Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1 Khảo sát lịch sử nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, nghiên cứu trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ chủ yếu tập trung vào các khía cạnh tổng quát như quản trị kinh doanh bảo hiểm, hoạt động phân phối, nguyên lý bảo hiểm và các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Tuy nhiên, vẫn còn thiếu những nghiên cứu sâu về đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cụ thể, đặc biệt là bảo hiểm liên kết đầu tư, cùng với tác động của quy định pháp luật đến các sản phẩm này Một số giáo trình và sách chuyên khảo từ Trung tâm nghiên cứu và đào tạo bảo hiểm đã đề cập đến bảo hiểm liên kết đầu tư nhưng chưa đủ chi tiết.
Giáo trình đại lý bảo hiểm cơ bản (2013) của nhà xuất bản Tài chính đã nêu rõ những điểm khác biệt giữa bảo hiểm liên kết đầu tư và bảo hiểm nhân thọ truyền thống, đặc biệt về quyền lợi bảo hiểm và hình thức đầu tư Ngoài ra, Nguyễn Đăng Tuệ và Nguyễn Thị Vũ Khuyên (2019) trong Giáo trình bảo hiểm, nhà xuất bản Bách khoa, cũng đã cung cấp cái nhìn tổng quan về đặc điểm kinh doanh của sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư.
Hà Nội hay Phạm Thị Định và Nguyễn Văn Định (2015) trong Giáo trình kinh tế bảo hiểm đã đề cập đến bảo hiểm liên kết đầu tư, cùng với luận án tiến sĩ của Trần Vũ Hải (2014) về Pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam Bùi Thị Hằng Nga (2015) cũng đã nêu sơ lược về bảo hiểm liên kết đầu tư trong tác phẩm của mình Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu chỉ giới thiệu khái quát về bảo hiểm liên kết đầu tư, do đó, cần có một nghiên cứu chuyên sâu hơn về quy định pháp luật liên quan đến nghiệp vụ này để làm rõ các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng.
2.2 Những nội dung nghiên cứu được luận văn kế thừa, phát triển
Để tạo cơ sở cho nghiên cứu, luận văn này đã tham khảo, kế thừa và phát triển các nội dung từ những công trình nghiên cứu trước đó.
- Một số nội dung, đặc điểm cơ bản của bảo hiểm liên kết đầu tư so với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác
Bài viết này sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về các quy định pháp luật liên quan đến bảo hiểm liên kết đầu tư, cùng với tình hình triển khai sản phẩm bảo hiểm này của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Chúng ta sẽ phân tích các quy định hiện hành và đánh giá hiệu quả của các sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư trên thị trường, từ đó hiểu rõ hơn về xu hướng phát triển của ngành bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam.
2.3 Những nội dung được luận văn tiếp tục nghiên cứu
Luận văn đã kế thừa và tiếp thu các nội dung liên quan đến bảo hiểm liên kết đầu tư từ những nghiên cứu trước đây, đồng thời mở rộng và trình bày nhiều khía cạnh mới mà các công trình này chưa đề cập.
Luận văn nghiên cứu sâu về bảo hiểm liên kết đầu tư, cung cấp cái nhìn tổng quan về lịch sử phát triển của loại hình bảo hiểm này trên thế giới và tại Việt Nam Bên cạnh đó, luận văn cũng nêu rõ các đặc điểm, tính chất, và đưa ra định nghĩa chính xác về bảo hiểm liên kết đầu tư.
Bài viết này trình bày và phân tích các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến bảo hiểm liên kết đầu tư, điều mà các công trình nghiên cứu trước đây chưa đề cập chi tiết Qua việc tham khảo các quy định pháp luật trước đó, luận văn làm rõ hơn các nội dung pháp lý của bảo hiểm liên kết đầu tư và đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định này.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Dựa trên nghiên cứu và phân tích các quy định pháp luật hiện hành về nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư, bài viết đánh giá việc áp dụng các quy định này và đề xuất những kiến nghị lý luận nhằm hoàn thiện pháp luật cho nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, phù hợp với xu hướng phát triển trong bối cảnh mới.
Từ mục đích nghiên cứu đã được xác định cụ thể, các vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ nghiên cứu đề tài là:
- Hệ thống cơ sở lý luận và quy định pháp luật về bảo hiểm liên kết đầu tư của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Nhận định và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về bảo hiểm liên kết đầu tư là cần thiết để xác định những điểm mạnh và yếu trong hệ thống Qua đó, chúng ta có thể đưa ra các lập luận và đề xuất điều chỉnh những nội dung phù hợp, nhằm cải thiện hiệu quả và tính khả thi của loại hình bảo hiểm này Việc này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của người tham gia mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm.
Đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến bảo hiểm liên kết đầu tư nhằm khắc phục những bất cập và bổ sung nội dung mới phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của ngành bảo hiểm nhân thọ.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử theo học thuyết Mác – Lênin, nhằm thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Đồng thời, đề tài cũng xem xét các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước liên quan đến việc hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
5.2 Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết quyết các vấn đề đặt ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp phân tích – tổng hợp được áp dụng để xem xét các quy định pháp luật, từ đó nhận diện những vấn đề hạn chế còn tồn tại Phương pháp này cũng giúp xác định các điểm mới cần điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế, đồng thời đề xuất những nội dung cần được hoàn thiện.
Phương pháp lịch sử là cách tiếp cận nghiên cứu các quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, từ thời điểm trước khi Luật kinh doanh bảo hiểm được ban hành cho đến nay Phương pháp này giúp nhận diện những thay đổi trong tư duy pháp lý và đưa ra các đề xuất phù hợp, góp phần vào tiến trình phát triển chung của lĩnh vực này.
Phương pháp thống kê sử dụng số liệu từ các cơ quan, tổ chức để xác định rõ các nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện Qua đó, phương pháp này giúp củng cố nội dung trình bày, đồng thời đề xuất và định hướng hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan.
Đóng góp của đề tài
6.1 Về mặt nghiên cứu học thuật
Luận văn đã nghiên cứu và tiếp thu các nội dung liên quan đến bảo hiểm liên kết đầu tư, từ đó đưa ra định nghĩa rõ ràng về loại hình bảo hiểm này Nghiên cứu nhằm làm rõ các đặc điểm và tính chất của bảo hiểm liên kết đầu tư, góp phần hoàn thiện đề tài Hy vọng rằng luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu về pháp luật liên quan đến bảo hiểm liên kết đầu tư cũng như lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ nói chung.
