NHẬN ĐƠN KHỞI KIỆN, ĐƠN YÊU CẦU TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chủ thể nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trong tố tụng dân sự
Đơn khởi kiện và đơn yêu cầu là văn bản tố tụng bắt buộc khi cá nhân, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự Các văn bản này phải tuân thủ các nội dung theo quy định tại khoản 4 Điều 189 và khoản 2 Điều 326 BLTTDS 2015 Ngoài ra, cần kèm theo tài liệu và chứng cứ để chứng minh quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm hoặc để xác minh tính hợp pháp của yêu cầu.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 190 và khoản 1 Điều 363 BLTTDS 2015, người khởi kiện và người yêu cầu phải gửi đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu kèm theo tài liệu, chứng cứ đến Tòa án có thẩm quyền Việc gửi có thể thực hiện qua các phương thức như nộp trực tiếp tại Tòa án, gửi qua dịch vụ bưu chính, hoặc gửi trực tuyến thông qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Tòa án có trách nhiệm tiếp nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu từ người khởi kiện, người yêu cầu thông qua bộ phận tiếp nhận đơn, cho phép nộp trực tiếp hoặc gửi qua bưu chính Đơn khởi kiện gửi trực tuyến cũng sẽ được in ra và ghi vào sổ nhận đơn Tại mỗi Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, bộ phận tiếp nhận đơn là cơ quan chính thức thực hiện nhiệm vụ này Theo Quyết định số 345/2016/QĐ-CA, Văn phòng Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện có quyền hạn tiếp nhận các đơn khởi kiện và yêu cầu, với cơ cấu tổ chức bao gồm Chánh văn phòng, không quá 02 Phó Chánh Văn phòng cùng các công chức, người lao động khác.
1 Khoản 1 Điều 189 và khoản 1 Điều 326 BLTTDS 2015
3 Khoản 2 Điều 2, khoản 2 Điều 5 Quyết định số: 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Theo Khoản 1 Điều 2 của Quyết định số 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định rằng cấp huyện sẽ có Chánh Văn phòng, 01 Phó Chánh Văn phòng, cùng với các công chức và người lao động khác.
Chỉ thị số 03/2016/CT-CA ngày 04/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân Theo đó, thủ tục tiếp nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu được xác định là một trong những thủ tục hành chính quan trọng, và hướng cải cách đề xuất là thành lập bộ phận hành chính tư pháp nhằm thực hiện hiệu quả các thủ tục này.
Qua thực hiện quy định của BLTTDS 2015 và trên thực tế hiện nay đã gặp phải những vướng mắc như sau:
Thứ nhất, BLTTDS 2015 chưa quy định cụ thể bộ phận tiếp nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về bộ phận tiếp nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu còn quá chung chung, không chỉ rõ bộ phận nào trong Tòa án nhân dân, điều này không phù hợp với quy định mới về bộ phận giúp việc theo Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 và không đáp ứng được tinh thần cải cách hành chính tư pháp hiện nay Sự thiếu hướng dẫn cụ thể dẫn đến sự khác biệt trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện tại các Tòa án hiện nay.
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long có sự khác biệt trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu so với các tỉnh khác Từ tháng 3/2009, Tòa án Vĩnh Long đã thành lập bộ phận hành chính – tư pháp để tiếp nhận trực tiếp các đơn này, trong khi các tỉnh như Bạc Liêu và Sóc Trăng vẫn chưa có bộ phận tương tự và giao nhiệm vụ cho Thư ký Tòa án Ngoài ra, các Tòa án huyện trong tỉnh Vĩnh Long cũng có sự khác nhau về chủ thể tiếp nhận đơn, như Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh giao cho Chánh văn phòng và Phó Chánh văn phòng, trong khi Tòa án nhân dân huyện Mang Thít lại giao cho Thư ký Tòa án thực hiện.
Theo quy định hiện hành, bộ phận tiếp nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu chỉ được xác định qua Quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, dẫn đến tính bắt buộc của quy định này chưa được đảm bảo cao.
