1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Quyền hạn của thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự việt nam

56 35 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quyền Hạn Của Thẩm Phán Chủ Tọa Phiên Tòa Trong Chuẩn Bị Xét Xử Sơ Thẩm Theo Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Tác giả Hồ Hoàn Kiếm
Người hướng dẫn Ts. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh
Trường học Trường Đại Học Luật Tp Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 56
Dung lượng 4,09 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. QUYỀN TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA (10)
    • 1.1. Quy định của pháp luật về quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (10)
    • 1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (13)
    • 1.3. Kiến nghị hoàn thiện (21)
  • CHƯƠNG 2. QUYỀN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ CỦA THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA (30)
    • 2.1. Quy định của pháp luật về quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cƣỡng chế của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (30)
    • 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cƣỡng chế của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (33)
    • 2.3. Kiến nghị hoàn thiện (37)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

QUYỀN TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Quy định của pháp luật về quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

1.1 Quy định của pháp luật về quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

 Khái niệm, đặc điểm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của của

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là một hoạt động tố tụng quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nhằm khắc phục thiếu sót trong quá trình điều tra và truy tố Hành động này được thực hiện theo quyết định của Viện kiểm sát, dựa trên các căn cứ quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án diễn ra một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung có ý nghĩa chính trị - pháp lý quan trọng, là một chế định pháp luật cần thiết nhằm đảm bảo hoạt động điều tra và truy tố tuân thủ quy định pháp luật Hoạt động này giúp xét xử vụ án hình sự một cách đúng đắn, khách quan và toàn diện, bảo vệ quyền con người và quyền công dân trong tố tụng hình sự Qua đó, các cơ quan tố tụng có thể đánh giá nguyên nhân của những vấn đề đã xảy ra, kịp thời sửa chữa những tồn tại và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có một số đặc điểm sau:

- Chủ thể trả hồ sơ điều tra bổ sung là Thẩm phán được phân công nghiên cứu vụ án (ở giai đoạn chuẩn bị xét xử)

- Chủ thể nhận hồ sơ do Tòa án trả để điều tra bổ sung là Viện kiểm sát nơi ra quyết định truy tố

Trong giai đoạn xét xử, chủ thể trả hồ sơ điều tra bổ sung là Viện kiểm sát, trong khi chủ thể nhận hồ sơ là Cơ quan điều tra, nơi đã ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố Điều này khác với giai đoạn truy tố, nơi các chủ thể có vai trò khác nhau.

 Căn cứ trả: 04 căn cứ (Điều 280 BLTTHS)

Theo khoản 1 Điều 280 BLTTHS, Tòa án có thể trả hồ sơ cho VKS để yêu cầu điều tra bổ sung dựa trên 4 căn cứ cụ thể Những căn cứ này được hướng dẫn chi tiết trong Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP, quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Khi không có đủ chứng cứ để chứng minh các vấn đề theo Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự và không thể bổ sung tại phiên tòa, việc này sẽ ảnh hưởng đến quá trình xét xử Theo Thông tư số 02/2017, các chứng cứ cần thiết để chứng minh trong vụ án hình sự được quy định rõ ràng, và việc thiếu chứng cứ sẽ dẫn đến khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Chứng cứ 280 BLTTHS đóng vai trò quan trọng trong việc chứng minh các vấn đề theo quy định tại Điều 85 và Điều 441 của Bộ luật Tố tụng hình sự Thiếu những chứng cứ này sẽ gây cản trở trong việc giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

Khi có cơ sở cho rằng bị can hoặc bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự, có hai trường hợp có thể xảy ra.

VKS đã truy tố bị can về một hay nhiều tội, tuy nhiên, chứng cứ trong hồ sơ lại cho thấy hành vi của bị can và bị cáo đã cấu thành một hay nhiều tội khác.

Ngoài những tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố, các chứng cứ thu thập được còn cho thấy có đủ căn cứ để khởi tố bị can về một hoặc nhiều tội danh khác.

Khi có dấu hiệu cho thấy tồn tại đồng phạm khác hoặc có cá nhân thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố, việc điều tra và xử lý là cần thiết để đảm bảo công lý.

Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra và truy tố có thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đồng thời ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án Theo Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC, các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Những vi phạm cụ thể như không thay đổi kiểm sát viên, điều tra viên hay giám định viên khi cần thiết, hoặc không thực hiện giám định bắt buộc, đều có thể dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị can và quyền lợi của các bên liên quan trong vụ án.

 Thời hạn, số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 174 BLTTHS 2015, Tòa án có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung với thời hạn không quá 01 tháng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được phép trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần, và Hội đồng xét xử cũng chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung một lần.

Theo khoản 2 Điều 274, khi Tòa án trả lại hồ sơ điều tra bổ sung, thời hạn điều tra không quá 01 tháng kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ Tuy nhiên, luật không quy định thời hạn VKS chuyển hồ sơ và quyết định điều tra bổ sung cho CQĐT, vì Tòa án chỉ trả hồ sơ cho VKS, không phải trực tiếp cho cơ quan điều tra Mặc dù Thông tư liên tích số 02/2017 đã hướng dẫn quy trình này, nhưng vẫn chưa làm rõ thời gian cụ thể cho việc VKS "chuyển ngay" hồ sơ cho cơ quan điều tra.