6.2 Về mặt hoàn thiện quy định pháp luật
Bài viết này nghiên cứu hệ thống và phân tích các quy định pháp luật liên quan đến sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư, cung cấp dẫn chứng cụ thể để làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu tổng quan về sản phẩm này Qua đó, bài viết không chỉ đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành mà còn đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện khung pháp lý về bảo hiểm liên kết đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này.
Luận văn không chỉ cung cấp nội dung nghiên cứu học thuật mà còn trình bày quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm của bảo hiểm liên kết đầu tư Điều này giúp doanh nghiệp bảo hiểm, người mua bảo hiểm và các đối tượng có nhu cầu hiểu rõ hơn về sản phẩm này cũng như các quy định pháp luật liên quan Mục tiêu là hỗ trợ các bên trong việc triển khai và giao kết hợp đồng bảo hiểm liên kết đầu tư, từ đó tối ưu hóa lợi ích cho tất cả các bên tham gia Nội dung đề tài mang tính mới mẻ, kết hợp nghiêm túc việc kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu trước đó, nhằm trình bày một cách tổng thể và chi tiết về lý luận và thực tiễn quy định pháp luật liên quan đến bảo hiểm liên kết đầu tư, đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật.
Kết cấu của luận văn
Bài luận văn bao gồm các phần như danh mục từ viết tắt, mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Nội dung chính được chia thành 2 chương, trình bày các vấn đề quan trọng liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Chương 1: Khái quát chung về bảo hiểm liên kết đầu tư của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Chương 2: Thực tiễn quy định pháp luật về bảo hiểm liên kết đầu tư của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM LIÊN KẾT ĐẦU TƯ CỦA
Khái quát chung về bảo hiểm liên kết đầu tư
1.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển bảo hiểm liên kết đầu tư
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ tài chính cho con người trong suốt cuộc đời, từ khi còn trẻ đến khi về già và cả sau khi qua đời BHNT là cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) cung cấp một khoản tiền cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro hoặc sự kiện đã được quy định trong hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) Người tham gia cần phải đóng phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn theo thỏa thuận Theo giáo trình bảo hiểm của Đặng Văn Dân, BHNT được định nghĩa là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia, trong đó người bảo hiểm sẽ trả một khoản tiền nhất định cho người tham gia hoặc người thụ hưởng khi xảy ra các sự kiện đã định trước, như trường hợp người được bảo hiểm qua đời hoặc sống đến một thời điểm nhất định Tóm lại, bảo hiểm nhân thọ bảo vệ các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Bảo hiểm nhân thọ, theo từ điển thuật ngữ của Harvey W Rubin, là hình thức bảo vệ tài chính cho trường hợp tử vong, với khoản tiền được chi trả cho người thụ hưởng, thường là thành viên gia đình hoặc tổ chức Người được bảo hiểm sẽ thanh toán phí bảo hiểm định kỳ hoặc một lần, và khi họ qua đời, số tiền bảo hiểm sẽ được chi trả sau khi trừ đi các khoản vay chưa thanh toán Ngoài ra, bảo hiểm nhân thọ còn cung cấp các khoản trợ cấp cho người được bảo hiểm khi còn sống, như giá trị giải ước hoặc trợ cấp thu nhập Theo quy định pháp luật Việt Nam, bảo hiểm nhân thọ bao gồm cả trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết.
1 Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM (2018), Giáo trình Bảo hiểm, Đặng Văn Dân, NXB Tài chính, trang 70
2 Harvey W Rubin (2000), Dictionary of Insurance Terms, Barron Publishing, page 280
Theo Khoản 12 Điều 3 của Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật số 24/2000/QH10) ngày 09/12/2000, khái niệm về bảo hiểm nhân thọ (BHNT) có nhiều định nghĩa khác nhau Tuy nhiên, bản chất chính yếu của BHNT vẫn không thay đổi, đó là sự liên quan đến sinh mạng và tuổi thọ con người.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thế giới được ra đời vào ngày 18/6/1583 tại London, với thời hạn 12 tháng và người được bảo hiểm là ông William Gybbons, số tiền bảo hiểm là 400 bảng Anh, được bảo hiểm bởi 16 cá nhân Hợp đồng này chỉ gồm một trang giấy ghi rõ thông tin cơ bản về người được bảo hiểm, người thụ hưởng, thời hạn và phí bảo hiểm, kèm theo lời cầu nguyện cho sức khỏe của ông Gybbons Qua các thế kỷ, nhiều sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mới đã ra đời, không chỉ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm mà còn phục vụ cho đa dạng đối tượng khách hàng Sự phát triển của các sản phẩm bảo hiểm cao cấp như bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) đã đóng góp vào việc đảm bảo an toàn tài chính cho cá nhân và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và thị trường chứng khoán.
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam đã bước vào một giai đoạn phát triển mới với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, mang lại nhiều thành tựu kinh tế – xã hội đáng kể và nâng cao đời sống nhân dân Trong bối cảnh này, ngành bảo hiểm đã thể hiện vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và cuộc sống hàng ngày, đồng thời trở thành lĩnh vực kinh doanh tiềm năng thu hút nhiều lao động Ngày 18/12/1993, Nghị định 100/CP đã mở ra hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ (BHNT), và vào ngày 20/3/1996, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 281TC/TCNH cho phép Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) triển khai thí điểm BHNT Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức được thông qua vào ngày 09/12/2000, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển của ngành bảo hiểm tại Việt Nam Mặc dù lúc đầu bảo hiểm kinh doanh đa tầng (BHKĐT) chưa được quy định cụ thể, nhưng đến cuối năm 2006 và đầu năm 2007, các sản phẩm BHLKĐT đã được giới thiệu và chính thức quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 24/11/2010.
Sản phẩm BHLKĐT, hay còn gọi là Investment-Linked Plan (ILP), đã xuất hiện trên thế giới hơn 60 năm qua Các sản phẩm này phân chia phí bảo hiểm thành hai phần: phần bảo hiểm và phần đầu tư Phần đầu tư cho phép BMBH linh hoạt trong việc lựa chọn kênh đầu tư và hưởng toàn bộ lợi nhuận hoặc chịu rủi ro từ các quỹ liên kết Với tỷ trọng lớn, phần đầu tư đáp ứng mong muốn của BMBH về việc gia tăng tài sản thông qua các kênh sinh lãi như cổ phiếu, trái phiếu và tiền gửi ngân hàng.
