý các khoản nợ có đảm bảo khác, dẫn đến việc không còn tài sản để thanh toán tiền bảo hiểm cho cơ quan BHXH.
39 Đối tượng này là các đối tượng bắt buộc tham gia BHYT theo quy định tại Điều 12 Luật BHYT
Cần chuyển giao quyền khởi kiện bảo hiểm cho Công đoàn cấp trên hoặc trả lại cho cơ quan BHXH, vì Công đoàn cơ sở thường thiếu am hiểu pháp luật và e ngại kiện chủ doanh nghiệp Thủ tục khởi kiện cần được đơn giản hóa, chỉ cần quyết định xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan BHXH là đủ cơ sở khởi kiện mà không cần Giấy ủy quyền của NLĐ hay Biên bản hòa giải Trước năm 2016, khi cơ quan BHXH có quyền khởi kiện, số nợ thu hồi rất lớn, nhưng từ khi chuyển quyền cho Công đoàn, đã gặp nhiều vướng mắc Để đạt hiệu quả cao, các biện pháp dân sự và hành chính cần được thực hiện đồng bộ.
Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan như BHXH, Lao động – Thương binh và Xã hội, Thuế, Công an, UBND và Thanh tra để nắm rõ thông tin về những doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp chậm hoặc trốn đóng bảo hiểm cho người lao động Việc thanh tra, kiểm tra tình trạng đóng bảo hiểm và chia sẻ thông tin về các vi phạm là rất quan trọng Đặc biệt, khi chủ doanh nghiệp có ý định xuất cảnh, cần xem xét không cho họ rời khỏi nước nhằm ngăn chặn tình trạng bỏ trốn Hơn nữa, việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung giữa cơ quan thuế và BHXH sẽ giúp quản lý hiệu quả hơn, vì cả hai đều có chung đối tượng quản lý là doanh nghiệp và cách thức quản lý thông qua tài chính.
Cần cụ thể hóa chế tài xử lý vi phạm nghĩa vụ bảo hiểm, đặc biệt là khi doanh nghiệp nợ tiền bảo hiểm trong thời gian dài Quy định hiện tại chưa đủ rõ ràng để đảm bảo tính nghiêm minh trong việc thực thi trách nhiệm này.
Theo quy định hiện hành, thời hạn khởi kiện về dân sự là 12 tháng, trong khi đó, để truy tố theo Bộ luật hình sự, hành vi vi phạm phải kéo dài từ 6 tháng trở lên Nếu không có những quy định cụ thể, doanh nghiệp có thể "lách luật" bằng cách nộp một phần khoản nợ hoặc cam kết trả nợ, tránh bị đưa ra Tòa Hiện tại, chưa có hướng dẫn rõ ràng về các hành vi "gian dối", "gian lận" hay "thủ đoạn" để trốn đóng BHXH, do đó, việc hình sự hóa các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH vẫn gặp khó khăn.