 Hậu quả pháp lý của việc trả hồ sơ điều tra bổ sung:

Khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung, Viện kiểm sát cần cung cấp tài liệu và chứng cứ cần thiết Nếu điều tra bổ sung dẫn đến việc đình chỉ vụ án, Viện kiểm sát sẽ ra quyết định đình chỉ và thông báo cho Tòa án Tuy nhiên, nếu Viện kiểm sát không thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung hoặc vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

 Căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung, nội dung yêu cầu điều tra bổ sung

 Căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung

Thứ nhất , thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy còn tồn tại tình trạng trả hồ sơ chưa đúng căn cứ và thẩm quyền

Tại quyết định số 03/2020/HSST-QĐ ngày 19 tháng 06 năm 2020 của TAND huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận do Thẩm phán Lâm Quốc Tuấn kí

Quyết định trả hồ sơ vụ án nhằm mục đích để VKSND huyện Bắc Bình giải quyết theo thẩm quyền, nhưng tác giả cho rằng quyết định này chưa đúng quy định của luật tố tụng hình sự Cụ thể, theo khoản 1 Điều 277 BLTTHS, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, và 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày thụ lý vụ án.

 Đưa vụ án ra xét xử;

 Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;

 Tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có quyền trả hồ sơ vụ án “để VKSND giải quyết theo thẩm quyền” Thay vào đó, chỉ có trường hợp “trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung” được áp dụng.

Tác giả cho rằng trường hợp Tòa án quyết định "trả hồ sơ vụ án" khi VKSND phát hiện hồ sơ có vấn đề là một dạng linh hoạt Tuy nhiên, theo Điều 44, 45 BLTTHS, không có quy định cụ thể về việc "trả hồ sơ vụ án" Mặc dù Điều 274 BLTTHS quy định rằng Tòa án sẽ trả hồ sơ cho Viện kiểm sát khi vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử, nhưng vẫn chưa rõ thẩm quyền này thuộc về Chánh án, Phó Chánh án hay Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.

Tác giả nhấn mạnh rằng khi có đủ căn cứ để "trả hồ sơ vụ án" theo quy định, cần bổ sung thẩm quyền này cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, dựa theo Điều 45 và Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS).

Hiện nay, có quan điểm cho rằng Tòa án, cụ thể là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) khi có căn cứ cho rằng ngoài hành vi đã được xác định.

Viện kiểm sát đã truy tố bị can về hành vi vi phạm pháp luật, tuy nhiên, căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 280 BLTTHS, cần xác minh xem có đồng phạm hoặc người khác thực hiện hành vi phạm tội liên quan đến vụ án nhưng chưa bị khởi tố hay không Việc này cho thấy sự cần thiết phải điều tra kỹ lưỡng để đảm bảo tính chính xác và công bằng trong quá trình tố tụng.

Chẳng hạn như tại Quyết định 10/2008/HSST-QĐ ngày 28 tháng 10 năm

Vào năm 2008, Tòa án nhân dân Quận Đống Đa – Tp.HN đã yêu cầu điều tra bổ sung hồ sơ vụ án, cho rằng các bị can không chỉ phạm tội gây rối trật tự công cộng mà còn có hành vi hủy hoại tài sản Tòa án yêu cầu truy tố các bị can về hai tội danh riêng biệt, không coi hành vi hủy hoại tài sản là tình tiết tăng nặng của tội gây rối trật tự công cộng.

+ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân được quy định tại Điều

280 Bộ luật Tố tụng hình sự Tuy nhiên, theo tác giả, tại điểm b, c khoản 1 Điều

Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rằng Tòa án có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng bị can thực hiện hành vi khác mà Viện kiểm sát chưa truy tố Tuy nhiên, việc này không phù hợp vì chức năng khởi tố và điều tra vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát Tòa án chỉ có trách nhiệm chứng minh tội phạm và xét xử các bị cáo đã bị Viện kiểm sát truy tố, mà không yêu cầu truy tố thêm tội danh khác hoặc đồng phạm mới trong vụ án.

Khi Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung vì bị cáo phạm tội khác, tội này phải nặng hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố Nếu tội nhẹ hơn, Tòa có thể xét xử mà không cần trả hồ sơ Việc trả hồ sơ với lý do có đồng phạm khác đồng nghĩa với việc Tòa yêu cầu Viện kiểm sát truy tố thêm bị cáo mới Cả hai lý do này thuộc chức năng của cơ quan buộc tội và trái với chức năng xét xử của Tòa Trong trường hợp Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo phạm tội khác qua xét hỏi, tranh tụng, vẫn tiến hành xét xử theo truy tố của Viện kiểm sát và kiến nghị khởi tố tội mới Nếu có đồng phạm khác, dựa vào chứng cứ và kết quả tranh tụng, Tòa sẽ tiếp tục xử đối với bị cáo này và kiến nghị Viện kiểm sát khởi tố bị cáo khác trong cùng vụ án.