Kể từ khi ra đời năm 2006, sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) tại Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trên ba tiêu chí chính: số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới, số tiền chi trả bảo hiểm và số phí bảo hiểm Theo Cục quản lý, giám sát bảo hiểm, tính đến 31/12/2019, tổng số tiền đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ vào nền kinh tế đạt 329.964 tỷ đồng, với doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ mới ước đạt 107.793 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2018 Đặc biệt, doanh thu phí từ BHLKĐT chiếm 56,54% tổng doanh thu phí, góp phần quan trọng vào việc bổ sung nguồn vốn đầu tư dài hạn và ổn định cho nền kinh tế, khẳng định vai trò và sức thu hút đáng kể của BHLKĐT trên thị trường bảo hiểm nhân thọ.
1.1.2 Nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư và sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư
Khái niệm “sản phẩm bảo hiểm” và “nghiệp vụ bảo hiểm” thường bị nhầm lẫn là giống nhau, nhưng trên thực tế, chúng có những đặc điểm và bản chất riêng biệt khi được xem xét từ góc độ quy định pháp luật và quản trị kinh doanh.
1.1.2.1 Nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư
Nghiệp vụ bảo hiểm là những nguyên lý cơ bản và nội dung được pháp luật cho phép để doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) thiết kế sản phẩm cho bên mua bảo hiểm (BMBH) Hiện tại, pháp luật kinh doanh bảo hiểm chưa định nghĩa cụ thể về "nghiệp vụ bảo hiểm", chỉ liệt kê các loại nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT) mà DNBH được phép thực hiện Theo Luật kinh doanh bảo hiểm, BHNT bao gồm bảy nghiệp vụ: bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trả tiền định kỳ, bảo hiểm liên kết đầu tư, và bảo hiểm hưu trí Trong số đó, bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) chưa có định nghĩa chính thức trong các văn bản pháp luật, nhưng có thể hiểu là nghiệp vụ bảo hiểm mà bên mua và DNBH thỏa thuận về quyền lợi bảo hiểm rủi ro và quyền lợi đầu tư trong hợp đồng.
Các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) phải được Bộ Tài chính phê duyệt và ghi rõ trong giấy phép hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) Sau khi được chấp thuận, DNBH cần trích lập dự phòng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm để đảm bảo khả năng chi trả bồi thường trong những năm có tổn thất lớn Đối với BHLKĐT, ngoài các khoản dự phòng theo quy định, DNBH còn phải trích lập dự phòng toán học và dự phòng bảo đảm lãi suất cam kết để ứng phó với biến động của thị trường đầu tư.
4 Cục quản lý, giám sát bảo hiểm (2020), Bản tin thị trường bảo hiểm toàn cầu, số 11+12+1, trang 8
Theo Khoản 1 Điều 7 của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, phí bảo hiểm phải thấp hơn lãi suất cam kết để đảm bảo lãi suất cam kết trong hợp đồng bảo hiểm với bên môi giới bảo hiểm, đặc biệt trong trường hợp bảo hiểm liên kết chung.
1.1.2.2 Sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư
Dựa trên nghiệp vụ BHLKĐT, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (DNBH) thiết kế sản phẩm cụ thể mang giá trị thương mại để chào bán cho bên mua bảo hiểm (BMBH), và các sản phẩm này phải được Bộ Tài chính phê duyệt trước khi triển khai Sản phẩm bảo hiểm là cam kết của DNBH về việc bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, được xác nhận qua hợp đồng bảo hiểm khi BMBH nộp phí Từ góc độ quản trị kinh doanh, sản phẩm bảo hiểm được thiết kế nhằm thu lợi nhuận, với mỗi doanh nghiệp phát triển sản phẩm chuyên biệt dựa trên nhu cầu và chiến lược kinh doanh của mình Do đó, sản phẩm bảo hiểm không chỉ là nhóm các nghiệp vụ mà DNBH có quyền thực hiện, mà là những sản phẩm cụ thể mà họ cung cấp Hiện nay, DNBH nhân thọ cũng linh hoạt thiết kế các sản phẩm BHLKĐT kết hợp với đặc tính của các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ khác.
Sản phẩm liên kết đầu tư trọn đời kết hợp giữa bảo hiểm trọn đời và đầu tư, cung cấp sự bảo vệ tài chính cho người được bảo hiểm trong suốt cuộc đời Bảo hiểm trọn đời đảm bảo số tiền bảo hiểm được thanh toán khi người được bảo hiểm qua đời, nhằm mục đích bảo vệ cao Với hợp đồng bảo hiểm dài hạn này, yếu tố đầu tư giúp đảm bảo tài chính và sinh lợi cho người tham gia Ngoài ra, sản phẩm còn có giá trị tiền mặt (giá trị hoàn lại) thường xuất hiện sau hai hoặc ba năm kể từ khi đóng phí bảo hiểm.
Khoản 3.5 Điều 18 Thông tư 50/2017/TT-BTC, ban hành ngày 15/05/2017 bởi Bộ Tài chính, hướng dẫn thực hiện Nghị định 73/2016/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/07/2016, quy định chi tiết về việc thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và các điều sửa đổi, bổ sung liên quan đến luật này.
Khoản 3 Điều 39 Nghị định 73/2016/NĐ-CP, ban hành ngày 01/07/2016, quy định chi tiết về việc thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm cũng như các sửa đổi, bổ sung liên quan đến Luật này.
8 Khoản 16 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
Các nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư
Bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) là một trong bảy nghiệp vụ của bảo hiểm nhân thọ (BHNT) Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, BHLKĐT được chia thành hai loại sản phẩm chính: bảo hiểm liên kết đơn vị và bảo hiểm liên kết chung, phù hợp với các quy chuẩn phổ biến.