5 Khoản 1 Điều 5 Quyết định số: 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
6 Báo cáo 03 năm thí điểm cải cách hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long ngày 03/02/2012 của TAND tỉnh Vĩnh Long
7 Bảng phân công trực tiếp dân của Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long
Quyết định số 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chỉ là văn bản nội bộ trong hệ thống Tòa án và chưa phải là văn bản quy phạm pháp luật, dẫn đến tính bắt buộc không cao và người dân khó tiếp cận Quyết định này chỉ quy định về bộ phận Văn phòng mà không chỉ rõ chức danh người tiếp nhận, gây khó khăn trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện Tại Văn phòng Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cán bộ văn thư thường không phải là Thư ký Tòa án và thiếu kiến thức chuyên môn pháp luật, làm cho việc xử lý đơn khởi kiện gặp nhiều trở ngại Hơn nữa, Điều 190 BLTTDS 2015 cho phép người khởi kiện gửi đơn trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án, nhưng không rõ ai sẽ là người tiếp nhận đơn này, có thể là cán bộ công nghệ thông tin hoặc Thư ký Tòa án.
Từ những bất cập, vướng mắc trên, tác giả kiến nghị như sau:
Theo quy định tại BLTTDS 2015, bộ phận tiếp nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu được xác định là Văn phòng, với trách nhiệm hướng dẫn cơ cấu của bộ phận này thuộc Tòa án nhân dân tối cao Điều 191 của BLTTDS 2015 đã được bổ sung để làm rõ hơn về quy trình tiếp nhận đơn.
Tòa án phải tiếp nhận đơn khởi kiện từ người khởi kiện nộp trực tiếp hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính, đồng thời ghi vào sổ nhận đơn Nếu đơn khởi kiện được gửi qua phương thức trực tuyến, Tòa án sẽ in bản giấy và cũng ghi vào sổ nhận đơn.
5 Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định về bộ phận tiếp nhận đơn theo khoản 1 Điều này”
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành Quyết định thống nhất về việc thành lập bộ phận hành chính – tư pháp tại Tòa án nhân dân cấp tỉnh, nhằm đảm bảo quy trình nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu được thực hiện hiệu quả Bộ phận này sẽ bao gồm Thư ký Tòa án và cán bộ công nghệ thông tin, có trách nhiệm tiếp nhận đơn khởi kiện trực tiếp cũng như qua cổng thông tin điện tử Tại Tòa án nhân dân cấp huyện, việc tiếp nhận đơn sẽ do Chánh Văn phòng hoặc Phó Chánh Văn phòng thực hiện.
Thủ tục nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu trong tố tụng dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 191 và khoản 1 Điều 363 BLTTDS 2015 thì thủ tục nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu như sau:
Tòa án có trách nhiệm tiếp nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu từ người khởi kiện hoặc người yêu cầu, thông qua việc nộp trực tiếp hoặc gửi qua dịch vụ bưu chính, và phải ghi nhận vào sổ nhận đơn Nếu đơn được gửi trực tuyến, Tòa án sẽ in ra bản giấy và cũng ghi vào sổ nhận đơn Thủ tục ghi vào sổ nhận đơn được hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Khi người khởi kiện nộp đơn trực tiếp tại Tòa án, Tòa án sẽ ghi lại ngày, tháng, năm nộp đơn vào sổ nhận đơn Ngày khởi kiện sẽ được xác định là ngày mà đơn được nộp.
Khi người khởi kiện gửi đơn đến Toà án qua bưu điện, Toà án sẽ ghi nhận ngày, tháng, năm nhận đơn theo thông tin từ bưu điện và ngày gửi đơn theo dấu bưu điện trên phong bì Phong bì có dấu bưu điện cần phải được đính kèm với đơn khởi kiện Ngày khởi kiện sẽ được xác định dựa trên dấu bưu điện nơi gửi Nếu không thể xác định ngày, tháng, năm từ dấu bưu điện, Toà án sẽ ghi chú trong sổ nhận đơn là “không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện”, và trong trường hợp này, ngày khởi kiện sẽ được tính là ngày Toà án nhận được đơn từ bưu điện.
- Toà án phải ghi (hoặc đóng dấu nhận đơn có ghi) ngày, tháng, năm nhận đơn vào góc trên bên trái của đơn khởi kiện
Khi Tòa án nhận đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu nộp trực tiếp, họ phải cấp ngay giấy xác nhận cho người khởi kiện hoặc người yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành hướng dẫn về mẫu “Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện” (Mẫu 24-DS) theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về mẫu khác liên quan.
