ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC MIỄN, GIẢM TẠM ỨNG ÁN PHÍ VÀ ÁN PHÍ
Đối tượng được miễn tạm ứng án phí và án phí trong tố tụng dân sự
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định cụ thể về đối tượng miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí trong tố tụng dân sự Theo Điều 150, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ quyết định các trường hợp được miễn, giảm tạm ứng án phí và án phí.
Theo khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các đối tượng được miễn nộp tiền tạm ứng án phí và án phí trong tố tụng dân sự được quy định cụ thể.
1 Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
2.Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
3 Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
4 Trẻ em, tức người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016
5 Cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo Hiện nay, chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo được thực hiện theoQuyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ Theo đó, tại Điều 2 của Quyết định quy định chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 như sau:
- Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống
Người dân có thu nhập bình quân từ 700.000 đến 1.000.000 đồng mỗi tháng thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, với ít nhất ba chỉ số đo lường cho thấy mức độ thiếu hụt này.
- Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống
Người dân có thu nhập bình quân từ 900.000 đến 1.300.000 đồng mỗi tháng thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, với ít nhất 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt.
Khu vực nông thôn được xác định là những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng mỗi tháng, đồng thời thiếu hụt dưới 03 chỉ số về khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Khu vực thành thị được xác định là những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng mỗi tháng, đồng thời thiếu hụt dưới 03 chỉ số trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
6.Người cao tuổi, là người từ đủ 60 tuổi trở lên theo Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009
7 Người khuyết tật, là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn theo khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm
8 Người có công với cách mạng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), người có công với cách mạng bao gồm nhiều đối tượng như: người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945, người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến, thương binh và người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, người hoạt động cách mạng bị địch bắt tù, đày, cũng như những người có công trong việc giúp đỡ cách mạng.
9 Đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc thì “Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Vi dụ: Đồng bào dân tộc Khơ me ở tỉnh Vĩnh Long Đối với việc xác định xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì căn cứ vào Quyết định số 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn 2017 – 2020 Ví dụ: Tại tỉnh Vĩnh Long có xã Loan Mỹ thuộc huyện Tam Bình, xã Trà Côn thuộc huyện Trà Ôn là xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
10 Thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 đã mở rộng đối tượng được miễn nộp tiền tạm ứng án phí và án phí so với quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 Cụ thể, nghị quyết bổ sung các đối tượng như trẻ em, cá nhân thuộc hộ cận nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, và thân nhân liệt sĩ Những đối tượng này thường không có thu nhập hoặc có thu nhập thấp, gặp khó khăn tài chính khi phải nộp tiền tạm ứng án phí để thụ lý vụ án hoặc án phí khi vụ án được giải quyết Việc miễn nộp tiền tạm ứng án phí và án phí cho họ thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước.
Quá trình thực hiện quy định pháp luật về miễn nộp tiền tạm ứng án phí và tiền án phí tại các Tòa án thời gian qua đã gặp phải nhiều bất cập và vướng mắc.
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định miễn nộp tiền tạm ứng án phí và tiền án phí cho trẻ em, nhưng không xác định độ tuổi cụ thể và khả năng thu nhập, điều này không phù hợp với quy định tại Điều 69 Bộ luật Tố tụng Dân sự về năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Theo quy định tại Điều 69 BLTTDS 2015 về năng lực hành vi tố tụng dân sự chia các mức độ tuổi của người chưa đủ 18 tuổi như sau:
3 Điều 11 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009
Người chưa đủ 06 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng tham gia tố tụng dân sự Quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ sẽ được thực hiện bởi người đại diện hợp pháp, nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp tại Tòa án.
Đối tượng được giảm tạm ứng án phí và án phí trong tố tụng dân sự
Trước đây, theo quy định tại Điều 14 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm
Từ năm 2009, thuật ngữ "giảm tạm ứng án phí, án phí" đã được thay thế bằng "miễn nộp một phần tạm ứng án phí, án phí" Theo quy định, những người gặp khó khăn về kinh tế có thể được miễn nộp một phần tiền tạm ứng án phí, án phí, với điều kiện được xác nhận bởi Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc Mức miễn nộp không được vượt quá 50% số tiền tạm ứng án phí, án phí mà người đó phải nộp.
Theo khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, người gặp sự kiện bất khả kháng không đủ tài sản để nộp tạm ứng án phí sẽ được Tòa án giảm 50% mức tạm ứng nếu có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu toàn bộ án phí và lệ phí Tòa án trong một số trường hợp nhất định.
Có căn cứ cho thấy rằng người được giảm tạm ứng án phí và án phí không nhất thiết phải là người gặp sự kiện bất khả kháng, dẫn đến việc không có tài sản để nộp tiền tạm ứng án phí và án phí.
- Theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì họ có tài sản để nộp toàn bộ tiền án phímà họ phải chịu
So với quy định trước đây tại Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 đã hạn chế đối tượng được giảm tạm ứng án phí, bỏ hẳn yêu cầu xác nhận của tổ chức.
7 Khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
Theo khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, người có khó khăn về kinh tế cần được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận Quy định này nhằm hạn chế tình trạng xác nhận không đúng đối tượng từ các Ủy ban nhân dân cấp xã Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, vẫn xuất hiện một số bất cập và vướng mắc cần được giải quyết.
Hiện nay, nhiều hộ dân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn do thiếu việc làm ổn định hoặc có việc làm với mức lương thấp nhưng không được cấp Giấy chứng nhận hộ nghèo, cận nghèo Đối với họ, việc nộp tạm ứng án phí lớn là một gánh nặng Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, chỉ những trường hợp gặp sự kiện bất khả kháng mới được giảm tạm ứng án phí Việc xác nhận hoàn cảnh kinh tế khó khăn trước đây của một số Ủy ban nhân dân cấp xã không chính xác đã dẫn đến sửa đổi Nghị quyết, nhưng điều này lại ảnh hưởng đến những người thực sự cần được bảo vệ.
Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015, sự kiện bất khả kháng được định nghĩa, nhưng hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về việc "gặp sự kiện bất khả kháng dẫn đến không đủ tài sản để nộp tạm ứng án phí, án phí." Các tranh chấp trong tố tụng dân sự rất đa dạng về lĩnh vực và giá trị, khiến việc áp dụng quy định này trở nên khó khăn Việc dựa vào xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người phải nộp án phí cư trú cũng không đảm bảo tính khách quan, dễ dẫn đến xác nhận tùy tiện Do đó, tác giả đề xuất rằng chỉ cần người nộp án phí chứng minh khó khăn tài chính kèm theo tài liệu chứng cứ và xác nhận của Ủy ban nhân dân là đủ để Tòa án xem xét, trong khi việc chấp nhận giảm án phí nên dựa vào quá trình đánh giá chứng cứ của Tòa án để đưa ra quyết định phù hợp.
Theo quy định về miễn tạm ứng án phí, người từ 15 đến dưới 18 tuổi có tài sản riêng và tham gia giao dịch dân sự sẽ chỉ được giảm 50% tạm ứng án phí khi có tranh chấp liên quan Dù vẫn thuộc độ tuổi chưa thành niên và thường sống phụ thuộc vào gia đình, họ vẫn sở hữu tài sản riêng Do đó, khi khởi kiện hoặc có yêu cầu liên quan, họ cần nộp một phần tạm ứng án phí, cụ thể là 50% mức tạm ứng án phí của người từ 18 tuổi trở lên.
Từ đó, tác giả kiến nghị như sau:
Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định rằng chỉ những người có khó khăn về tài chính, kèm theo tài liệu chứng minh và xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú mới được giảm tiền tạm ứng án phí Ngoài ra, người từ 15 đến chưa đủ 18 tuổi, có tài sản riêng và tham gia giao dịch liên quan đến tài sản đó sẽ được giảm 50% mức tạm ứng án phí.
Người gặp khó khăn tài chính có thể được Tòa án giảm 50% tạm ứng án phí, án phí và lệ phí Tòa án nếu có tài liệu chứng minh kèm theo xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú.
Người từ 15 đến chưa đủ 18 tuổi có quyền sở hữu tài sản riêng và thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, mức tạm ứng án phí mà họ phải nộp sẽ được giảm 50%.
Nghiên cứu quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 cho thấy các đối tượng được miễn, giảm tạm ứng án phí và án phí trong tố tụng dân sự Tác giả đã rút ra một số kết luận quan trọng liên quan đến quyền lợi của các bên trong quá trình tố tụng.
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, đã mở rộng và cụ thể hóa quy định về đối tượng được miễn, giảm nộp tiền tạm ứng án phí và án phí, so với Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 Điều này thể hiện rõ chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với những đối tượng gặp khó khăn trong xã hội cần được bảo vệ.
Thực tế giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cho thấy Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về miễn, giảm tạm ứng án phí còn nhiều bất cập Cụ thể, quy định miễn phí cho trẻ em không dựa vào năng lực hành vi tố tụng dân sự theo Điều 69 BLTTDS 2015 Ngoài ra, quy định về người khuyết tật thiếu căn cứ từ Giấy xác nhận khuyết tật, và yêu cầu chứng minh sự kiện bất khả kháng để được giảm án phí gây khó khăn cho các đối tượng liên quan.
Cần sớm sửa đổi và bổ sung quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 để bảo vệ quyền lợi của người dân và hỗ trợ các đối tượng khó khăn khác.
THẨM QUYỀN, THỦ TỤC MIỄN, GIẢM TẠM ỨNG ÁN PHÍ VÀ ÁN PHÍ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Thẩm quyền miễn, giảm tạm ứng án phí và án phí trong tố tụng dân sự
Tạm ứng án phí và án phí là các khoản chi phí phát sinh khi Tòa án giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm Thẩm quyền xem xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí và án phí sẽ khác nhau tùy theo từng giai đoạn Theo Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, việc miễn, giảm nộp tiền tạm ứng án phí trong tố tụng dân sự được quy định cụ thể.
Trước khi thụ lý vụ án, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công có quyền xem xét và quyết định đơn đề nghị miễn hoặc giảm tạm ứng án phí sơ thẩm.
Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền xem xét đơn đề nghị miễn hoặc giảm tạm ứng án phí từ bị đơn có yêu cầu phản tố, cũng như từ người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập trong vụ án.
- Thẩm phán được Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm phân công có thẩm quyền xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí phúc thẩm
Trước khi tiến hành phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Thẩm phán được Chánh án Tòa án chỉ định có thẩm quyền xem xét và quyết định việc miễn hoặc giảm án phí cho các đương sự có yêu cầu.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền xem xét miễn hoặc giảm án phí cho đương sự khi có yêu cầu, đồng thời ra bản án hoặc quyết định giải quyết nội dung vụ án.
Việc giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án đã bộc lộ nhiều bất cập và vướng mắc liên quan đến thẩm quyền xem xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí và án phí.
Theo Quyết định số 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Văn phòng Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện có quyền tiếp nhận đơn khởi kiện Do đó, khi người khởi kiện nộp đơn đề nghị miễn hoặc giảm tạm ứng án phí sơ thẩm cùng với đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án không cần phân công Thẩm phán xem xét đơn đề nghị mà có thể giao cho Chánh Văn phòng thực hiện việc này để phù hợp với quy định mới.
Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, nguyên đơn có thể yêu cầu khởi kiện bổ sung nhưng phải nộp tiền tạm ứng án phí Theo quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, chỉ có Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công giải quyết vụ án mới có quyền xem xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí của bị đơn có yêu cầu phản tố hoặc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Điều này cho thấy quy định hiện hành chưa đề cập đến trường hợp nguyên đơn yêu cầu khởi kiện bổ sung, dẫn đến sự thiếu sót trong quy trình.
Trong vụ án ly hôn giữa bà Lại Thị Chính và ông Đào Ngọc Hai tại Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh, bà Chính yêu cầu ly hôn và nuôi con, không yêu cầu tòa giải quyết tài sản chung Sau đó, bà đã bổ sung đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung, bao gồm thửa đất, tiền mặt và đàn dê Tuy nhiên, vấn đề miễn, giảm tạm ứng án phí cho yêu cầu chia tài sản chưa được quy định rõ trong Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, do đó cần bổ sung quy định tại Điều 15 để đảm bảo tính thống nhất trong thực hiện.
Sau khi Tòa án mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vào thứ ba, nếu có đương sự không đồng ý với bản án hoặc quyết định sơ thẩm, họ cần làm đơn kháng cáo và nộp đơn đó.
9 Khoản 2 Điều 2, khoản 2 Điều 5 Quyết định số: 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
Vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 248/2016/TLST-DS, thụ lý vào ngày 08/9/2016, của TAND thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, liên quan đến các vấn đề ly hôn, tranh chấp nuôi con và chia tài sản khi ly hôn.
Trong trường hợp đương sự có đơn đề nghị miễn, giảm nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm sẽ phân công một Thẩm phán xem xét đơn này Tuy nhiên, pháp luật không quy định rằng Thẩm phán được phân công phải khác với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sơ thẩm hoặc Thẩm phán đã ra quyết định sơ thẩm bị kháng cáo Điều này có thể dẫn đến thiếu khách quan, vì Thẩm phán đó có thể không hài lòng với đơn đề nghị của đương sự Nếu Thẩm phán từ chối miễn, giảm, tình trạng khiếu nại của đương sự có thể kéo dài Do đó, cần quy định rằng Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm phải phân công một Thẩm phán khác để đảm bảo tính khách quan trong việc xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí phúc thẩm.
Từ đó, tác giả kiến nghị:
Sửa đổi khoản 1 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định thẩm quyền xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí sơ thẩm trước khi thụ lý vụ án thuộc về Chánh Văn phòng, nhằm phù hợp với Quyết định số 345/2016/QĐ-CA ngày 07/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
“Điều 15 Thẩm quyền miễn, giảm tạm ứng án phí, án phí
1 Trước khi thụ lý vụ án, Chánh Văn phòng có thẩm quyền xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí sơ thẩm”
Hai là, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số
Theo Điều 326/2016/UBTVQH14, sau khi thụ lý vụ án, nếu nguyên đơn yêu cầu khởi kiện bổ sung, Thẩm phán do Chánh án Tòa án phân công sẽ có thẩm quyền xem xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí.
“Điều 15 Thẩm quyền miễn, giảm tạm ứng án phí, án phí
2 Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công giải quyết vụ án có thẩm quyền xét đơn đề nghị miễn, giảm tạm ứng án phí củanguyên