9 Khoản 15 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
10 Khoản 17 Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
11 Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt, Danh mục sản phẩm, https://www.baovietnhantho.com.vn/san-pham#gref, ngày truy cập 31/5/2020
12 Công ty TNHH BHNT Prudential Việt Nam, Danh mục sản phẩm, https://www.prudential.com.vn/vi/our- products/, ngày truy cập 31/5/2020
Sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị của Công ty TNHH BHNT Manulife Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt so với sản phẩm bảo hiểm liên kết chung Điều này cần được nhận thức để tránh nhầm lẫn giữa hai loại sản phẩm này Thông tin chi tiết về danh mục sản phẩm có thể được tìm thấy trên trang web chính thức của Manulife.
1.2.1 Bảo hiểm liên kết chung (Universal life insurance)
Bảo hiểm liên kết chung là hình thức bảo hiểm nhân thọ tích lũy, mang lại sự linh hoạt về phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và quyền lợi tử vong Sản phẩm này bao gồm ba yếu tố chính: phí bảo hiểm cho rủi ro tử vong, lãi suất từ giá trị tích lũy khi vay, và các khoản phí khác Bảo hiểm liên kết chung được xây dựng dựa trên thỏa thuận giữa DNBH và BMBH về quyền lợi bảo hiểm và đầu tư, trong đó phí bảo hiểm của BMBH sẽ tạo thành một quỹ liên kết chung Quỹ này được tách biệt khỏi quỹ chủ sở hữu và các quỹ hợp đồng khác, với tài sản xác định chung cho tất cả hợp đồng liên kết BMBH có quyền đầu tư và nhận lợi ích từ kết quả đầu tư của quỹ, đồng thời nhận báo cáo hàng năm về tình hình hợp đồng DNBH cam kết trả lãi đầu tư định kỳ, giúp BMBH đánh giá hiệu quả đầu tư và điều chỉnh số tiền bảo hiểm theo nhu cầu Sản phẩm này phù hợp với những người có khoản tiết kiệm vừa và nhỏ, mong muốn gia tăng lợi nhuận tài chính và đầu tư an toàn vào thị trường chứng khoán thông qua DNBH.
Hợp đồng bảo hiểm liên kết chung đầu tiên được giới thiệu tại Hoa Kỳ vào năm 1979 bởi Công ty bảo hiểm nhân thọ California, sau này được đổi tên thành Hutton, và đã phát triển mạnh mẽ trong những năm qua.
14 Ngô Trung Dũng (2014), Từ điển bảo hiểm, NXB Dân trí, trang 37
Sản phẩm bảo hiểm liên kết chung, hay còn gọi là bảo hiểm linh hoạt, được giới thiệu lần đầu tiên tại Việt Nam bởi Công ty TNHH BHNT Chubb Việt Nam vào năm 2006 với tên gọi “Kế hoạch tài chính trọn đời” Trước đó, thị trường chỉ có các sản phẩm bảo hiểm tử kỳ, tai nạn và bảo hiểm hỗn hợp với thời gian bảo hiểm ngắn và mức phí cao Vào ngày 23/11/2007, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 96/2007/QĐ-BTC, chính thức luật hóa và cho phép triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết chung tại Việt Nam Đến ngày 21/03/2016, Bộ Tài chính tiếp tục ban hành Thông tư số 52/2016/TT-BTC để hướng dẫn triển khai sản phẩm này, thay thế Quyết định trước đó và có hiệu lực cho đến nay.
1.2.2 Bảo hiểm liên kết đơn vị (Unit-linked life insurance)
Sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị (BHLKĐT) được giới thiệu như một giải pháp đầu tư hấp dẫn, liên quan sâu rộng đến hoạt động đầu tư hơn so với bảo hiểm liên kết chung Sản phẩm này hoạt động bằng cách liên kết giá trị của mỗi đơn vị bảo hiểm với quỹ đầu tư do doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) quản lý, hoặc với các quỹ tín thác Tại Việt Nam, DNBH phải ủy thác cho công ty quản lý quỹ có kinh nghiệm để triển khai sản phẩm này Một phần hoặc toàn bộ phí bảo hiểm sẽ được sử dụng để mua các đơn vị trong quỹ, làm cho giá trị tương lai của hợp đồng bảo hiểm biến động theo giá trị của các đơn vị đầu tư HĐBH liên kết đơn vị đầu tiên xuất hiện tại Hà Lan vào những năm 1950, sau đó được giới thiệu tại Hoa Kỳ vào năm 1954 và tại Vương Quốc Anh vào năm 1957, cũng như tại các thị trường châu Á như Singapore và Hồng Kông vào năm 1992 Hiện nay, sản phẩm BHLKĐT đã phát triển đa dạng với nhiều tên gọi khác nhau trên thị trường toàn cầu.
16 Khoản 1 Điều 23 Thông tư 135/2012/TT-BTC
17 Thomas Moller and Mogens Steffensen (2007), Market-valuation methods in Life and Pension Insurance, Cambridge University Press, page 149
Bảo hiểm liên kết đơn vị (BHNT liên kết đơn vị) là loại hình bảo hiểm trong đó số tiền phí bảo hiểm được liên kết với giá trị của các đơn vị quỹ đầu tư Mỗi quỹ được chia thành các phần đầu tư có giá trị như nhau, gọi là "đơn vị" Thuật ngữ "unit-linked" thường được sử dụng phổ biến tại châu Âu và nhiều quốc gia ở khu vực châu Á.
Bảo hiểm nhân thọ biến đổi (BHNT biến đổi) là loại hình bảo hiểm có tính chất tích lũy, trong đó phí bảo hiểm được đóng cố định, nhưng quyền lợi bảo hiểm và các quyền lợi tài chính khác có thể thay đổi dựa trên kết quả đầu tư từ tài khoản mà người sở hữu hợp đồng bảo hiểm lựa chọn Tài khoản đầu tư này bao gồm nhiều danh mục khác nhau, cho phép người tham gia phân bổ phí bảo hiểm đã đóng và giá trị tích lũy theo hợp đồng của mình.
"Variable" đề cập đến lợi nhuận của quỹ biến đổi, tương ứng với giá trị của các tài sản cơ sở trong danh mục đầu tư Thuật ngữ này, giống như bảo hiểm liên kết đơn vị, thường được sử dụng phổ biến tại Hoa Kỳ.
Quyền lợi bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm liên kết đơn vị bao gồm cả quyền lợi bảo hiểm rủi ro và quyền lợi đầu tư Theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và bên mua bảo hiểm (BMBH), DNBH có thể cung cấp thêm các quyền lợi bảo hiểm khác BMBH không thể chỉ tham gia quyền lợi đầu tư mà không tham gia quyền lợi bảo hiểm rủi ro.