Giấy xác nhận đã nhận đơn yêu cầu là tài liệu quan trọng trong quá trình xử lý đơn từ Tòa án Đối với các đơn được gửi qua dịch vụ bưu chính, Tòa án có trách nhiệm gửi thông báo xác nhận đã nhận đơn cho người khởi kiện hoặc người yêu cầu trong vòng 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn.
Khi nhận đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu qua phương thức gửi trực tuyến, Tòa án có trách nhiệm thông báo ngay cho người khởi kiện thông qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có) Tòa án sẽ gửi thông báo xác nhận đã nhận đơn khởi kiện và đơn yêu cầu đến địa chỉ thư điện tử đã đăng ký của người khởi kiện và người yêu cầu.
Hiện nay, thủ tục nhận đởn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án có một số bất cập, vướng mắc như sau:
Mẫu “Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện” chỉ xác nhận việc Tòa án đã tiếp nhận đơn khởi kiện, nhưng không ghi nhận các tài liệu và chứng cứ kèm theo, dẫn đến việc hồ sơ chưa đầy đủ.
Khi người khởi kiện gửi kèm tài liệu và chứng cứ quan trọng, việc nộp bản chính cần được ghi nhận trong Giấy xác nhận Trước đây, theo Điều 7 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012, Tòa án cấp Giấy báo nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trong khi tài liệu chứng cứ sẽ được giao nhận theo hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP cùng ngày, yêu cầu lập biên bản giao nhận chứng cứ riêng biệt.
Năm 2015, không có quy định rõ ràng về thủ tục nhận tài liệu và chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện Điều này dẫn đến việc người khởi kiện không nhận được "Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện" một cách chính thức.
“Biên bản giao nhận chứng cứ” thì lại thừa, hao tốn thời gian, vật chất; còn chỉ cấp
Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện cần ghi rõ các tài liệu và chứng cứ kèm theo; nếu không, sẽ thiếu sót Trong trường hợp cán bộ nhận đơn làm thất lạc giấy tờ, người khởi kiện sẽ không có chứng cứ để chứng minh việc nộp đơn cho Tòa án.
Vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa Nguyên đơn Nguyễn Thị Nên và Bị đơn Phạm Hồng Vân được Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh thụ lý Bà Nên khởi kiện yêu cầu bà Vân trả số tiền vay gốc 145.000.000 đồng và lãi chậm thanh toán 6.270.000 đồng, với chứng cứ duy nhất là “Giấy nhận nợ” ngày 18/02/2016 do bà Vân tự viết Tuy nhiên, Giấy xác nhận nhận đơn khởi kiện số 412/GXN-TA ngày 27/8/2017 của Tòa án chỉ ghi nhận việc nhận đơn khởi kiện vào ngày 11/8/2017 mà không đề cập đến các thông tin khác.
8 Khoản 1 Điều 17 Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016
9 Mẫu số 24-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017
Vụ án dân sự sơ thẩm số 119/2017/TLST-DS, được thụ lý vào ngày 24/8/2017 bởi TAND thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, liên quan đến tranh chấp hợp đồng vay tài sản Bà Nên đã gửi tài liệu chứng cứ kèm theo, tuy nhiên, nếu cán bộ nhận đơn làm thất lạc "Giấy nhận nợ" ngày 18/02/2016, thì bà Nên sẽ không có căn cứ để khiếu nại Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Nên cũng không có cơ sở để chứng minh.
Trong trường hợp “Giấy xác nhận” ghi nhận các tài liệu và chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, tên văn bản tố tụng “Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện” theo quy định của BLTTDS 2015 và Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP không phù hợp.
Thứ ba, trong mẫu “Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện” người ký là
Theo Quyết định số 345/2016/QĐ-CA, Văn phòng có thẩm quyền nhận đơn khởi kiện, cho phép Chánh Văn phòng hoặc Phó Chánh Văn phòng ký thay Chánh án mà không cần quy định cụ thể về việc ký của Chánh án hoặc người được Chánh án phân công.