Tòa án khi xét xử cần tuân thủ giới hạn theo Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự Việc giao hồ sơ để điều tra bổ sung theo điểm b khoản 1 Điều 280 BLTTHS sẽ vi phạm quy định tố tụng hình sự và tinh thần cải cách tư pháp, nhấn mạnh rằng phán quyết của tòa án phải dựa chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, như nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02.01.2002 của Bộ Chính trị.

Cần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên tòa, cũng như khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng Việc bổ sung chứng cứ quan trọng nhằm làm sáng tỏ vụ án, đồng thời đảm bảo rằng việc giải quyết vụ án diễn ra khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.

 Nội dung yêu cầu điều tra bổ sung

Hiện nay, một số quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung có nội dung chưa rõ ràng, gây khó khăn cho Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu điều tra bổ sung từ Tòa án.

Chẳng hạn như tại Quyết định 15/2018/HSST-QĐ ngày 22 tháng 10 năm

Vào năm 2018, Tòa án nhân dân Quận 8, Tp.HCM đã ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhằm làm rõ vật chứng theo đúng quy định của pháp luật.

Mặc dù Điều 280 BLTTHS quy định rằng "Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung", nhưng Quyết định 15/2018/HSST-QĐ ngày 22 tháng 10 năm lại không tuân thủ quy định này.

2018 của Tòa án nhân dân Quận 8 – Thành phố Hồ Chí Minh chỉ nêu yêu cầu

Để làm rõ vật chứng theo đúng quy định của pháp luật, cần xác định cụ thể loại vật chứng và các vấn đề cần làm rõ Việc này sẽ giúp nội dung điều tra bổ sung của Viện kiểm sát trở nên rõ ràng và hiệu quả hơn.

Kiến nghị hoàn thiện

Trong thời gian qua, Tòa án đã có những chuyển biến tích cực trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều khó khăn và hạn chế do bất cập trong quy định pháp luật và nhận thức cũng như tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng Để hoàn thiện chế định “điều tra bổ sung” trong hoạt động tố tụng hình sự, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình này.

 Bổ sung thẩm quyền của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

Theo quy định tại khoản 1 Điều 274 BLTTHS, khi vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử, Tòa án sẽ trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền Tuy nhiên, Điều 44 và 45 BLTTHS chưa xác định rõ thẩm quyền trong trường hợp này thuộc về Chánh án, Phó Chánh án hay Thẩm phán chủ tọa phiên tòa Do đó, tác giả đề xuất cần bổ sung thẩm quyền “trả hồ sơ vụ án” cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa theo quy định tại Điều 45 và Điều 277 BLTTHS.

 Căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, nội dung yêu cầu điều tra bổ sung

Chúng tôi cho rằng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án là cần thiết nhằm làm rõ vụ án, đảm bảo xét xử khách quan và toàn diện, đồng thời duy trì tính phối hợp và chế ước trong tố tụng Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 BLTTHS, nếu có căn cứ cho rằng bị can đã thực hiện hành vi khác ngoài hành vi bị Viện kiểm sát truy tố, việc điều tra bổ sung càng trở nên quan trọng.

Bộ luật hình sự quy định là tội phạm" ; và điểm c khoản 1 Điều 280 BLTTHS

Cần sửa đổi quy định về thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật hình sự, chỉ cho phép Hội đồng xét xử thực hiện quyền này sau khi đã tiến hành xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chỉ nên thực hiện các thủ tục tố tụng cần thiết để đưa vụ án ra xét xử nếu đủ điều kiện, mà không được ra quyết định về nội dung vụ án như trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay đình chỉ vụ án.

Thẩm phán chỉ đang trong quá trình nghiên cứu hồ sơ và chưa mở phiên tòa, do đó chưa thể xác định được có thiếu chứng cứ quan trọng hay không để trả hồ sơ điều tra bổ sung Hơn nữa, Tòa án chưa quyết định đưa bị cáo ra xét xử, vì vậy thẩm phán không thể tùy tiện cho rằng bị cáo phạm tội khác để yêu cầu điều tra bổ sung Bị cáo đã được Tòa án quyết định đưa ra xét xử theo quy định tại Điều 50.

Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rằng phán quyết của Tòa án chủ yếu dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, theo Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02.01.2002 của Bộ Chính trị Việc xác định có vi phạm nghiêm trọng tố tụng hay không cần phải thông qua xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, chứ không chỉ dựa vào hồ sơ Do đó, quyết định của Thẩm phán về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung không phù hợp với bản chất của xét xử và tinh thần cải cách tư pháp hiện nay.

Trong quá trình tố tụng, xét xử là giai đoạn quyết định tính đúng đắn và khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, công dân Tại phiên tòa, phần xét hỏi đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ, từ đó xác định nội dung và thực chất vụ án để rút ra kết luận đúng Phiên tòa là nơi thực hiện cuộc điều tra chính thức nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án thông qua thủ tục công khai và toàn diện Các bên có quyền và lợi ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào chữa, nguyên đơn, bị đơn) thực hiện việc chứng minh một cách bình đẳng và dân chủ, trong đó việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ được thực hiện tại phiên tòa Tòa án xác định sự thật của vụ án dựa trên chứng cứ thu thập và thẩm tra, cùng với sự cân nhắc và đánh giá của các bên tham gia tố tụng.

Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận thấy cần xem xét thêm các chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên tòa Việc này dẫn đến vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, buộc Tòa án phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để tiến hành điều tra bổ sung Quy trình trả hồ sơ để điều tra bổ sung sau khi đã xét hỏi và tranh luận sẽ giúp hạn chế tình trạng trả hồ sơ nhiều lần và đảm bảo tính chính xác của quyết định của Tòa án.

Sửa đổi điểm b,c khoản 1 Điều 280 BLTTHS quy định rằng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung trong trường hợp có căn cứ cho rằng bị can thực hiện hành vi khác hoặc có đồng phạm liên quan đến vụ án chưa được khởi tố Theo đó, chỉ Hội đồng xét xử mới có thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, và việc này chỉ được thực hiện sau khi Hội đồng xét xử đã tiến hành xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chỉ thực hiện các thủ tục tố tụng cần thiết để đưa vụ án ra xét xử nếu đủ điều kiện.

Hiện nay, có sự mâu thuẫn giữa quy định tại điểm d khoản 1 Điều 280 BLTTHS và khoản 2 Điều 6 Thông tư số 02/2017, khi Thông tư quy định Tòa án không trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng Trong khi đó, BLTTHS lại coi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là lý do để trả hồ sơ Tác giả cho rằng quy định trong Thông tư không phù hợp, vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thường dẫn đến việc xâm hại quyền lợi của người tham gia tố tụng Do đó, cần điều chỉnh quy định tại điểm a khoản 2 Điều 6 TTLT số 02/2017 để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

 Thời hạn điều tra bổ sung

Cần có quy định rõ ràng trong văn bản hướng dẫn rằng, nếu Tòa án trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, thì thời hạn điều tra bổ sung không được vượt quá 01 tháng Điều này đặc biệt quan trọng khi Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát (VKS), và VKS không thực hiện điều tra bổ sung mà lại trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung.

Kiến nghị sửa đổi quy định về thời hạn điều tra bổ sung cần được thực hiện theo từng trường hợp cụ thể, bao gồm án ít nghiêm trọng, án nghiêm trọng, án rất nghiêm trọng và án đặc biệt nghiêm trọng Hiện tại, Điều 280 BLTTHS quy định thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung tối đa là hai tháng đối với Viện kiểm sát và một tháng đối với Tòa án là không hợp lý, đặc biệt là đối với các vụ án phức tạp, đông bị can, và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng Do đó, cần có quy định cụ thể hơn về thời hạn điều tra bổ sung cho từng loại án, vì trong thực tế, việc hoàn thành điều tra bổ sung trong hai tháng là rất khó khăn Hơn nữa, cần lưu ý rằng điều tra bổ sung không được gia hạn.

 Số lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung

Khoản 2 Điều 174 BLTTHS năm 2015 quy định rằng Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần, và HĐXX cũng chỉ được thực hiện điều này một lần Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều trường hợp cần điều tra bổ sung hơn một lần, như khi chưa điều tra hết nội dung trong Quyết định yêu cầu hoặc khi kết quả điều tra bổ sung phát sinh vấn đề mới Nếu Tòa án không tiếp tục trả hồ sơ, việc giải quyết vụ án sẽ không đảm bảo khách quan và thiếu chứng cứ cần thiết, dẫn đến khả năng bản án bị cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm tuyên hủy, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo Do đó, cần hiểu rằng số lần Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung là: Thẩm phán chủ tọa chỉ được trả hồ sơ một lần cho mỗi nội dung yêu cầu, tối đa 02 lần cho vụ án ít nghiêm trọng, 03 lần cho vụ án rất nghiêm trọng.

Trong trường hợp TP đặc biệt nghiêm trọng, cần thực hiện 04 lần nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án để phát hiện tất cả các nội dung cần yêu cầu điều tra bổ sung Sau đó, ra yêu cầu điều tra bổ sung cho các nội dung này trong cùng một quyết định.

Sau khi VKSND tiến hành điều tra bổ sung, có thể xảy ra việc thay đổi Cáo trạng bằng cách truy tố thêm bị can hoặc tội danh mới Điều này dẫn đến việc xuất hiện các trường hợp cần điều tra bổ sung liên quan đến những nội dung chưa được yêu cầu trước đó Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền trả hồ sơ để yêu cầu điều tra các nội dung mới mà không vi phạm quy định về số lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung Mặc dù Điều 174 BLTTHS năm 2015 quy định rằng thẩm phán chỉ được trả hồ sơ ĐTBS một lần nhằm tránh lạm dụng, nhưng thực tế vẫn xảy ra những vấn đề về chứng cứ và thủ tục vụ án mới phát sinh, buộc thẩm phán phải thực hiện việc trả hồ sơ ĐTBS lần thứ hai.