Quyền lợi bảo hiểm rủi ro giữa doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và bên mua bảo hiểm (BMBH) được thỏa thuận cụ thể, nhưng cần đảm bảo quyền lợi tối thiểu theo quy định pháp luật trong trường hợp người được bảo hiểm (NĐBH) tử vong.
BMBH có quyền lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm vào các quỹ liên kết đơn vị do DNBH thành lập Điều này cho phép BMBH hưởng toàn bộ kết quả đầu tư và đồng thời chịu mọi rủi ro liên quan đến các quỹ đã chọn, tương ứng với phần phí bảo hiểm đã đầu tư.
Công ty TNHH BHNT Prudential Việt Nam đã tiên phong giới thiệu sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị tại Việt Nam vào đầu năm 2007, và chính thức ra mắt vào ngày 14/12/2007.
Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 102/2007/QĐ-BTC để quy định việc triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị tại Việt Nam Đến tháng 6 năm 2020, đã có 5 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tham gia vào lĩnh vực sản phẩm này.
Bảo hiểm liên kết đơn vị là sản phẩm của các công ty như Prudential, Manylife, AIA, Dai-ichi và Generali tại Việt Nam Đối với sản phẩm này, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm công bố thông tin về số lượng quỹ đầu tư, mức độ rủi ro và giá đơn vị của từng quỹ Sản phẩm này thu hút người tham gia nhờ tiềm năng sinh lời cao, kèm theo sự tư vấn chuyên môn từ doanh nghiệp bảo hiểm để giúp khách hàng phân tích rủi ro và lựa chọn quỹ đầu tư phù hợp Mặc dù bảo hiểm liên kết đơn vị đã phổ biến ở nhiều quốc gia phát triển, nhưng tại Việt Nam, việc nâng cao nhận thức và khả năng tài chính của người dân vẫn cần thời gian để các doanh nghiệp bảo hiểm giới thiệu và cung cấp kiến thức đầu tư cho khách hàng.
Những đặc điểm cơ bản của bảo hiểm liên kết đầu tư
Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn đóng góp tích cực cho an sinh xã hội Hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và người mua bảo hiểm (BMBH) đảm bảo tình trạng tài chính cho cả NĐBH và người thụ hưởng, giúp họ yên tâm hơn trong cuộc sống Đối tượng bảo hiểm là tuổi thọ con người, với các hợp đồng thường có thời hạn lâu dài Để thu hút khách hàng, DNBH thiết kế sản phẩm bảo hiểm an toàn và vượt trội, cam kết giá trị tiền bảo hiểm và cung cấp các sản phẩm bổ trợ như bảo hiểm sức khỏe Người tham gia mong muốn gia tăng số tiền bảo hiểm và tìm kiếm lợi nhuận từ phí bảo hiểm đã đóng Dựa trên nhu cầu này, DNBH phát triển các sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT), đảm bảo số tiền bảo hiểm không thấp hơn tổng phí đã đóng và cam kết lãi suất đầu tư tối thiểu cho phần phí bổ sung.
19 Cục quản lý, giám sát bảo hiểm, Công bố sản phẩm bảo hiểm, https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/cbspbh?_afrLoop1631165436576365#!%40%40
Bảo hiểm liên kết đơn vị (BHLKĐT) là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ (BHNT) có yếu tố đầu tư, nhưng nội dung chính vẫn là bảo hiểm, không phải đầu tư Người tham gia có thể điều chỉnh mức phí bảo hiểm để tăng cường phần đầu tư, tuy nhiên rủi ro đầu tư thuộc về họ BHLKĐT không chỉ kế thừa các đặc điểm cơ bản của BHNT mà còn sở hữu những đặc điểm riêng biệt, tạo nên sự vượt trội so với các sản phẩm bảo hiểm khác.
1.3.1 Cơ cấu phí bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm được tách bạch giữa phần bảo hiểm rủi ro và phần đầu tư
Trước năm 2006, thị trường bảo hiểm Việt Nam chủ yếu cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ truyền thống với quyền lợi đơn giản và không đa dạng, khiến người dân ít tham gia Các sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp có chia lãi nhưng vẫn không hấp dẫn do lãi suất phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm Nhiều sản phẩm truyền thống có thời gian bảo hiểm ngắn và phí bảo hiểm cao, dẫn đến giá trị bảo hiểm thấp Tuy nhiên, khi sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) ra mắt vào năm 2006 bởi Công ty TNHH BHNT Chubb Việt Nam, nó đã thu hút nhiều người tham gia nhờ vào quyền lợi vượt trội như số tiền bảo hiểm cao và cơ chế đóng phí linh hoạt BHLKĐT không chỉ là giải pháp tiết kiệm mà còn là công cụ tài chính bảo vệ trước rủi ro bất ngờ Phí bảo hiểm được chia thành phần bảo hiểm rủi ro và phần đầu tư, cho phép BMBH linh hoạt trong việc xác định phí và số tiền bảo hiểm BMBH có thể rút tiền nhiều lần và tham gia vào các quỹ liên kết để tối đa hóa lợi nhuận đầu tư, thể hiện tính linh hoạt và tiết kiệm của BHLKĐT.
DNBH có quyền cho phép BMBH điều chỉnh quyền lợi rủi ro, tỷ lệ phí bảo hiểm, thời gian nộp phí và hoán đổi giá trị các quỹ đầu tư trong suốt hợp đồng bảo hiểm liên kết đơn vị Hợp đồng BHLKĐT là cam kết dài hạn với phí bảo hiểm cao trong giai đoạn đầu, do đó, một số DNBH cho phép BMBH tạm ngưng đóng phí mà không bị phạt trong vài năm đầu Tuy nhiên, việc tạm ngưng đóng phí lâu dài có thể dẫn đến giá trị tài khoản không đủ để khấu trừ chi phí bảo hiểm, làm hợp đồng mất hiệu lực Vì vậy, DNBH cần tư vấn rõ ràng cho BMBH về quyền lợi và nghĩa vụ của họ để bảo đảm lợi ích khi chọn sản phẩm này.