Hiện tại, chưa có mẫu hướng dẫn chính thức cho "Giấy xác nhận đã nhận đơn yêu cầu", dẫn đến việc các Tòa án chỉ sử dụng mẫu "Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện" và tự chỉnh sửa để cấp cho người yêu cầu Việc thiếu một mẫu thống nhất có thể gây ra sự khác biệt trong hình thức văn bản giữa các Tòa án, tạo ra sự không đồng nhất trong quy trình tiếp nhận đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Từ đó, tác giả kiến nghị như sau:
XỬ LÝ ĐƠN KHỞI KIỆN, ĐƠN YÊU CẦU TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
Trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi nhận đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán xem xét đơn Tiếp theo, trong thời hạn 05 ngày làm việc từ khi được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và đưa ra quyết định, bao gồm cả việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn Đối với đơn yêu cầu, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 không quy định thời hạn xử lý cho Thẩm phán.
Về căn cứ, thời hạn và thủ tục yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, khoản
Theo Điều 193 BLTTDS 2015, nếu đơn khởi kiện thiếu nội dung theo khoản 4 Điều 189, Thẩm phán sẽ thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện về những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong thời hạn không quá 01 tháng Trong trường hợp đặc biệt, thời gian có thể gia hạn thêm 15 ngày Văn bản thông báo có thể được giao trực tiếp, gửi trực tuyến hoặc qua dịch vụ bưu chính và phải được ghi chú vào sổ nhận đơn Thời gian sửa đổi, bổ sung không tính vào thời hiệu khởi kiện Mẫu thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung được thực hiện theo mẫu số 26-DS theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP.
Về căn cứ, thời hạn và thủ tục sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu, khoản 2 Điều
Theo quy định tại Điều 363 BLTTDS 2015, nếu đơn yêu cầu không ghi đầy đủ nội dung theo khoản 2, Thẩm phán có quyền yêu cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong vòng 07 ngày kể từ ngày nhận đơn Quy trình sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu sẽ được thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 193 của BLTTDS.
Quá trình thực hiện quy định của BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành trên thực tế có những tồn tại, vướng mắc như sau:
Thứ nhất, căn cứ yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu còn hạn chế
11 Khoản 2 Điều 191 và khoản 1 Điều 363 BLTTDS 2015
BLTTDS 2015 quy định rằng Tòa án chỉ yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu khi các nội dung không đủ theo khoản 4 Điều 189 và khoản 2 Điều 362 Tuy nhiên, nếu đơn khởi kiện đã đúng quy định nhưng tài liệu, chứng cứ kèm theo chưa đầy đủ, luật không quy định rõ việc Tòa án có ra Thông báo yêu cầu bổ sung hay không Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP chỉ cung cấp mẫu Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung mà không đề cập đến việc yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ Do đó, cần làm rõ liệu có thể sử dụng mẫu Thông báo này để yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ hay không Thêm vào đó, việc gửi đơn khởi kiện qua phương tiện điện tử không kèm theo tài liệu, chứng cứ cũng đặt ra vấn đề chưa được quy định về yêu cầu bổ sung tài liệu chứng cứ.
Trong vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" giữa Nguyên đơn Đoàn Thị Lợi, Bùi Thị Ánh Tuyết và Bị đơn Phạm Nhật Tuấn, Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long đã thụ lý giải quyết Bà Lợi yêu cầu ông Tuấn trả lại phần đất lấn chiếm thuộc thửa 138, diện tích 87m², trong khi bà Tuyết yêu cầu trả lại phần đất lấn chiếm thuộc thửa 18, diện tích 58m² Khi tiếp nhận đơn khởi kiện và tài liệu, Tòa án nhận thấy yêu cầu khởi kiện chưa cụ thể về diện tích đất tranh chấp và thiếu tài liệu chứng thực lưu trữ địa chính, do đó đã ra Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện số 1144/TB-TA ngày 14/6/2017 Thông báo này yêu cầu các Nguyên đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ theo mẫu DS-26 theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP.
Thứ hai, theo quy định của BLTTDS 2015 thì Chánh án Tòa án phân công
Thẩm phán có trách nhiệm xử lý đơn khởi kiện và đơn yêu cầu, do đó, họ là người ký Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện Tuy nhiên, theo Quyết định số 345/2016/QĐ-CA, bộ phận Văn phòng được giao nhận và xử lý đơn, trong đó phần lớn Chánh Văn phòng hiện nay đều là Thẩm phán, dẫn đến việc giao Thẩm phán ký Thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và đơn yêu cầu là không hợp lý.