2003 cũng đã xác lập số lần trả hồ sơ ĐTBS của phẩm phán chủ tọa phiên tòa là

QUYỀN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ CỦA THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Quy định của pháp luật về quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cƣỡng chế của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tố tụng áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế, trong đó có biện pháp ngăn chặn nhằm ngăn chặn tội phạm gây thiệt hại cho xã hội và cản trở điều tra, truy tố, xét xử Biện pháp ngăn chặn không chỉ giúp ngăn chặn người phạm tội tiếp tục hành vi phạm tội mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án, bảo vệ chứng cứ và đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi cần thiết Do đó, biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có những đặc điểm khác biệt so với các biện pháp cưỡng chế và hình phạt trong Luật hình sự.

Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn thuộc về các cơ quan tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và những người có chức vụ được giao nhiệm vụ trong tố tụng Tùy thuộc vào tính chất và giai đoạn tố tụng, Luật tố tụng hình sự quy định rõ ràng các biện pháp ngăn chặn mà các cơ quan này có thể áp dụng, cùng với phạm vi, giới hạn và thủ tục thực hiện.

Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự hạn chế quyền tự do thân thể, đi lại và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến các quyền cơ bản được quy định trong Hiến pháp Do tính nghiêm khắc hơn so với các biện pháp cưỡng chế khác, cơ quan tiến hành tố tụng cần cân nhắc thận trọng khi áp dụng, tránh gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của công dân Luật tố tụng hình sự quy định các biện pháp này nhằm ngăn chặn tội phạm và hỗ trợ giải quyết vụ án, đồng thời yêu cầu tôn trọng quyền tự do dân chủ của công dân, chỉ áp dụng khi thật cần thiết và trong khuôn khổ pháp luật.

BLTTHS Việt Nam không định nghĩa rõ ràng về biện pháp ngăn chặn (BPNC), nhưng Khoản 1 Điều 109 BLTTHS 2015 quy định các căn cứ áp dụng BPNC nhằm ngăn chặn tội phạm kịp thời Cụ thể, BPNC có thể được áp dụng khi có bằng chứng cho thấy người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, hoặc có khả năng tiếp tục phạm tội Các cơ quan, người có thẩm quyền có thể thực hiện các biện pháp như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, và tạm hoãn xuất cảnh.

Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là cần thiết để giải quyết vụ án hình sự, nhưng cần phải cẩn trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân Các biện pháp này không thể được quyết định một cách tùy tiện và phải tuân thủ tuyệt đối các quy định của pháp luật Theo Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn phải dựa trên những căn cứ pháp lý rõ ràng, đảm bảo tính hợp pháp và có cơ sở vững chắc.

 Kịp thời ngăn chặn tội phạm

 Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động xét xử

 Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội

 Bảo đảm cho việc thi hành án

 Căn cứ hủy bỏ hay thay thế biện pháp ngăn chặn

Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn là một cách tiếp cận linh hoạt trong việc giải quyết vụ án hình sự, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng liên quan Điều này không chỉ tăng cường tính nghiêm khắc khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn mà còn thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.

 Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn

Các cơ quan có thẩm quyền quyết định ngừng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với những người đang bị áp dụng biện pháp này.

Tại Điều 125 BLTTHS 2015 quy định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn được tiến hành trong các trường hợp sau:

- Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

- Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;

- Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;

Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt Trong trường hợp khác, bị cáo có thể nhận hình phạt tù nhưng được hưởng án treo, hoặc bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, hoặc cải tạo không giam giữ.

 Thay thế biện pháp ngăn chặn

Cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác thay thế cho biện pháp hiện tại, với khả năng là ít nghiêm khắc hơn hoặc có thể nghiêm khắc hơn tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Thay thế biện pháp ngăn chặn phải thỏa mãn những điều kiện sau:

- Yêu cầu giải quyết vụ án

Thái độ của bị can và bị cáo đối với biện pháp ngăn chặn đang áp dụng là yếu tố quan trọng trong quá trình tố tụng Khi đảm bảo các điều kiện cần thiết, cơ quan tiến hành tố tụng có thể thay thế biện pháp ngăn chặn, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc tác động đến tâm lý và ý thức của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án.

 Những biện pháp ngăn chặn đƣợc quy định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Theo Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh.

 Thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đƣợc quy định trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Theo Điều 278 BLTTHS, sau khi tiếp nhận vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định về việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế Tuy nhiên, việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thuộc thẩm quyền của Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cƣỡng chế của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

 Vướng mắc về thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không phải biện pháp tạm giam

Theo Điều 44 và Điều 45 BLTTHS, Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán có nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng trong việc xử lý vụ án Cụ thể, sau khi tiếp nhận vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế, ngoại trừ biện pháp tạm giam, mà quyền quyết định thuộc về Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án.

Như vậy, BLTTHS đã có sự phân định rõ về thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử:

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định về việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế, ngoại trừ việc tạm giam.

Chánh án và Phó Chánh án Tòa án có quyền quyết định về việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam Tuy nhiên, họ không có thẩm quyền trong việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hay biện pháp cưỡng chế khác không phải tạm giam.