1.3.1.2 Tính chất tiết kiệm Đối với HĐBH của những sản phẩm BHNT truyền thống thông thường được thiết kế phí bảo hiểm theo đó BMBH sẽ đóng phí cố định, nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm thì DNBH phải chi trả số tiền bảo hiểm như cam kết trong HĐBH Nếu hết hạn HĐBH, người được bảo hiểm không gặp rủi ro, sự cố, sự kiện được bảo hiểm nào thì DNBH sẽ được chi trả quyền lợi bảo hiểm như đã cam kết trong HĐBH với tổng số phí bảo hiểm mà BMBH đã đóng cộng thêm một phần bảo tức (nếu có) Bảo tức là khoản lãi được
Quy tắc và điều khoản sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị Investa của AIA (Việt Nam) được phê duyệt theo công văn số 2425/BTC-QLBH ngày 23/02/2017 Lợi nhuận hàng năm được xác định dựa trên thực tế của quỹ chủ hợp đồng tham gia chia lãi và phần đóng góp của hợp đồng Doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) thực hiện xác nhận và phân bố lãi chia theo phương pháp được Bộ Tài chính phê duyệt Bảo tức hình thành từ lãi suất đầu tư thực tế cao hơn dự tính, tỷ lệ sự kiện bảo hiểm thấp hơn dự kiến và chi phí thực tế thấp hơn chi phí dự tính, được công bố hàng năm cho các hợp đồng có hiệu lực từ hai năm trở lên Bảo tức thường được cộng dồn đến khi đáo hạn hợp đồng, và DNBH phải trả bảo tức ít nhất bằng lãi đã cam kết trong hợp đồng DNBH có trách nhiệm đầu tư số phí bảo hiểm thu được một cách an toàn và sinh lời, dùng để chi trả quyền lợi rủi ro, bảo tức và chi phí hoạt động Đối với bảo hiểm liên kết chung, DNBH phải trả lãi suất đầu tư theo đúng cam kết, dù hiệu quả đầu tư có thể thấp Vào cuối năm tài chính, DNBH có thể sử dụng thặng dư quỹ để phân chia cho các chủ hợp đồng, đảm bảo tất cả nhận được không thấp hơn 70% thặng dư lãi Pháp luật hiện hành quy định DNBH phải trích lập dự phòng khi kết quả đầu tư thấp hơn lãi suất cam kết để bảo vệ quyền lợi của bên mua bảo hiểm.
21 Ngô Trung Dũng (2014), Từ điển bảo hiểm, NXB Dân trí, trang 70
Theo Khoản 2 Điều 76 Nghị định 73/2016/NĐ-CP, bên mua bảo hiểm (BMBH) có thể tích lũy và tiết kiệm nhiều hơn từ phần đầu tư đã đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) Tuy nhiên, nếu BMBH chấm dứt hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) trước hạn trong vòng hai năm đầu, sẽ không được chi trả giá trị hoàn lại, bao gồm phí bảo hiểm và lãi suất đầu tư cam kết Ngoài ra, nếu số năm đóng phí bảo hiểm ít hơn thời hạn HĐBH, giá trị hoàn lại sẽ thấp hơn tổng phí đã đóng cộng lãi suất đầu tư cam kết.
1.3.2 Bên mua bảo hiểm được quyền lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm và được hưởng toàn bộ kết quả đầu tư hoặc chịu mọi rủi ro từ đầu tư
Dựa trên thông tin về sản phẩm và tình hình tài chính của các quỹ liên kết, BMBH có thể chọn quỹ phù hợp với nhu cầu và tài chính của mình để tham gia HĐBH, từ đó hưởng lợi nhuận từ đầu tư (đối với sản phẩm bảo hiểm liên kết chung) hoặc chịu rủi ro nếu quỹ đầu tư kém hiệu quả (đối với sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị) Việc được quyền lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm giúp sản phẩm BHLKĐT vừa đáp ứng yêu cầu bảo hiểm, vừa thỏa mãn nhu cầu đầu tư của BMBH, tạo tính cạnh tranh cao hơn so với sản phẩm bảo hiểm truyền thống và các sản phẩm tài chính khác Sự khác biệt này giữa kinh doanh BHNT và bảo hiểm phi nhân thọ nằm ở việc đầu tư, khi doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đầu tư để phục vụ hoạt động chung, không cam kết với từng sản phẩm cụ thể Do đó, phạm vi đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ rộng hơn để đảm bảo thực hiện cam kết với khách hàng.
Các công ty bảo hiểm thường thiết lập các quỹ đầu tư liên kết với mức độ rủi ro khác nhau, trong đó rủi ro cao đồng nghĩa với lợi nhuận tiềm năng cao hơn Giá trị mà bên mua bảo hiểm nhận được khi đáo hạn hợp đồng sẽ tương ứng với giá trị đầu tư theo cam kết Việc hiểu biết về đầu tư sẽ giúp bên mua bảo hiểm lựa chọn quỹ đầu tư phù hợp khi tham gia bảo hiểm liên kết đầu tư, nhưng không nhất thiết phải trở thành chuyên gia đầu tư.
Theo Điều 18 Thông tư 50/2017/TT-BTC, các chuyên gia đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) có trách nhiệm tìm kiếm và lựa chọn tài sản đầu tư phù hợp nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho bên mua bảo hiểm (BMBH) Sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) ngày càng được ưa chuộng bởi không chỉ người dân mà còn các nhà đầu tư và lãnh đạo doanh nghiệp có nguồn tài chính lớn nhưng thiếu thời gian hoặc kinh nghiệm đầu tư Sự giảm lãi suất tiền gửi ngân hàng đã thúc đẩy nhu cầu tìm kiếm kênh đầu tư hấp dẫn hơn Mặc dù DNBH luôn hướng đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, nhưng thị trường đầu tư có thể biến động, khiến BMBH cần cân nhắc kỹ lưỡng khi tham gia BHLKĐT BMBH nên lựa chọn hình thức đóng phí bảo hiểm phù hợp với tình hình tài chính cá nhân và cần được DNBH tư vấn rõ ràng về đặc điểm sản phẩm Tùy theo thỏa thuận, BMBH có thể chọn đóng phí định kỳ hoặc một lần, và mỗi sản phẩm BHLKĐT sẽ có những điểm khác nhau trong việc đầu tư phí bảo hiểm và hưởng lợi nhuận.