13 Hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm “Tranh chấp quyền sử dụng đất” thụ lý số 100/2017/TLST-DS ngày 29/6/2017 của TAND thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long
Thông báo yêu cầu nộp tiền tạm ứng án phí, thông báo chuyển đơn khởi kiện và thông báo trả đơn khởi kiện đều cần được giao cho Thẩm phán ký, tuy nhiên các thông báo này vẫn chưa đảm bảo tính phù hợp.
Thời hạn yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện do Thẩm phán ấn định không quá 01 tháng, có thể gia hạn thêm 15 ngày trong trường hợp đặc biệt, tuy nhiên quyết định này phụ thuộc vào Thẩm phán Quy định này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của người khởi kiện, đặc biệt khi Thẩm phán không khách quan, vì một số trường hợp cần thời gian dài để thu thập chứng cứ Nếu thời gian ấn định quá ngắn, người khởi kiện sẽ gặp khó khăn trong việc cung cấp tài liệu và chứng cứ cần thiết.
Từ đó, tác giả kiến nghị như sau:
Sửa đổi, bổ sung khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 191 và khoản 1, khoản 2 Điều 363 BLTTDS 2015, giao Chánh Văn phòng nhiệm vụ xem xét đơn khởi kiện và đơn yêu cầu Một trong những quyết định của Chánh Văn phòng trong quá trình này là yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo.
“Điều 191 Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện
2 Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công Chánh Văn phòng xem xét đơn khởi kiện
3 Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Chánh Văn phòng phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây: a) Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và bổ sung tài liệu, chứng cứ kèm theo;”
“Điều 363 Thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu
Trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi nhận được đơn yêu cầu cùng các tài liệu và chứng cứ liên quan, Chánh án Tòa án sẽ chỉ định Chánh Văn phòng để xử lý đơn yêu cầu.
2 Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 của Bộ luật này thì Chánh Văn phòng yêu cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu Thủ tục sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 193 của Bộ luật này”
Hai là, sửa đổi, bổ sung tên điều luật và nội dung Điều 193, khoản 2 Điều
Theo quy định tại 363 BLTTDS 2015, nếu người khởi kiện hoặc yêu cầu không gửi đầy đủ tài liệu, chứng cứ, thì cần phải yêu cầu bổ sung Thời hạn yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện được quy định rõ: đối với vụ việc đơn giản không quá 15 ngày, còn đối với vụ việc phức tạp thì ít nhất 15 ngày và không quá 30 ngày.
01 tháng và cả hai trường hợp có thể gia hạn Cụ thể:
“Điều 193 Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và bổ sung tài liệu, chứng cứ kèm theo
1 Trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 4 Điều 189 của Bộ luật này và tài liệu, chứng cứ kèm theo không đầy đủ thì Chánh Văn phòng thông báo bằng văn bản nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho người khởi kiện để họ sửa đổi, bổ sung Thời hạn để sửa đổi, bổ sung đối với vụ việc đơn giản là không quá 15 ngày, đối với vụ việc phức tạp ít nhất 15 ngày và không quá 30 ngày; trường hợp đặc biệt, Chánh Văn phòng có thể gia hạn nhưng không quá 10 ngày cho vụ việc đơn giản, 15 ngày cho vụ việc phức tạp Văn bản thông báo có thể được giao trực tiếp, gửi trực tuyến hoặc gửi cho người khởi kiện qua dịch vụ bưu chính và phải ghi chú vào sổ nhận đơn để theo dõi Thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện
2 Trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và bổ sung tài liệu, chứng cứ kèm theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 189 của Bộ luật này và tài liệu, chứng cứ kèm theo không đầy đủ thì Chánh Văn phòng tiếp tục việc thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu thì Chánh Văn phòng trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện”
“Điều 363 Thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu
Thụ lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 BLTTDS 2015, trong thời hạn
Trong vòng 05 ngày làm việc kể từ khi được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và quyết định thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc rút gọn nếu đủ điều kiện theo Điều 317 BLTTDS 2015 Nếu đơn khởi kiện đáp ứng đầy đủ yêu cầu tại Điều 189 BLTTDS 2015 và thuộc thẩm quyền của Tòa án, Thẩm phán sẽ tiến hành thụ lý vụ án Đối với đơn yêu cầu, theo Điều 363 BLTTDS 2015, Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán giải quyết trong thời hạn 03 ngày làm việc, nhưng không quy định thời hạn xử lý và quyết định thụ lý đơn.