Trong thực tiễn xét xử, có trường hợp Chánh án/Phó Chánh án ra quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không phải tạm giam, điều này thể hiện sự "lấn sân" vào thẩm quyền của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và vi phạm quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) Ví dụ, Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú Số 29/2020/HSST-LCCT ngày 07/8/2020 của TAND TX La Gi tỉnh Bình Thuận đã được Chánh án Tòa án nhân dân ký, nhưng theo tác giả, quyết định này không đúng thẩm quyền theo Điều 44, Điều 278 BLTTHS Theo quy định, thẩm quyền áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú phải thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, không phải Chánh án.

Các cơ quan có thẩm quyền cần xây dựng hướng dẫn để rút kinh nghiệm trong việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm Điều này nhằm đảm bảo quyền quyết định của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS).

 Vướng mắc về thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam

Biện pháp tạm giam là phương thức phổ biến nhất được các Tòa án áp dụng nhằm đảm bảo hiệu quả trong công tác xét xử và thi hành án.

Khi thụ lý vụ án, Tòa án thường duy trì các biện pháp ngăn chặn đã áp dụng trước đó đối với bị cáo Nếu bị cáo đang bị tạm giam, Tòa án sẽ ra lệnh tạm giam theo thời hạn pháp luật cho phép: 3 tháng 15 ngày cho tội đặc biệt nghiêm trọng, 2 tháng 15 ngày cho tội rất nghiêm trọng, 2 tháng cho tội nghiêm trọng, và 1 tháng 15 ngày cho tội ít nghiêm trọng Đối với bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, Tòa án sẽ xem xét khả năng gây cản trở trong quá trình xét xử trước khi quyết định giữ nguyên biện pháp này Tương tự, các biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền, tài sản có giá trị cũng thường được giữ nguyên nếu đã được áp dụng trước đó.

Sau khi thụ lý vụ án, Chánh án hoặc Phó Chánh án sẽ giao hồ sơ cho một Thẩm phán để nghiên cứu và xem xét biện pháp ngăn chặn phù hợp với bị cáo Nếu bị cáo đang tạm giam, Thẩm phán sẽ đánh giá tính cần thiết của việc tiếp tục tạm giam dựa trên hành vi, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo Khi nhận được đơn bảo lãnh từ gia đình bị cáo, Thẩm phán có thể đề xuất hủy biện pháp tạm giam và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc bảo lãnh Tuy nhiên, việc chuyển từ tạm giam sang tại ngoại thường chỉ xảy ra tại các Toà án cấp huyện, trong khi tại Toà án tỉnh Bình Thuận, việc hủy bỏ tạm giam rất hạn chế do tính chất phức tạp và nghiêm trọng của vụ án Một số trường hợp, mặc dù bị cáo có hành vi đơn giản và nhân thân tốt, vẫn không được tại ngoại, gây thiệt thòi cho họ, trong khi biện pháp đặt tiền, tài sản hầu như không được áp dụng.

Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy một số vụ án có sự thiếu sót trong quy trình, khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chưa nghiên cứu hồ sơ hoặc chưa được phân công chính thức Điều này dẫn đến việc Chánh án hoặc Phó Chánh án đã ra quyết định tạm giam bị can mà không tuân thủ đúng quy định.

Trong vụ án Lê Hoàng Huynh, Nguyễn Duy Tân, Nguyễn Công Tiến và Nguyễn Hữu Tặng, những người này bị cáo buộc tội "sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan tổ chức" Vào ngày 25/1/2010, Tòa án Quân sự Khu vực 1 Quân khu 7 đã tiếp nhận hồ sơ vụ án và Cáo trạng, ngay lập tức ra lệnh tạm giam các bị cáo với thời hạn 45 ngày Đến ngày 26/1/2010, Chánh án Tòa án Quân sự Khu vực 1 đã quyết định phân công Thẩm phán Nguyễn Hồng Phong giải quyết và xét xử vụ án hình sự này.

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và không đề xuất áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định pháp luật Chánh án TAQS Khu vực 1 Quân khu 7 đã ban hành Lệnh tạm giam ngay khi nhận hồ sơ vụ án và Cáo trạng, cho thấy khả năng chưa xác định rõ ràng liệu bị can có cần áp dụng biện pháp tạm giam hay không, cũng như chưa có đủ căn cứ để thực hiện việc này.

Trong quá trình nghiên cứu vụ án, tác giả phát hiện nhiều Quyết định tạm giam có ngày ký trùng khớp với ngày thụ lý hồ sơ vụ án.