1.3.2.1 Đối với bảo hiểm liên kết chung
BMBH nhận được lợi ích từ quỹ liên kết chung của DNBH, với tỷ suất đầu tư không thấp hơn mức cam kết trong HĐBH DNBH sẽ sử dụng một phần phí bảo hiểm mà BMBH chọn để đầu tư vào quỹ này, và lợi nhuận từ quỹ sẽ được cộng vào giá trị tài khoản bảo hiểm của BMBH, tạo thành khoản tiết kiệm có thể rút ra hoặc chuyển sang phí bảo hiểm để tăng mức bảo hiểm Tổng số phí bảo hiểm đóng thêm hàng năm của BMBH không được vượt quá năm lần mức phí năm đầu với hợp đồng định kỳ, hoặc 50% phí bảo hiểm lần đầu với hợp đồng đóng một lần DNBH chịu trách nhiệm về rủi ro đầu tư và phải đảm bảo quỹ hoạt động hiệu quả để thanh toán lãi suất theo cam kết, đồng thời phải duy trì khả năng thanh toán tối thiểu là 100 tỷ đồng Quyền lợi của BMBH được đảm bảo khi quỹ đầu tư vào các kênh an toàn như trái phiếu Chính phủ và gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
1.3.2.2 Đối với bảo hiểm liên kết đơn vị
BMBH có quyền lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm của mình vào các quỹ liên kết đơn vị do DNBH thành lập, từ đó hưởng toàn bộ kết quả đầu tư và chịu rủi ro tương ứng Tổng số phí bảo hiểm BMBH đóng thêm hàng năm không vượt quá mười lần mức phí bảo hiểm năm đầu đối với hợp đồng định kỳ hoặc không quá mức phí bảo hiểm lần đầu đối với hợp đồng một lần DNBH phải duy trì khả năng thanh toán cao hơn mức tối thiểu 200 tỷ đồng BMBH có thể linh hoạt gia tăng đầu tư và rút tiền từ tài khoản của mình Do tính phức tạp và rủi ro cao hơn, sản phẩm này yêu cầu quy định khắt khe hơn DNBH có trách nhiệm công bố thông tin đầy đủ và kịp thời về HĐBH, phù hợp với nội dung đã được Bộ Tài chính phê duyệt, đồng thời công khai các tài liệu liên quan trên trang thông tin của doanh nghiệp.
24 Khoản 3 Điều 7 Thông tư 52/2016/TT-BTC
Khoản 3 Điều 8 Thông tư 135/2012/TT-BTC quy định rằng các đơn vị liên kết sẽ thực hiện định kỳ một lần mỗi tuần Sản phẩm này là lựa chọn lý tưởng cho những người tham gia bảo hiểm muốn trải nghiệm thách thức trong thị trường tài chính, với rủi ro đầu tư cao nhưng tiềm năng sinh lời lớn Đặc biệt, sự quản lý đầu tư chuyên nghiệp từ các chuyên gia được ủy thác bởi DNBH giúp đảm bảo yếu tố bảo hiểm cho người tham gia.
1.3.3 Doanh nghiệp bảo hiểm được hưởng các khoản phí do bên mua bảo hiểm trả theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm
Trước đây, phí bảo hiểm của BMBH được DNBH đầu tư vào các kênh an toàn như trái phiếu Chính phủ và gửi tiền tại tổ chức tín dụng, đảm bảo mức lãi suất cố định, giúp cam kết thu nhập tối thiểu và khả năng thanh khoản cho các trường hợp bảo hiểm Tuy nhiên, với sản phẩm BHLKĐT, phí bảo hiểm sẽ được đầu tư vào các kênh có lợi nhuận cao hơn nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro lớn hơn, như đầu tư vào cổ phiếu Do đó, BMBH sẽ nhận được lãi suất dựa trên kết quả hoạt động của quỹ liên kết đầu tư theo tỷ lệ phần đầu tư đã thỏa thuận với DNBH.
Các chủ thể tham gia bảo hiểm liên kết đầu tư
1.4.1 Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
1.4.1.1 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
DNBH là doanh nghiệp hoạt động theo Luật kinh doanh bảo hiểm, bao gồm các hình thức như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã và tổ chức bảo hiểm tương hỗ DNBH nhằm mục đích sinh lợi nhưng khác biệt ở chỗ chấp nhận rủi ro từ người đóng bảo hiểm, với việc thu phí bảo hiểm để bồi thường cho người thụ hưởng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Hoạt động chính của DNBH nhân thọ là thiết kế và chào bán sản phẩm bảo hiểm nhân thọ thông qua hợp đồng bảo hiểm, từ đó thu phí bảo hiểm để duy trì hoạt động kinh doanh.
29 Điều 59 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) có quyền thực hiện các hoạt động đầu tư để hỗ trợ và tối đa hóa lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh của mình, do đó, đầu tư được xem là một chức năng cơ bản của DNBH Hiện nay, chỉ có Công ty cổ phần bảo hiểm và Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm được phép cung cấp sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) tại Việt Nam Trên thị trường, có 17 doanh nghiệp đang triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết chung và 5 doanh nghiệp cung cấp sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị.
1.4.1.2 Đặc điểm hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) không chỉ kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm theo quy định pháp luật mà còn đầu tư vốn từ phí bảo hiểm thu được nhằm gia tăng lợi nhuận và đảm bảo khả năng thanh toán khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra Để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm (NĐBH), pháp luật yêu cầu DNBH phải thực hiện các hoạt động đầu tư một cách an toàn và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu chi trả theo hợp đồng bảo hiểm Tại Việt Nam, nguồn vốn đầu tư của DNBH bao gồm vốn chủ sở hữu, vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và các nguồn hợp pháp khác Đặc biệt, nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ là rất quan trọng, thường được hình thành từ các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mà khách hàng đã tham gia Hoạt động đầu tư từ phí bảo hiểm, sau khi trích lập dự phòng, đóng vai trò quan trọng trong việc gia tăng lợi nhuận cho DNBH, bên cạnh việc quản lý doanh thu phí bảo hiểm và chi trả tiền bảo hiểm.