Về thủ tục và thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện, Điều 195 BLTTDS 2015 quy định như sau:
Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện về việc nộp tiền tạm ứng án phí và dự tính số tiền này, ghi vào giấy báo "Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí" theo Mẫu số 29-DS Người khởi kiện có thời hạn 07 ngày để nộp tiền tạm ứng án phí và gửi biên lai thu cho Tòa án Vụ án sẽ được thẩm phán thụ lý khi nhận được biên lai thu tiền tạm ứng án phí từ người khởi kiện.
Khi người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí, Thẩm phán có trách nhiệm thụ lý vụ án ngay khi nhận được đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ liên quan.
Về thủ tục và thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu, khoản 4 Điều 363 BLTTDS
2015 quy định: Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán thực hiện như sau:
Người yêu cầu sẽ nhận được thông báo nộp lệ phí giải quyết việc dân sự trong vòng 05 ngày làm việc kể từ khi nhận thông báo Tuy nhiên, nếu người yêu cầu được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật, thì sẽ không cần thực hiện nghĩa vụ này.
- Tòa án thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự
- Trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc không phải nộp lệ phí thì Thẩm phán thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu
Theo quy định nêu trên thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày “nhận” được
“Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí” và 05 ngày làm việc kể từ ngày “nhận” được
Khi nhận "Thông báo nộp tiền lệ phí" từ Tòa án, người khởi kiện và người yêu cầu cần nộp tiền tạm ứng án phí và lệ phí, kèm theo biên lai thu tiền Trong trường hợp Tòa án không thể tống đạt Thông báo do người khởi kiện không có mặt, Tòa sẽ thực hiện niêm yết theo Điều 179 BLTTDS 2015, với thời hạn niêm yết công khai là 15 ngày Do đó, việc quy định thời hạn 07 ngày và 05 ngày làm việc từ ngày nhận Thông báo mà không có quy định về thủ tục niêm yết là không hợp lý.
Quy định về thời hạn 07 ngày và 05 ngày làm việc trong luật hiện tại không rõ ràng về việc thời gian này có tính khi người khởi kiện hoặc người yêu cầu gặp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hay không Trước đây, theo Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP, thời gian gặp sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí Do đó, cần bổ sung quy định này vào luật để bảo vệ quyền lợi của người khởi kiện và người yêu cầu trong trường hợp họ gặp phải sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, người đề nghị miễn tạm ứng án phí phải nộp đơn kèm tài liệu chứng minh cho Tòa án có thẩm quyền Chánh án sẽ phân công Thẩm phán xem xét đơn và Tòa án phải thông báo kết quả trong vòng 03 ngày làm việc Tuy nhiên, quy định tại khoản 4 Điều 195 và điểm c khoản 4 Điều 363 BLTTDS 2015 lại yêu cầu Thẩm phán thụ lý vụ án ngay khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu liên quan nếu người yêu cầu được miễn án phí Do đó, giữa Nghị quyết số 326/2016 và BLTTDS 2015 tồn tại sự mâu thuẫn trong quy trình xử lý đơn đề nghị miễn tạm ứng án phí.
Ví dụ: Trong vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa Nguyên đơn Đào
Ông Đào Sa Rây, người dân tộc Khơme thuộc xã có điều kiện kinh tế khó khăn và có giấy chứng nhận hộ cận nghèo, đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long Đồng thời, ông cũng đã đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh đã thụ lý vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, ông Đào Sa Rây được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, do đó Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long đã thụ lý vụ án ngay khi nhận đủ tài liệu và chứng cứ Tuy nhiên, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 yêu cầu phải thực hiện thủ tục xét đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí, dẫn đến tình trạng các Tòa án hiện nay không biết áp dụng thủ tục nào Thời hạn 03 ngày xử lý đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí cũng cần được xem xét trong thời hạn 07 ngày theo khoản 2 Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự.
2015 hay không cũng không được hướng dẫn rõ
14 Điều 15, Điều 16 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
15 Hồ sơ vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” thụ lý số 66/2016/TLST-DS ngày 20/5/2016 của TAND thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long
Từ những bất cập, vướng mắc nêu trên, tác giả kiến nghị như sau:
Một là, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 195 và điểm a khoản 4 Điều 363 BLTTDS 2015 trong trường hợp Tòa án không tống đạt trực tiếp được
Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí hoặc lệ phí cho người khởi kiện phải được niêm yết và thời hạn nộp tiền phải tuân theo thời gian niêm yết Trong trường hợp người nộp gặp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, thời gian này sẽ không được tính vào hạn nộp tiền tạm ứng án phí và lệ phí.
“Điều 195 Thụ lý vụ án
2 Chánh Văn phòng dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào giấy báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí hoặc trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày giấy báo được niêm yết, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí Trường hợp người khởi kiện gặp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn nộp tiền tạm ứng án phí”
“Điều 363 Thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu
4 Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Chánh Văn phòng thực hiện như sau: a) Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí hoặc trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày giấy báo được niêm yết, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí Trường hợp người yêu cầu gặp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn nộp tiền lệ phí”
Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 195 và điểm c khoản 4 Điều 363 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nhằm phù hợp với Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, trong trường hợp người khởi kiện hoặc người yêu cầu có đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí và lệ phí.
“Điều 195 Thụ lý vụ án
4.Trường hợp người khởi kiện không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Chánh
Văn phòng phải tiếp nhận vụ án khi nhận được đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ liên quan Nếu người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, Chánh Văn phòng sẽ thụ lý vụ án khi nhận Thông báo miễn nộp tiền tạm ứng án phí Thời gian Tòa án xem xét đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí sẽ không tính vào hạn nộp tiền tạm ứng án phí.
“Điều 363 Thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu
Trong trường hợp người yêu cầu không cần nộp lệ phí, Chánh Văn phòng sẽ tiến hành thụ lý vụ việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu cùng các tài liệu và chứng cứ kèm theo.
Chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
BLTTDS 2015 quy định rõ ràng về thẩm quyền giải quyết vụ án theo cấp Tòa án, lãnh thổ và sự lựa chọn của nguyên đơn tại các Điều 36, 37, 39, 40 Tuy nhiên, nhiều người khởi kiện và yêu cầu thường không nắm rõ quy định pháp luật, dẫn đến việc gửi đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo không đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Ông Bùi Hữu Hạnh, Chủ DNTN Xăng dầu Tuấn Lộc tại xã Mỹ Hòa, thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, đã ký hợp đồng mua bán dầu với Chi nhánh Công ty TNHH MTV Hàng Hải Hà Nội Phía Nam tại Cần Thơ Do Công ty Hàng Hải Hà Nội Phía Nam chưa thanh toán số tiền mua dầu còn thiếu, ông Hạnh đã quyết định gửi đơn khởi kiện lên Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh, yêu cầu Tòa án buộc công ty này phải trả số tiền còn thiếu.
Ông Hạnh đã yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh giải quyết vấn đề liên quan đến việc mua bán dầu tại DNTN Xăng dầu Tuấn Lộc của ông Theo Quyết định số 037/SHMC ngày 01/11/2012 của Hội đồng thành viên Công ty TNHH MTV Hàng Hải Hà Nội Phía Nam, các khoản công nợ của chi nhánh tại Cần Thơ sẽ được chuyển giao cho Công ty TNHH MTV Hàng Hải Hà Nội Phía Nam để giải quyết Do đó, các vấn đề liên quan đến hoạt động của chi nhánh tại Cần Thơ, bao gồm các khoản nợ, đã được chuyển giao cho công ty này.
Trụ sở Công ty TNHH MTV Hàng Hải Hà Nội Phía Nam tọa lạc tại số 62 Bis Huỳnh Thúc Kháng, quận 1, TP Hồ Chí Minh Do đó, mọi tranh chấp liên quan đến các khoản nợ sẽ được giải quyết tại Tòa án nhân dân quận 1, TP Hồ Chí Minh, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39.
Bộ luật tố tụng dân sự mới đúng 16
Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 191 BLTTDS 2015, nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác, Tòa án đã nhận đơn phải chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện Thẩm phán xử lý đơn khởi kiện cần ra “Thông báo chuyển đơn khởi kiện” theo Mẫu số 25-DS trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ khi được phân công Ngoài quy định này, không có điều luật nào khác quy định về việc chuyển đơn khởi kiện.
Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác được chia thành hai loại: thứ nhất là vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp khác, và thứ hai là vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cùng cấp khác.
Hiện nay, không có quy định cụ thể về việc chuyển đơn khởi kiện, dẫn đến mẫu “Thông báo chuyển đơn khởi kiện” chỉ mang tính chất chung chung mà thiếu căn cứ pháp lý Điều này khiến cho người được thông báo không rõ lý do đơn khởi kiện của mình bị chuyển đi, có thể do thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp khác hoặc Tòa án cùng cấp khác Vì vậy, tác giả đề xuất cần thiết phải có một điều luật riêng quy định rõ ràng về căn cứ và trình tự, thủ tục chuyển đơn khởi kiện, nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho các Tòa án thực hiện một cách thống nhất.
Hiện nay, pháp luật chưa quy định rõ ràng về việc Tòa án có cần gửi văn bản khi chuyển đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền hay không, dẫn đến khả năng chỉ chuyển đơn và tài liệu kèm theo mà không có lý do cụ thể Điều này khiến Tòa án nhận hồ sơ khởi kiện không nắm được lý do chuyển giao Hơn nữa, trách nhiệm của Tòa án nhận hồ sơ khởi kiện cũng không được quy định, gây khó khăn khi một Tòa án xem xét vụ án không thuộc thẩm quyền của mình.
Hồ sơ chuyển đơn khởi kiện của Bùi Hữu Hạnh theo Thông báo chuyển đơn khởi kiện ngày 02/5/2017 từ TAND thị xã Bình Minh, Vĩnh Long, cần có văn bản xác nhận từ Tòa án nhận đơn khởi kiện để đảm bảo rằng hồ sơ đã được tiếp nhận và sẽ được xem xét Do đó, cần bổ sung quy định về việc Tòa án phải gửi Thông báo chuyển đơn khởi kiện cho người khởi kiện và Tòa án nhận đơn, đồng thời quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ liên quan.
Theo Mẫu số 25-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP, “Thông báo chuyển đơn khởi kiện” không yêu cầu phải có tài liệu, chứng cứ kèm theo Tuy nhiên, tác giả cho rằng khi Tòa án phát hành “Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo”, thì trong Thông báo chuyển đơn khởi kiện cũng cần ghi nhận các tài liệu, chứng cứ để tránh thất lạc Đối với đơn yêu cầu gửi đến Tòa án không đúng thẩm quyền, BLTTDS 2015 không quy định rõ cách xử lý khi nhận đơn này.
Trong trường hợp vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nhưng đơn yêu cầu được gửi đến Tòa án nhân dân cấp huyện, thì vụ việc này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhận đơn Mặc dù Điều 363 BLTTDS 2015 không quy định rõ ràng rằng Tòa án nhận đơn phải chuyển đơn đến Tòa án có thẩm quyền, hiện nay các Tòa án chỉ thực hiện việc giải thích và hướng dẫn người yêu cầu gửi đơn đến Tòa án phù hợp.
Từ những bất cập nêu trên, tác giả kiến nghị như sau:
Bổ sung Điều 191a vào Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 nhằm quy định rõ ràng về chuyển đơn khởi kiện, bao gồm căn cứ, trình tự thủ tục chuyển đơn và trách nhiệm của Tòa án trong việc tiếp nhận đơn khởi kiện.
“Điều 191a Chuyển đơn khởi kiện
1 Chánh Văn phòng chuyển đơn khởi kiện trong những trường hợp sau đây: a) Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp khác b) Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cùng cấp khác
2 Khi chuyển đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh Văn phòng phải có văn bản nêu rõ lý do chuyển đơn khởi kiện gửi cho người khởi kiện, đồng thời gửi cho Tòa án được chuyển đơn khởi kiện
3 Tòa án được chuyển đơn khởi kiện khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo phải có văn bản gửi cho Tòa án chuyển đơn khởi kiện xác nhận đã nhận được đơn khởi kiện”