 Quyết định tạm giam bị can Lê Văn Mẫn, Số 97/2019/HSST-QĐTG ngày 27/11/2019 của TAND huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, có ngày thụ lý vụ án là ngày 27/11/2019

 Quyết định tạm giam bị can Huỳnh Ngọc Hòa, Số 18/2020/HSST-QĐTG ngày 13/3/2020 của TAND huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, có ngày thụ lý vụ án là ngày 13/3/2020

 Quyết định tạm giam bị can Huỳnh Văn Hùng, Số 27/2020/HSST- QĐTG ngày 13/3/2020 của TAND TX La Gi, tỉnh Bình Thuận, có ngày thụ lý vụ án là ngày 13/3/2020

 Quyết định tạm giam bị can Nguyễn Văn Tôi, Số 35/2020/HSST-QĐTG ngày 13/7/2020 của TAND huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, có ngày thụ lý vụ án là ngày 13/7/2020

Tác giả nhấn mạnh rằng cần quy định rõ thẩm quyền áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp tạm giam thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa Người này có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án và thực hiện quá trình xét xử, đảm bảo tính hợp pháp và công bằng trong quyết định.

Kiến nghị hoàn thiện

Để khắc phục tình trạng Chánh án/Phó Chánh án can thiệp vào thẩm quyền của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế không phải tạm giam, cần có hướng dẫn rút kinh nghiệm từ các cơ quan có thẩm quyền Việc này nhằm đảm bảo rằng quyền quyết định của Thẩm phán chủ tọa được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

Thứ hai, về thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam:

Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã hướng dẫn về trường hợp này, cụ thể là:

Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần ngay lập tức kiểm tra các tài liệu liên quan đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, nhằm đưa ra quyết định phù hợp.

Đối với bị can đang tạm giam, nếu thời hạn tạm giam còn lại không quá 5 ngày và cần thiết phải tiếp tục tạm giam, cần đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án ra lệnh tạm giam Thời hạn tạm giam sẽ được tính từ ngày nhận hồ sơ vụ án và không vượt quá 45 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 03 tháng 15 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Khi thời hạn tạm giam của bị can còn lại không quá 5 ngày, cần xem xét việc tiếp tục tạm giam Nếu cần thiết, đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án ra lệnh tạm giam mới Thời hạn tạm giam mới sẽ được tính từ ngày tiếp theo của lệnh tạm giam trước đó, không vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 277 của BLTTHS, trừ thời gian bị can hoặc bị cáo đã bị tạm giam kể từ ngày Tòa án nhận hồ sơ vụ án.

Đối với bị can tại ngoại, nếu sau khi nhận hồ sơ vụ án hoặc trong thời gian nghiên cứu hồ sơ, có nhu cầu áp dụng biện pháp tạm giam, cần đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án ra lệnh bắt và tạm giam ngay lập tức Lệnh bắt và tạm giam phải được ghi rõ ràng.

Thời hạn tạm giam được tính từ ngày bắt giữ cho đến ngày kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, cụ thể là vào ngày tháng năm

Trong trường hợp gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử, nếu thời hạn tạm giam còn lại không quá 5 ngày và cần thiết phải tiếp tục tạm giam, Chánh án Tòa án có quyền ra lệnh gia hạn tạm giam Thời gian tạm giam trong trường hợp này không được vượt quá thời hạn gia hạn để chuẩn bị xét xử theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, hoặc khi Viện Kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa, nếu bị can đang bị tạm giam, thì cần đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án hủy bỏ biện pháp tạm giam và trả tự do ngay cho bị can, trừ khi họ còn bị giam giữ vì các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Đối với bị cáo đang bị tạm giam, nếu đến ngày mở phiên tòa hoặc trong quá trình xét xử mà thời hạn tạm giam đã hết, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần đề nghị Chánh án hoặc Phó Chánh án ra lệnh tạm giam trước khi thời hạn này gần hết (không quá 5 ngày) Thời hạn tạm giam mới sẽ được tính từ ngày tiếp theo của lệnh tạm giam trước đó cho đến khi phiên tòa kết thúc.

Theo Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP, việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phụ thuộc vào đề nghị của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, và quyết định sẽ do Chánh án hoặc Phó Chánh án được ủy quyền thực hiện Tuy nhiên, tác giả cho rằng quy định này chưa hợp lý vì nhiều lý do khác nhau.

Thẩm phán xét xử vụ án hình sự làm việc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, theo Điều 23 BLTTHS Khi được phân công, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định mọi vấn đề của vụ án và chịu trách nhiệm trước pháp luật mà không cần báo cáo hay đề nghị từ Chánh án hoặc Phó Chánh án Quy định này ảnh hưởng trực tiếp đến sự độc lập của Thẩm phán trong quá trình xét xử.

Thực tiễn từ các vụ án cho thấy, Chánh án hoặc Phó Chánh án có thể ra quyết định tạm giam trong cùng một ngày tiếp nhận hồ sơ vụ án, ngay cả khi chưa phân công Thẩm phán giải quyết Điều này chỉ ra rằng người ra quyết định có thể chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ để xác định đủ căn cứ tạm giam bị can Do đó, các Quyết định tạm giam thường ghi lý do là "Xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam bị can để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án", mặc dù nội dung này được thực hiện theo Mẫu số 04.

HS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19 tháng 9 năm

Theo quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2017, lý do tạm giam chưa được thể hiện đầy đủ căn cứ theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 24

Khi được phân công xét xử vụ án hình sự, quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam phải thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc Hội đồng xét xử (HĐXX), trong đó Thẩm phán có quyền biểu quyết.

Tác giả đề xuất rằng thẩm quyền áp dụng, thay đổi và hủy bỏ biện pháp tạm giam nên thuộc về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, người chịu trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ và xét xử vụ án Để giảm thiểu nguy cơ lạm quyền, cần bổ sung cơ chế kiểm sát từ Viện kiểm sát, cơ quan có quyền giám sát các hoạt động tư pháp, bao gồm cả hoạt động của Tòa án.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
8. Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 về việc hướng dẫn một số quy định trong phần thứ 3 “Xét xử sơ thẩm” Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xét xử sơ thẩm
9. Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 về việc hướng dẫn một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ Luật tố tụng Hình sự 2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005);B. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xét xử phúc thẩm
10. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong hoa học Luật hình sự phần chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề cơ bản trong hoa học Luật hình sự phần chung
Tác giả: Lê Văn Cảm
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2005
11. Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hiền
Năm: 2011
12. Phạm Thị Minh Hiền (2011), Quyết định của Tòa n trong qu trình chuẩn bị xét xử Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr 52- 68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định của Tòa n trong qu trình chuẩn bị xét xử
Tác giả: Phạm Thị Minh Hiền
Năm: 2011
13. Cao Văn Hiếu (2014), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Tác giả: Cao Văn Hiếu
Năm: 2014
14. Nguyễn Quốc Hội (2011), Chuyên đề 7: Một số vấn đề cần chú ý hi xét xử c c vụ n Hình sự có yếu tố nước ngoài Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ xét xử hình sự năm 2011 của Trường cán bộ Tòa án nhân dân Tối cao Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuyên đề 7: Một số vấn đề cần chú ý hi xét xử c c vụ n Hình sự có yếu tố nước ngoài
Tác giả: Nguyễn Quốc Hội
Năm: 2011
15. Bùi Thị Hồng (2011), Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
Tác giả: Bùi Thị Hồng
Năm: 2011
16. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2004), Hệ thống tư ph p hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước ph p quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hệ thống tư ph p hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước ph p quyền
Tác giả: Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2004
17. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Gi o trình Tư ph p Hình sự, Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gi o trình Tư ph p Hình sự
Tác giả: Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2009
18. Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nguyễn Ngọc Chí (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Tác giả: Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nguyễn Ngọc Chí
Nhà XB: Nxb Đại học quốc gia
Năm: 2001
19. Vũ Gia Lâm (2011), “Hoàn thiện một số quy định về xét xử sơ thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 21/T11 - 2011), tr1-7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện một số quy định về xét xử sơ thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử”, "Tạp chí Tòa án nhân dân, (
Tác giả: Vũ Gia Lâm
Năm: 2011
20. Nguyễn Đức Lực (2011), “Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự – Những vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền xét xử”, TAQS khu vực 1 - quân khu 3. Tạp chí Tòa n nhân dân, (số 1/T1-2011), tr23,25 – 27 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự – Những vướng mắc trong việc xác định thẩm quyền xét xử”, TAQS khu vực 1 - quân khu 3. "Tạp chí Tòa n nhân dân, (
Tác giả: Nguyễn Đức Lực
Năm: 2011
21. Đinh Văn Quế (2001), Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ n hình sự trong Luật tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ n hình sự trong Luật tố tụng Hình sự Việt Nam
Tác giả: Đinh Văn Quế
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2001
22. Đinh Văn Quế (2011), “Phương hướng hoàn thiện các quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 17/T9 - 2011), tr 16 – 18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương hướng hoàn thiện các quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Đinh Văn Quế
Năm: 2011
23. Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Một số quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự về quyết định của Toà án trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học, (số 7/2009), tr.54 – 60 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự về quyết định của Toà án trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Hoàng Thị Minh Sơn
Năm: 2009
24. Nguyễn Sơn (2004), Gi o trình ỹ năng giải quyết vụ n hình sự, Phần 5 Chương 2. Chuẩn bị xét xử vụ n hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gi o trình ỹ năng giải quyết vụ n hình sự, Phần 5 Chương 2. Chuẩn bị xét xử vụ n hình sự
Tác giả: Nguyễn Sơn
Nhà XB: Nxb Tư pháp
Năm: 2004
25. Nguyễn Minh Sử (2011), “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử”. Tạp chí Tòa n nhân dân (số 14/T7-2011), tr 1- 3 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của Thẩm phán trong hoạt động xét xử”. "Tạp chí Tòa n nhân dân
Tác giả: Nguyễn Minh Sử
Năm: 2011
26. Tống Thị Thanh Thanh (2004), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ n hình sự Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện tư pháp, tr.10, 15 – 50 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ n hình sự
Tác giả: Tống Thị Thanh Thanh
Năm: 2004
27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Gi o trình Luật tố tụng Hình sự Việt Nam (tái bản lần thứ 4 có sửa đổi, bổ sung), Hoàng Thị Minh Sơn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gi o trình Luật tố tụng Hình sự Việt Nam
Tác giả: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhà XB: Nxb Công an nhân dân
Năm: 2008

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w