31 Cục quản lý, giám sát bảo hiểm, Công bố sản phẩm bảo hiểm, https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/cbspbh?_afrLoop1631165436576365#!%40%40
%3F_afrLoop%3D101631165436576365%26_adf.ctrl-state%3D3ahtmfar4_61, ngày truy cập 25/6/2020
32 Khoản 1 Điều 98 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
Khoản 1 Điều 59 Luật Kinh doanh Bảo hiểm 2000 nhấn mạnh tầm quan trọng của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ (BHNT) trong việc bảo vệ người tham gia trước lạm phát kinh tế, đặc biệt khi tham gia bảo hiểm dài hạn Nếu không có sản phẩm BHNT, sẽ không có nguồn vốn để đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT) Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) chỉ có thể sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực như trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu, bất động sản, góp vốn vào doanh nghiệp khác, cho vay theo quy định của Luật tổ chức tín dụng, và gửi tiền tại các tổ chức tín dụng Để đảm bảo an toàn tài chính và khả năng chi trả, pháp luật yêu cầu DNBH tuân thủ các nguyên tắc đầu tư nhất định.
Để đảm bảo tính an toàn, hiệu quả và thanh khoản trong hoạt động đầu tư, nhà đầu tư cần tuân thủ quy định pháp luật và tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình Đồng thời, không được vay mượn để thực hiện đầu tư trực tiếp, ủy thác vào chứng khoán, bất động sản hay góp vốn vào các doanh nghiệp khác.
Theo quy định của Luật Doanh Nghiệp, không được phép đầu tư trở lại dưới bất kỳ hình thức nào cho các cổ đông hoặc thành viên góp vốn, cũng như những người có liên quan đến họ Tuy nhiên, ngoại lệ duy nhất là các khoản tiền gửi tại các cổ đông là tổ chức tín dụng.
Không nên đầu tư quá 30% tổng vốn vào các công ty thuộc cùng một tập đoàn hoặc nhóm công ty có quan hệ sở hữu lẫn nhau Quy định này không áp dụng cho việc gửi tiền vào các tổ chức tín dụng cũng như nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức thành lập doanh nghiệp hoặc chi nhánh tại nước ngoài.
Trong trường hợp ủy thác đầu tư, tổ chức nhận ủy thác cần phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thực hiện hoạt động này, đảm bảo phù hợp với nội dung của ủy thác đầu tư.
Hoạt động đầu tư hiệu quả của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) không chỉ đảm bảo lợi ích cho bên mua bảo hiểm (BMBH) mà còn đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm bảo hiểm liên quan đến đầu tư (BHLKĐT), khi BMBH được hưởng quyền lợi đầu tư dựa trên sự lựa chọn phí bảo hiểm của họ Hiện nay, đầu tư của DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và nghiệp vụ BHLKĐT có những đặc điểm nổi bật cần được chú ý.
Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chủ yếu đầu tư vào các tài sản dài hạn, theo nghiên cứu của Phạm Thị Hồng Đào về pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm Kiến nghị hoàn thiện các quy định trong lĩnh vực này nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư và bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
Để đảm bảo khả năng tài chính và thực hiện cam kết với BMBH, doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) cần chú trọng đầu tư vào các tài sản an toàn và có thời hạn dài như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp và tiền gửi ngân hàng Những tài sản này không chỉ đảm bảo tính an toàn mà còn xác định được mức lãi suất, giúp DNBH dễ dàng thiết kế sản phẩm phù hợp Đặc biệt, đối với bảo hiểm liên kết đơn vị, pháp luật hiện hành quy định rằng các quỹ liên kết không được đầu tư trực tiếp vào bất động sản, vàng, bạc và kim loại quý Kế hoạch và mục đích đầu tư của DNBH phải gắn liền với nghiệp vụ bảo hiểm để tối ưu hóa hiệu quả tài chính.
Dựa trên thiết kế sản phẩm bảo hiểm nhân thọ (BHNT), các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) sẽ có kế hoạch và chiến lược đầu tư khác nhau Quyền lợi đầu tư của bên mua bảo hiểm (BMBH) không giống nhau, vì mỗi sản phẩm được thiết kế cho những đối tượng khách hàng cụ thể, dựa trên phân tích nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm của họ Đối với các sản phẩm bảo hiểm khác, DNBH chỉ cần đảm bảo tính thanh khoản và ổn định để thực hiện nghĩa vụ thanh toán Tuy nhiên, với các sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư (BHLKĐT), DNBH phải đảm bảo BMBH nhận toàn bộ kết quả đầu tư từ quỹ liên kết, không thấp hơn tỷ suất đầu tư tối thiểu đã cam kết trong hợp đồng bảo hiểm Do đó, DNBH cần tuân thủ nguyên tắc an toàn cho danh mục đầu tư và tính thanh khoản, đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm BHLKĐT, vì rủi ro trong hoạt động đầu tư có thể ảnh hưởng đến khả năng thực hiện nghĩa vụ và tình hình tài chính của DNBH.
35 Điểm c Khoản 2 Điều 18 Thông tư 135/2012/TT-BTC
Theo Khoản 2 Điều 2 Thông tư 52/2016/TT-BTC của Bộ Tài chính, các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phải đảm bảo tính thanh khoản trong danh mục đầu tư để duy trì khả năng chi trả cho các hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Sự kiện bảo hiểm là những tình huống khách quan không thể dự đoán, đòi hỏi DNBH phải chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người đóng bảo hiểm Do đó, kế hoạch đầu tư của DNBH đối với sản phẩm bảo hiểm liên kết chung (BHLKĐT) sẽ tập trung vào các tài sản có tính thanh khoản cao Những DNBH có thị phần lớn trong sản phẩm BHLKĐT thường hạn chế các hoạt động đầu tư rủi ro để bảo vệ hiệu quả và lợi nhuận của các quỹ liên kết.
BMBH là tổ chức hoặc cá nhân ký hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và thực hiện nghĩa vụ đóng phí BMBH có thể là người đóng bảo hiểm hoặc người thụ hưởng Hiện nay, nhiều tổ chức tham gia ký hợp đồng bảo hiểm để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và lãnh đạo chủ chốt, nhằm giữ chân nhân viên và đảm bảo quyền lợi cho họ cùng gia đình Tuy nhiên, BMBH chủ yếu là cá nhân do đặc thù phức tạp và tỷ lệ đóng phí cao, cùng với rủi ro đầu tư, khiến tổ chức khó tham gia Theo quy định pháp luật, BMBH là cá nhân cần đáp ứng các điều kiện cụ thể.
1.4.2.1 Bên mua bảo hiểm phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) là thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm (BMBH) và doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), trong đó BMBH có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm, còn DNBH phải chi trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm (NĐBH) khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành.