1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Hoạt động khuyến mại tại thành phố hồ chí minh thực trạng và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật

62 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 62
Dung lượng 561,23 KB

Cấu trúc

  • 1.1 Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc thực hiện hoạt động khuyến mại (9)
    • 1.1.1 Khái niệm khuyến mại (9)
    • 1.1.2 Đặc điểm của hoạt động khuyến mại và nguyên tắc thực hiện hoạt động khuyến mại (10)
      • 1.1.2.1 Đặc điểm của hoạt động khuyến mại (10)
      • 1.1.2.2 Nguyên tắc thực hiện hoạt động khuyến mại (11)
  • 1.2 Vai trò của hoạt động khuyến mại và sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật (12)
    • 1.2.1 Vai trò của hoạt động khuyến mại (12)
      • 1.2.1.1 Đối với thương nhân (12)
      • 1.2.1.2 Đối với người tiêu dùng (13)
    • 1.2.2 Sự cần thiết của điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động khuyến mại (15)
  • 1.3 Pháp luật điều chỉnh hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay (17)
    • 1.3.1 Chủ thể thực hiện hoạt động khuyến mai (0)
    • 1.3.2 Đối tượng của hoạt động khuyến mại (18)
    • 1.3.3 Các hình thức khuyến mại (19)
    • 1.3.4 Về thủ tục thực hiện, các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại và việc đình chỉ hoặc chấm dứt thực hiện chương trình khuyến mại (25)
      • 1.3.4.1 Thủ tục thực hiện hoạt động khuyến mại (25)
      • 1.3.4.2 Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại và việc đình chỉ, hoặc chấm dứt thực hiện chương trình khuyến mại (27)
  • 1.4 Kết luận (29)
  • CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI (0)
    • 2.1 Khái quát về hoạt động khuyến mại tại thành phố Hồ Chí Minh (0)
      • 2.1.1 Tình hình chung (31)
      • 2.1.2 Các hình thức khuyến mại phổ biến và phát sinh nhiều tranh chấp (35)
        • 2.1.2.1 Hình thức khuyến mại giảm giá (36)
        • 2.1.2.2 Hình thức khuyến mại tặng hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền (0)
        • 2.1.2.3 Hình thức khuyến mại mang tính may rủi (41)
      • 2.1.3 Nhận xét chung (45)
        • 2.1.3.1 Nhận xét về thực trạng (45)
        • 2.1.3.2 Đánh giá về khả năng áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (48)
    • 2.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về khuyến mại (51)
      • 2.2.1 Những hạn chế phát sinh khi áp dụng các quy định cụ thể của pháp luât liên quan để điều chỉnh hoạt động khuyến mại (51)
        • 2.2.1.1 Hạn chế phát sinh trong thực tiễn thực hiện hoạt động khuyến mại (0)
        • 2.2.1.2 Hạn chế có thể phát sinh (0)
      • 2.2.2 Kiến nghị (56)
    • 2.3 Kết Luận……………………………………………………………………………...50 Kết luận (58)

Nội dung

Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc thực hiện hoạt động khuyến mại

Khái niệm khuyến mại

Khuyến mại hiện nay là một trong những hình thức xúc tiến thương mại phổ biến nhất Vào đầu thế kỷ hai mươi, nhà buôn Bạch Thái Bưởi đã có sáng kiến khuyến mại độc đáo trong lĩnh vực giao thông vận tải trên sông Hồng Khi đó, việc di chuyển bằng tàu thủy thường không thoải mái và hành khách thường bị quát nạt Ông Bưởi đã đầu tư mua tàu và cung cấp cho hành khách cơm nắm với muối vừng miễn phí, đồng thời tạo ra không gian sạch sẽ và thoải mái trên tàu Chiến lược khuyến mại này đã thu hút đông đảo khách hàng, và cơm nắm muối vừng trở thành một biểu tượng trong lịch sử kinh doanh Việt Nam.

Khuyến mại đã được công nhận từ rất sớm về tầm quan trọng của nó trong hoạt động xúc tiến thương mại, và hiện nay, nó đã trở thành một trong những hình thức quan trọng nhất trong lĩnh vực này.

Theo Philip Kotler, khuyến mại được coi là một phần quan trọng trong hoạt động marketing, thể hiện qua quá trình trao đổi hàng hóa và dịch vụ Hoạt động khuyến mại không chỉ là một hình thức tiếp thị mà còn là yếu tố then chốt trong việc thúc đẩy doanh số bán hàng và tạo mối quan hệ với khách hàng.

1http://www.baomoi.com/Home/ThiTruong/www.dddn.com.vn/Khuyen-mai-muoi- vung/2590052.epi

2 Philip Kotler (2008),Marketting Căn Bản, NXB Lao Động Hà Nội, Hà Nội, tr.8

4 nhiên chính những ưu thế rõ rệt mà hoạt động này mang về đã ngày càng khẳng định vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh

Theo T.S Nguyễn Thị Dung, khuyến mại là phương thức thu hút khách hàng thông qua việc cung cấp lợi ích vật chất và phi vật chất Khuyến mại khác biệt với các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở chỗ nó tập trung vào việc tác động trực tiếp đến khách hàng bằng cách mang lại những lợi ích cụ thể Những lợi ích này không chỉ ảnh hưởng đến thái độ và hành vi mua sắm của khách hàng mà còn giúp doanh nghiệp tiếp cận và gia tăng nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của mình.

Theo khoản 1 điều 88 của Luật Thương mại 2005, khuyến mại được định nghĩa là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm thúc đẩy việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thông qua việc mang lại lợi ích nhất định cho khách hàng Định nghĩa này không chỉ là khái niệm tổng quát mà còn phản ánh cách hiểu phổ biến và có tính pháp lý cao về hoạt động khuyến mại.

Đặc điểm của hoạt động khuyến mại và nguyên tắc thực hiện hoạt động khuyến mại

1.1.2.1 Đặc điểm của hoạt động khuyến mại:

Xúc tiến thương mại mang lại lợi ích cho khách hàng, tùy thuộc vào mục tiêu khuyến mại, tình hình cạnh tranh và ngân sách dành cho hoạt động này Các hình thức khuyến mại có thể bao gồm quà tặng, hàng mẫu dùng thử, giảm giá khi mua hàng, hoặc các lợi ích phi vật chất khác Đối tượng khách hàng nhận khuyến mại có thể là người tiêu dùng trực tiếp hoặc các trung gian phân phối.

- Mục đích của hoạt động khuyến mại: so với luật thương mại 1997, luật thương mại

Năm 2005, định nghĩa về khuyến mại đã được bổ sung với hai điểm quan trọng liên quan đến mục đích và cách thức thực hiện thông qua quan hệ dịch vụ Cụ thể, mục đích của khuyến mại không chỉ nhằm thúc đẩy việc mua hàng mà còn nhằm tăng cường hoạt động bán hàng.

3 Tiến sỹ Nguyễn Thị Dung ( 2007), Pháp Luật Về Xúc Tiến Thương Mại Ở Việt Nam-Những

Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, tr 90

Hoạt động khuyến mại để bán hàng là một phần quan trọng trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Việc thu mua hàng hóa không chỉ giúp hoàn thành kế hoạch kinh doanh mà còn đáp ứng nhu cầu thị trường Các chương trình khuyến mại được thiết kế nhằm thu hút hành vi mua sắm của người tiêu dùng và kích thích doanh số bán hàng ở các trung gian phân phối bằng cách cung cấp những lợi ích cụ thể cho họ.

1.1.2.2 Nguyên tắc thực hiện hoạt động khuyến mại:

Nguyên tắc trong hoạt động thương mại là những tư tưởng pháp lý chủ đạo, quyết định cho toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật khuyến mại, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng và hạn chế cạnh tranh không lành mạnh Những nguyên tắc này có tính bắt buộc đối với các chủ thể tham gia hoạt động khuyến mại, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của họ được thực hiện đầy đủ Luật Thương mại 2005 đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, yêu cầu thương nhân phải công khai, trung thực và minh bạch trong các chương trình khuyến mại, không được lợi dụng lòng tin của khách hàng Hoạt động khuyến mại cần mang lại lợi ích cho khách hàng, và trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng, lợi ích của cả hai bên là yếu tố quyết định Pháp luật khuyến mại và xúc tiến thương mại tập trung vào việc tạo cơ sở pháp lý thuận lợi nhất cho người tiêu dùng, đồng thời đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh.

4 Xem thêm khoản 1, 2, 3, 4 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

Một trong những mục tiêu quan trọng của pháp luật về hoạt động khuyến mại là đảm bảo rằng các hình thức kinh doanh của doanh nghiệp có thể song song tồn tại.

Vai trò của hoạt động khuyến mại và sự cần thiết điều chỉnh bằng pháp luật

Vai trò của hoạt động khuyến mại

Khuyến mại là hoạt động có sự tham gia của hai đối tượng chính: thương nhân và người tiêu dùng Thương nhân thực hiện các chương trình khuyến mại để thu hút khách hàng, trong khi người tiêu dùng hưởng lợi từ các ưu đãi này Vai trò của khuyến mại đối với từng đối tượng này thể hiện rõ nét, góp phần tạo ra sự tương tác và lợi ích cho cả hai bên.

 Khuyến mại là công cụ tiếp cận thị trường:

Khuyến mại là phương thức giúp thương nhân tiếp cận thị trường trực tiếp, đặc biệt có lợi cho doanh nghiệp mới khi ra mắt sản phẩm hoặc dịch vụ Qua các hình thức khuyến mại, thương nhân có thể nắm bắt thị hiếu tiêu dùng và đánh giá khả năng thích ứng của sản phẩm với thị trường Nếu nhận thức được điều này, thương hiệu mới có thể tạo ra giá trị cảm nhận mới cho người tiêu dùng, đồng thời thể hiện sự đổi mới và cập nhật theo xu hướng xã hội Khuyến mại cũng góp phần xây dựng hình ảnh tích cực cho doanh nghiệp trong lòng khách hàng, từ đó tăng cường cơ hội thương mại và tạo ra tài sản vô hình quý giá cho doanh nghiệp.

 Khuyến mại là công cụ cạnh tranh hữu hiệu:

Thông qua hoạt động khuyến mại, thương nhân không chỉ giới thiệu sản phẩm, dịch vụ mà còn thể hiện những ưu thế nổi bật của chúng Khuyến mại được coi là công cụ hiệu quả để kích thích sức mua, giúp thu hút sự chú ý của khách hàng và tăng cường doanh số bán hàng.

Bảy thương nhân muốn thu hút sự chú ý và khai thác tâm lý tiêu dùng của khách hàng thông qua việc cung cấp những lợi ích rõ ràng Bằng khả năng của mình, họ tạo ra những sản phẩm và dịch vụ hấp dẫn, giúp khách hàng có những phản ứng tiêu dùng nhanh chóng và mạnh mẽ hơn.

Sự cạnh tranh trong kinh doanh thể hiện qua khả năng so sánh ưu đãi và chất lượng sản phẩm, dịch vụ giữa các thương nhân khác nhau, từ đó tạo ra lợi nhuận thực tế Tuy nhiên, khuyến mại chỉ mang lại hiệu quả ngắn hạn và không xây dựng được sự ưa thích thương hiệu lâu dài Do đó, cần điều chỉnh kịp thời các chương trình khuyến mại cho từng loại sản phẩm và dịch vụ để tối ưu hóa lợi thế cạnh tranh Tháng khuyến mại không chỉ hỗ trợ hoạt động sản xuất và thương mại mà còn giúp doanh nghiệp duy trì khả năng cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế khó khăn Nhiều doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận lợi nhuận thấp trong các chương trình khuyến mại cụ thể nhằm đạt được mục tiêu dài hạn về thương hiệu và uy tín, đồng thời đảm bảo kế hoạch sản xuất ổn định và doanh thu bền vững, mặc dù lợi nhuận có thể giảm.

 Khuyến mại giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng mở rộng thị trường

Kết quả từ các chương trình khuyến mại không chỉ kích thích sự sáng tạo mà còn giúp hoàn thiện sản phẩm và dịch vụ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại Khi doanh nghiệp đạt được lợi nhuận kinh tế, họ sẽ chú trọng hơn đến nhu cầu của khách hàng Hoạt động khuyến mại giúp mở rộng phạm vi kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động nắm bắt xu hướng phát triển sản phẩm phù hợp với thị hiếu tiêu dùng.

1.2.1.2 Đối với người tiêu dùng

 Khuyến mại mang đến những lợi ích kinh tế rõ rệt:

Người tiêu dùng đóng vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của các hoạt động khuyến mãi của doanh nghiệp Họ là đối tượng cụ thể mà các doanh nghiệp nhắm đến, và sự thành công của các chương trình khuyến mãi phụ thuộc vào nhu cầu và sở thích của họ, đặc biệt là đối với từng loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau.

Lợi ích kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu mà mọi khách hàng mong muốn, và các hình thức khuyến mại đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí cho hàng hóa và dịch vụ Khuyến mại thành công khi "tốn ít nhưng được nhiều", kích thích nhu cầu tiêu dùng và giúp khách hàng tiếp cận sản phẩm dễ dàng hơn Điều này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt mà còn làm tăng sự hài lòng của người tiêu dùng.

 Khuyến mại mang đến lợi ích tiêu dùng cho khách hàng:

Tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ đã trở thành nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, với xu hướng ngày càng gia tăng và phong phú nhờ vào chất lượng cuộc sống được cải thiện Để đáp ứng nhu cầu này, các chương trình khuyến mại cần mang đến trải nghiệm mới mẻ và tiên tiến, cho phép khách hàng so sánh và dùng thử sản phẩm hoặc dịch vụ, từ đó tạo ra sự đa dạng và thuận lợi trong lựa chọn Lợi ích tiêu dùng nằm ở khả năng tiếp cận hàng hóa và dịch vụ mới mà doanh nghiệp muốn giới thiệu, góp phần tác động tích cực đến tâm lý tiêu dùng, kích thích sự hứng thú và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.

 Khuyến mại mang đến cho khách hàng những lợi ích về tinh thần:

Các hình thức khuyến mại hiện nay rất đa dạng và phù hợp với tâm lý của nhiều đối tượng Ngoài lợi ích vật chất, các chương trình khuyến mãi còn mang lại giá trị tinh thần Ví dụ, nhân dịp Quốc tế Thiếu nhi 1-6, TP.HCM tổ chức nhiều hoạt động vui chơi cho trẻ em, trong đó các điểm giải trí lớn miễn phí vé vào cửa cho các bé Khu du lịch Suối Tiên đặc biệt miễn phí 100% vé vào cổng cho trẻ em đi cùng bố mẹ và tặng hơn 6.000 phần quà cho các em tham gia Bên cạnh các trò chơi, các em còn được tham gia lễ hội trái cây, tạo nên một không khí vui tươi và ý nghĩa.

Chương trình "9 với hơn 50 loại trái cây đặc sản Nam Bộ" được tổ chức bởi Sở Giáo dục và Đào tạo, Thành Đoàn, Nhà xuất bản Giáo dục TP.HCM và Công viên Văn hóa Đầm Sen Sự kiện này nhằm tôn vinh và giới thiệu đa dạng các loại trái cây đặc sản của vùng Nam Bộ, thu hút sự quan tâm của cộng đồng và du khách.

Chương trình “Sách trao tay, tặng ngay vé cổng” lần 2 diễn ra từ 30/5 đến 31/7, cho phép học sinh mang sách giáo khoa cũ đến công viên để được miễn vé cổng, nhận vé trò chơi và quà tặng từ nhà tài trợ Đặc biệt, các rạp chiếu phim 3D, 4D, 5D của Công ty Cổ phần Văn hóa Tân Bình (ALTA) sẽ công chiếu phim mới với mức giảm giá từ 20% đến 40% Mặc dù có mục tiêu lợi nhuận, các hoạt động khuyến mại đã khẳng định giá trị xã hội và tiện ích cho khách hàng, góp phần nâng cao văn minh và văn hóa trong quá trình cung-cầu Điều này phản ánh sự tiến bộ trong văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội tiềm năng cho khách hàng.

“quà tặng văn hóa” có giá trị về tinh thần đối với người tiêu dùng.

Sự cần thiết của điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động khuyến mại

Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp hiện nay, việc sản xuất và cung cấp sản phẩm đa dạng với giá cả hợp lý đã trở nên khó khăn hơn Để thu hút người tiêu dùng và mở rộng thị trường, các nhà sản xuất cần tích cực tương tác với khách hàng nhằm nâng cao hiệu quả tiêu thụ Tuy nhiên, sự cạnh tranh này cũng bộc lộ những vấn đề tiêu cực, làm giảm đi những lợi ích mà hoạt động khuyến mại hợp pháp mang lại Người tiêu dùng thường bị cuốn hút bởi giá rẻ và quà tặng, nhưng lại chưa ý thức đầy đủ về quyền lợi của mình và cách tự bảo vệ trước các vi phạm chất lượng từ doanh nghiệp.

5 http://vietbao.vn/Kinh-te/Ram-ro-khuyen-mai-tang-qua-dip-16/20850422/87/

Qui định về khuyến mại và bán hàng giảm giá tại Việt Nam hiện chưa rõ ràng và phù hợp, dẫn đến việc khuyến mại chỉ vài phần trăm không thu hút người tiêu dùng, trong khi giảm giá trên 50% lại vi phạm pháp luật Để giải quyết vấn đề này, cần điều chỉnh mức giảm giá tối đa cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp Người tiêu dùng thường đặt ra nhiều câu hỏi về chất lượng, giá cả và lượng hàng khuyến mại, cho thấy rằng khuyến mại giảm giá đã bị lợi dụng, gây thiệt hại cho họ Do đó, việc minh bạch thông tin giữa cơ quan quản lý và người tiêu dùng vẫn chưa được đảm bảo, cần được cải thiện để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

Để bảo vệ môi trường kinh doanh lành mạnh và quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam, cần có những biện pháp pháp lý hiệu quả Luật Thương mại 1997 đã quy định hoạt động khuyến mại từ điều 180 đến điều 185, tạo nền tảng pháp lý cho lĩnh vực này Sau khi sửa đổi, luật đã bổ sung quy định chặt chẽ hơn về hoạt động khuyến mại từ điều 88 đến điều 101, nhằm điều chỉnh kịp thời những quan hệ mới và giải quyết các vướng mắc còn tồn tại.

Hoạt động khuyến mại đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh và môi trường kinh tế quốc gia Thiếu quy định chặt chẽ có thể dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh và làm giảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ, đồng thời không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng Hệ quả tiêu cực còn ảnh hưởng đến tâm lý tiêu dùng, sức khỏe và quyền lợi của khách hàng Trong bối cảnh kinh tế suy thoái, hoạt động khuyến mại đang gặp khó khăn trong việc phát huy hiệu quả, từ đó ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của nhiều doanh nghiệp Do đó, hệ thống pháp luật và chính sách cần được củng cố để tạo ra môi trường an toàn cho hoạt động khuyến mại và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

Pháp luật về hoạt động khuyến mại cần tiếp tục phát huy vai trò bảo vệ người tiêu dùng và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh Điều này bao gồm việc ngăn chặn các hành vi lạm dụng và vi phạm, đồng thời khuyến khích những hoạt động hợp pháp, đúng hướng Việc duy trì các tiêu chí rõ ràng và hiệu quả trong quản lý khuyến mại sẽ là yếu tố quyết định để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường.

Pháp luật điều chỉnh hoạt động khuyến mại ở nước ta hiện nay

Đối tượng của hoạt động khuyến mại

Theo Điều 93 và Điều 94 của Luật Thương mại, có hai đối tượng quan trọng trong hoạt động khuyến mại cần chú ý là hàng hóa và dịch vụ được khuyến mại, cùng với hàng hóa và dịch vụ sử dụng để khuyến mại.

Hàng hóa và dịch vụ được khuyến mại là những sản phẩm mà thương nhân áp dụng các hình thức khuyến mại nhằm thúc đẩy việc bán và cung ứng Do đó, hàng hóa và dịch vụ khuyến mại chính là đối tượng trực tiếp mà doanh nghiệp hướng đến trong các chiến lược marketing của mình.

6Xem thêm điều 91, 95 Luật Thương mại 2005

Khách hàng ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều hơn sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp, điều này cho thấy họ chính là đối tượng kinh doanh chủ yếu mà doanh nghiệp cần tập trung phục vụ.

Theo điều 94 của luật Thương mại 2005, hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại được định nghĩa là những sản phẩm hoặc dịch vụ mà thương nhân tặng, thưởng hoặc cung ứng miễn phí cho khách hàng nhằm thu hút sự chú ý của họ Đây là yếu tố chính trong hoạt động khuyến mại, thường được khách hàng quan tâm nhất Chính phủ cũng quy định hạn mức tối đa cho hàng hóa, dịch vụ khuyến mại, cho phép thương nhân sử dụng chính sản phẩm của mình để thực hiện các chương trình khuyến mại Cụ thể, theo khoản 2 điều 94, hàng hóa, dịch vụ được dùng để khuyến mại có thể là sản phẩm mà thương nhân đang kinh doanh hoặc các sản phẩm khác Điều này giúp thương nhân tiết kiệm chi phí và tạo tâm lý “tốn ít, được nhiều” cho khách hàng, thể hiện rõ vai trò kinh tế của hoạt động khuyến mại.

Các hình thức khuyến mại

Các quy định về hình thức khuyến mại cung cấp cơ sở pháp lý cho thương nhân trong việc mang lại lợi ích cho khách hàng Việc nhận diện các hình thức khuyến mại là rất quan trọng trong quá trình thi hành pháp luật Theo quy định hiện hành, thương nhân có 9 hình thức khuyến mại để lựa chọn thực hiện.

1 Đưa hàng hoá mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền Đối với hình thức khuyến mại này khách hàng có cơ hội sử dụng những hàng hóa hay dịch vụ mà doanh nghiệp đang sản xuất hoặc đang cung cấp, quan trọng là không tốn chi phí, đây là hình thức thường được áp dụng đối với những hàng hóa có giá theo đơn vị

7 Xem thêm điều 5 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

8 Xem thêm điều 94 Luật Thương mại 2005

9 Xem thêm điều 92 Luật Thương mại 2005

14 sản phẩm nhỏ gọn nhưng có khả năng thu hút sự chú ý của khách hàng, trở thành công cụ quảng bá thương hiệu hiệu quả Hình thức khuyến mại bằng hàng mẫu không nhất thiết phải liên quan đến hành vi mua bán và không bị giới hạn về số lượng, giá trị hay thời gian phát tặng Để đảm bảo trách nhiệm của thương nhân, pháp luật Thương mại quy định rằng thương nhân phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mẫu, đồng thời có nghĩa vụ cung cấp thông tin rõ ràng cho khách hàng về việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ mẫu đó.

2 Tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền

Hàng hóa và dịch vụ mà khách hàng nhận được có thể khác hoàn toàn hoặc giống với sản phẩm mà doanh nghiệp đang cung cấp, nhưng khách hàng không phải trả thêm phí nào Pháp luật cho phép sử dụng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác trong khuyến mại, khuyến khích sự liên kết thương mại tối đa Giá trị quà tặng và dịch vụ tặng cho khách hàng không bị giới hạn theo đơn giá, nhưng tổng giá trị khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại Quy định này nhằm bảo đảm tính chủ động cho thương nhân và ngăn chặn hành vi bán phá giá Tuy nhiên, quy định về hình thức khuyến mại hiện tại gặp khó khăn khi chỉ phân biệt ở tiêu chí hàng hóa dùng để khuyến mại, cho phép thương nhân sử dụng chính hàng hóa, dịch vụ của mình để thực hiện khuyến mại.

10Xem thêm khoản 3 điều 7 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

11 Xem thêm khoản 2 điều 94 luật Thương mại 2005

Việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ của mình để tặng hoặc cung ứng mà không có hành vi mua bán sẽ không có tiêu chí nào để phân biệt với hình thức đưa hàng mẫu.

3 Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo

Doanh nghiệp sẽ tiến hành bán hoặc cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn trong một khoảng thời gian được thông báo trước, sau đó sẽ trở lại mức giá cũ Nghị định 37/2006/NĐ-CP quy định cụ thể về mức giảm tối đa đối với hàng hóa và dịch vụ khuyến mại, nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh giá và ngăn chặn việc lợi dụng khuyến mại để bán phá giá Chính phủ cũng quy định mức khung giá và thời hạn thực hiện đối với các loại hàng hóa đặc biệt.

Mức giảm giá tối đa cho hàng hóa, dịch vụ khuyến mại không vượt quá 50% giá trước khuyến mại Đối với hàng hóa do Nhà nước quản lý giá, việc khuyến mại phải tuân theo quy định của Chính phủ, không được giảm giá dưới mức giá tối thiểu hoặc giá cụ thể đã được quy định Tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ khuyến mại trong một chương trình không được vượt quá 50% tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại Thời gian khuyến mại cho mỗi nhãn hiệu không quá 90 ngày/năm và mỗi chương trình khuyến mại không quá 45 ngày Hạn mức này chỉ áp dụng cho hình thức giảm giá khuyến mại.

4 Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định

12 Xem thêm điều 8 nghị định 37/2006/ NĐ-CP

13 Xem thêm điều 6 và khoản 1 điều 9 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

14Xem thêm khoản 3 điều 9 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

15 Xem thêm khoản 2 điều 5 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

16Xem thêm khoản 4 điều 9 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

Hình thức khuyến mại này thường được doanh nghiệp áp dụng thông qua phiếu mua hàng hoặc phiếu sử dụng dịch vụ, cho phép khách hàng "tốn ít được nhiều" khi mua sắm Doanh nghiệp sẽ liên hệ với nhà cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ để thực hiện chương trình khuyến mại Theo quy định tại khoản 1 điều 10 NĐ 37/2006/NĐ-CP, khách hàng có thể sử dụng phiếu này để mua hàng hoặc dịch vụ do doanh nghiệp thực hiện Giá trị khuyến mại không được vượt quá 50% giá trị hàng hóa hoặc dịch vụ trước thời gian khuyến mại, và tổng giá trị khuyến mại trong một chương trình cũng không được vượt quá 50% tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ Tuy nhiên, pháp luật không quy định rõ ràng về cách tính hạn mức 50%, gây khó khăn trong việc xác định liệu thương nhân có vi phạm quy định hay không.

5 Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố Đây là hình thức mà doanh nghiệp sẽ đứng ra tổ chức một cuộc thi có thể lệ và giải thưởng được công bố trước, người mua hàng có cơ hội tham gia và nếu đáp ứng những yêu cầu của thể lệ cuộc thi sẽ được nhận giải thưởng Vì là hình thức của một cuộc thi nên Chính phủ cũng có thêm những yêu cầu về thuần phong mỹ tục, văn hóa đạo đức cũng như nhằm đảm bảo tính công khai minh bạch của chương trình Khác với hình thức khuyến mại bằng phiếu mua hàng, việc khuyến mại bằng phiếu dự thi không bị giới hạn bởi hạn mức giá trị tính theo đơn giá hàng hóa nhưng cũng phải bảo đảm tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại trong một chương trình khuyến mại không vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hóa dịch vụ được khuyến mại

6 Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố

Hình thức khuyến mại này khác với hình thức thứ năm ở chỗ doanh nghiệp tổ chức một chương trình có tính may rủi, trong đó khả năng nhận giải thưởng của khách hàng phụ thuộc vào vận may Người tiêu dùng thường ở vị trí thụ động, trong khi thương nhân có quyền chủ động trong việc thiết lập cơ cấu và giá trị giải thưởng Điều này có thể dẫn đến nguy cơ gian lận về giải thưởng, do đó, việc đảm bảo tính trung thực trong hoạt động khuyến mại là nhiệm vụ quan trọng của pháp luật Các điều kiện cho hình thức khuyến mại này cũng nghiêm ngặt hơn, yêu cầu tổ chức công khai và có sự chứng kiến của khách hàng Nếu giá trị giải thưởng từ 100 triệu đồng trở lên, thương nhân phải thông báo cho Sở Công thương nơi tổ chức Ngoài ra, nếu trúng thưởng dựa trên bằng chứng kèm theo hàng hóa, thương nhân cũng phải thông báo thời gian và địa điểm đưa bằng chứng cho Sở Công thương.

Chương trình khuyến mại mang tính may rủi có phát hành vé số dự thưởng phải tuân thủ các quy định sau đây:

Vé số dự thưởng không được giống với xổ số do Nhà nước độc quyền phát hành và không được phép sử dụng kết quả xổ số của Nhà nước để xác định người trúng thưởng.

Vé số dự thưởng cần phải được in đầy đủ thông tin, bao gồm số lượng vé phát hành, số lượng giải thưởng, giá trị của từng loại giải thưởng, địa điểm và thời gian phát thưởng, cũng như các nội dung khác theo quy định tại Điều 97 của Luật Thương mại.

- Việc mở thưởng chỉ áp dụng cho các vé số đã được phát hành 18

Về thủ tục thực hiện, các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại và việc đình chỉ hoặc chấm dứt thực hiện chương trình khuyến mại

1.3.4.1 Thủ tục thực hiện hoạt động khuyến mại:

Pháp luật thương mại quy định rõ ràng về thủ tục mà thương nhân phải thực hiện khi tiến hành hoạt động khuyến mại Theo quy định hiện hành, thương nhân cần thông báo hoặc đăng ký với Sở Công thương trước khi thực hiện bất kỳ hình thức khuyến mại nào, bao gồm thông tin về thời gian, địa điểm, nội dung chương trình, hàng hóa khuyến mại, cơ cấu giải thưởng, thể lệ trao thưởng và các nội dung liên quan khác Do tính chất đa dạng của các hình thức khuyến mại, cần có sự điều chỉnh khác nhau về mức độ và cách thức quản lý Từ đó, quy định về thủ tục khuyến mại có thể được chia thành hai nhóm chính.

-Đối với các hình thức khuyến mại chỉ cần thông báo:

Thủ tục thông báo khuyến mại là hành vi thông tin một chiều đến cơ quan Nhà nước trước hoặc sau khi kết thúc chương trình khuyến mại, nhằm kiểm soát việc thực hiện cam kết với khách hàng và nghĩa vụ tài sản với Nhà nước Có 7 hình thức khuyến mại mà thương nhân phải thông báo cho cơ quan quản lý Nhà nước về Thương mại khi thực hiện Thông báo bằng văn bản về chương trình khuyến mại cần được gửi đến Sở Thương mại chậm nhất 7 ngày làm việc trước khi thực hiện Đối với hình thức khuyến mại kèm theo phiếu dự thi, thương nhân phải gửi báo cáo kết quả trúng thưởng đến Sở Thương mại trong vòng 7 ngày làm việc sau khi kết thúc chương trình và công khai kết quả trên ít nhất một phương tiện thông tin đại chúng tại địa phương.

Trung ương, nơi tổ chức chương trình khuyến mại và tại các địa điểm bán hàng thuộc chương trình khuyến mại 19

-Đối với các hình thức khuyến mại phải thông báo và đăng ký:

Các hình thức khuyến mại bao gồm cả khuyến mại mang tính may rủi và các hình thức khác không được liệt kê tại điều 92 luật Thương mại và mục 2 Nghị định 37/2006/NĐ-CP Thương nhân muốn thực hiện khuyến mại cần thông báo theo quy định tại điều 15 Nghị định 37/2006/NĐ-CP và đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về Thương mại, chờ sự đồng ý bằng văn bản Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định rõ các điều kiện để được xác nhận, dẫn đến việc thủ tục đăng ký có thể trở thành xin phép, gây khó khăn cho quyền tự do khuyến mại của thương nhân Đặc biệt, đối với các chương trình khuyến mại trên hai tỉnh trở lên, thương nhân phải đăng ký tại Bộ Công thương Đối với khuyến mại mang tính may rủi, trong vòng 45 ngày sau khi kết thúc chương trình, thương nhân phải báo cáo kết quả và xử lý 50% giá trị giải thưởng không có người trúng thưởng Ngoài ra, thương nhân cũng có trách nhiệm công khai kết quả trúng thưởng trên phương tiện thông tin đại chúng tại địa phương tổ chức chương trình.

19 Xem thêm điều 15 nghị định 37/2006/NĐ-CP

20 Xem thêm khoản 6 và khoản 9 điều 92 Luật Thương mại 2005, điều 12 và điều 14 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

21 Xem thêm điều 16 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

Theo quy định, thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại phải gửi thông báo cho Sở Công thương địa phương cùng với bản sao văn bản chấp thuận của Bộ Công thương Sau khi kết thúc chương trình khuyến mại, trong vòng 45 ngày, thương nhân cần báo cáo kết quả chương trình cho Bộ Công thương.

Việc quy định nghĩa vụ thực hiện đúng trình tự thủ tục trong hoạt động khuyến mại đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo công khai thông tin và bảo mật cho các chương trình khuyến mại So với Luật Thương mại 1997, các điều 97, 98, 101 mới được bổ sung cho thấy sự nhận thức về nghĩa vụ thông báo công khai đã được nâng cao Sự bổ sung này giúp hạn chế khả năng thương nhân lợi dụng khuyến mại để lừa dối khách hàng bằng thông tin không chính xác Bên cạnh đó, quy định mới cho phép cơ quan nhà nước chỉ giữ bí mật thông tin đối với những chương trình khuyến mại cần sự chấp thuận, từ đó mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin cho các đối tượng quan tâm một cách hợp pháp.

1.3.4.2 Các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại và việc đình chỉ hoặc chấm dứt thực hiện chương trình khuyến mại:

Tại điều 100 luật Thương mại, các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại bao gồm mười hành vi:

1 Khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng

22 Xem thêm điều 17 Nghị định 37/2006/NĐ-CP

23Xem thêm điều 99 luật Thương mại 2005.

2 Sử dụng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng

3 Khuyến mại hoặc sử dụng rượu, bia để khuyến mại cho người dưới 18 tuổi

4 Khuyến mại hoặc sử dụng thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức

5 Khuyến mại thiếu trung thực hoặc gây hiểu lầm về hàng hoá, dịch vụ để lừa dối khách hàng

6 Khuyến mại để tiêu thụ hàng hoá kém chất lượng, làm phương hại đến môi trường, sức khoẻ con người và lợi ích công cộng khác

7 Khuyến mại tại trường học, bệnh viện, trụ sở của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân

8 Hứa tặng, thưởng nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

9 Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh

10 Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa theo quy định tại khoản 4 Điều 94 của Luật thương mại 2005

Theo NĐ 59/2006/NĐ-CP, hàng hoá và dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, cũng như những hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng, đều bị nghiêm cấm trong hoạt động khuyến mại Các mặt hàng như thuốc lá và rượu có độ cồn trên 30 độ là ví dụ điển hình cho những sản phẩm không được khuyến mại, nhằm hạn chế lưu thông đối với những mặt hàng có nguy cơ gây hại cho xã hội Ngoài ra, quy định cũng áp dụng cho người dưới 18 tuổi, thể hiện nỗ lực bảo vệ và giảm thiểu tác động tiêu cực từ hoạt động khuyến mại đối với những hàng hóa và dịch vụ cần kiểm soát, đồng thời nhấn mạnh vai trò định hướng của pháp luật trong lĩnh vực này.

Nghị Định 59/2006/NĐ-CP, ban hành ngày 12/06/2006, quy định chi tiết về Luật Thương Mại liên quan đến các hàng hóa và dịch vụ bị cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện Nghị định này nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả các hoạt động thương mại, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và duy trì trật tự xã hội.

Từ khoản 6 đến khoản 10 của điều 100 đã có sự thay đổi và bổ sung để phù hợp với những vấn đề mới trong quá trình đổi mới kinh tế Khoản 10 bổ sung tiêu chí mới, nhấn mạnh nguy cơ lợi dụng hạn mức tối đa và giảm giá hàng hóa để bán phá giá, cần được ngăn ngừa kịp thời Các quy định cấm tại điều này nhằm đảm bảo nguyên tắc hoạt động khuyến mại, thiết lập những hạn chế cần thiết để duy trì trật tự xã hội, bảo vệ thuần phong mỹ tục và nâng cao trách nhiệm của thương nhân, từ đó bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.

Việc đình chỉ hoặc chấm dứt chương trình khuyến mại của thương nhân phải tuân theo hướng dẫn tại điều 19 và 20 NĐ37/2006/NĐ-CP Thương nhân chỉ được chủ động chấm dứt chương trình khuyến mại trong trường hợp bất khả kháng Đối với các trường hợp khác, việc chấm dứt hoặc đình chỉ chương trình khuyến mại phải do cơ quan quản lý Nhà nước về Thương mại có thẩm quyền quyết định.

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN MẠI

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về khuyến mại

2.2.1 Những hạn chế phát sinh khi áp dụng các quy định cụ thể của pháp luật liên quan để điều chỉnh hoạt động khuyến mại:

2.1.1.1 Hạn chế phát sinh trong thực tiễn thực hiện hoạt động khuyến mại

 Hạn chế trong quy định của pháp luật khuyến mại về chất lượng hàng hóa được khuyến mại

Mặc dù Luật Thương mại có quy định về chất lượng hàng hóa khuyến mại, nhưng nội dung này còn quá chung chung và khó khăn trong việc kiểm tra nguồn gốc cũng như chất lượng hàng hóa Hàng hóa và dịch vụ khuyến mại thường là những sản phẩm mà người tiêu dùng quan tâm, tuy nhiên, khiếu nại về chất lượng của chúng đang gia tăng Rõ ràng, công tác kiểm soát chất lượng của cơ quan quản lý thị trường chưa được thực hiện kịp thời và hiệu quả Trong các chương trình khuyến mại, khách hàng nhận được hàng hóa hoặc dịch vụ miễn phí nhưng nhiều khi không thể sử dụng hoặc gây ảnh hưởng đến sức khỏe, cho thấy tiêu chí của hoạt động khuyến mại chưa được đảm bảo.

Quy định tại khoản 1 điều 5 nghị định 37/2006/NĐ-CP về hạn mức tối đa giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại đã tạo ra những hạn chế trong pháp luật khuyến mại Điều này ảnh hưởng đến khả năng triển khai các chương trình khuyến mại hiệu quả, đồng thời cũng mở ra những cơ hội mới cho doanh nghiệp trong việc sáng tạo và thu hút khách hàng.

Các doanh nghiệp hiện đang đối mặt với thách thức trong việc thực hiện các chương trình khuyến mại do quy định hạn mức giá trị khuyến mại khó xác định Đặc biệt, khi thương nhân tặng dịch vụ miễn phí, tổng giá trị khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị dịch vụ Việc xác định vi phạm trước khi kết thúc chương trình khuyến mại có thể dẫn đến tranh chấp giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp, vì số liệu chỉ là ước tính Quy định hiện hành quá "thoáng" đã khiến nhiều doanh nghiệp chạy đua khuyến mại, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước Điển hình là tình trạng khuyến mại sim điện thoại cho thuê bao trả trước, dẫn đến số lượng thuê bao ảo cao, lãng phí tài nguyên kho số và gia tăng tin nhắn rác Các nhà mạng cũng tìm cách "lách luật" bằng cách tặng thêm tiền vào tài khoản thay vì giảm giá, điều này làm gia tăng mức độ cạnh tranh nhưng cũng gây ra nhiều vấn đề cần được quản lý chặt chẽ hơn.

 Hạn chế của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của thương nhân

Nhiều thương nhân cho rằng quy định tại khoản 4 điều 96 luật thương mại 2005 không bảo đảm quyền lợi của họ trong hoạt động khuyến mại Theo quy định, khi tham gia chương trình khuyến mại có tính may rủi, thương nhân phải trích 50% giá trị giải thưởng vào ngân sách nhà nước nếu không có người trúng giải Mặc dù mục đích của quy định này là nhằm hạn chế khuyến mại gian dối, nhưng nó lại không phù hợp với lợi ích kinh doanh của thương nhân, đặc biệt khi doanh số bán hàng không đạt dự kiến và họ phải chịu chi phí khuyến mại Hơn nữa, việc tính giá trị hàng hóa khuyến mại và nộp ngân sách cũng gây ra nhiều rắc rối, vì giá mua vào và bán ra của hàng hóa thường khác nhau, cộng với các chi phí liên quan đến giao dịch.

 Hạn chế trong vấn đề áp dụng pháp luật để giải quyết khiếu nại và bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng

Hiện nay, hệ thống pháp luật về khuyến mại và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang tồn tại song song, nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng Trong một số trường hợp, người tiêu dùng không được đảm bảo quyền lợi mặc dù doanh nghiệp không vi phạm quy định thương mại Điều này dẫn đến việc người tiêu dùng bị từ chối nhận giải thưởng một cách vô lý Do đó, cần có sự kết hợp và bổ sung quy định giữa pháp luật thương mại và pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, vì hoạt động khuyến mại ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng Hơn nữa, cơ chế bồi thường thiệt hại trong cả hai lĩnh vực vẫn chưa được quy định đầy đủ; Nghị định 55/2008/NĐ-CP chỉ đề cập trách nhiệm bồi thường một cách chung chung mà không cụ thể hóa trong các quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh.

45 Tiến sỹ Nguyễn Thị Dung ( 2007), Pháp Luật Về Xúc Tiến Thương Mại Ở Việt Nam-Những

Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, tr.112

Theo quy định 48 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng, phần lớn các khiếu nại hiện nay được giải quyết chủ yếu thông qua cơ chế hòa giải, phụ thuộc vào thiện chí của doanh nghiệp trong việc bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.

Khả năng hạn chế của các cơ quan chức năng và hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng Sự thiếu hiệu quả trong hoạt động của các tổ chức này khiến người tiêu dùng gặp khó khăn trong việc đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình Do đó, cần nâng cao năng lực và vai trò của các cơ quan này để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng được bảo vệ hiệu quả hơn.

Hiện nay, lực lượng kiểm soát khuyến mại tại thành phố Hồ Chí Minh còn mỏng, trong khi hoạt động xúc tiến thương mại và khuyến mại đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng Thành phố này có mức tiêu dùng cao, dẫn đến sự tập trung của nhiều hình thức khuyến mại Nếu không có lực lượng kiểm soát phù hợp, sẽ khó kiểm soát tình trạng khuyến mại không hợp pháp, gây phiền hà và ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.

Nhiều người tiêu dùng khi gặp vấn đề bức xúc và bị xâm phạm quyền lợi thường phải tự liên hệ với các cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức hiệp hội, cho thấy sự thiếu kết hợp chủ động giữa cơ quan quản lý Thương mại và các kênh thông tin của người tiêu dùng Bên cạnh đó, quyền hạn của các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng còn hạn chế, hoạt động chủ yếu theo kiểu "vác tù và hàng tổng" mà không có kinh phí đảm bảo, do Nghị định 55/2008/NĐ-CP quy định rằng các hiệp hội này không vì mục đích lợi nhuận và không được nhận hỗ trợ tài chính cho các hoạt động đại diện cho người tiêu dùng khiếu nại, tố cáo.

2.1.1.2 Hạn chế có thể phát sinh:

 Từ sự đa dạng của hình thức khuyến mại:

Trong bối cảnh phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, hoạt động khuyến mại đang trải qua những chuyển biến mới với sự đa dạng và phong phú hơn để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng Điều này đặt ra thách thức cho pháp luật trong việc điều chỉnh kịp thời các hình thức khuyến mại mới, đồng thời chưa thể lường trước hết những ảnh hưởng đến người tiêu dùng và tình hình kinh doanh.

Quảng cáo, tiếp thị và khuyến mại là những hoạt động thiết yếu trong kinh doanh, nhưng hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh và bán phá giá đang tạo ra sự chênh lệch lớn giữa các doanh nghiệp Hậu quả là các doanh nghiệp lớn với tiềm lực tài chính mạnh chiếm lĩnh thị trường, trong khi các doanh nghiệp nhỏ bị đẩy vào tình trạng khó khăn, không còn cơ hội phát triển Do đó, các nhà làm luật cần xem xét vấn đề này trong bối cảnh thị trường Việt Nam đang hội nhập.

 Từ sự đa dạng của các ngành, lĩnh vực:

Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, khuyến mại trở thành công cụ quan trọng trong marketing và thu hút người tiêu dùng Tuy nhiên, quy định pháp luật hiện tại chưa đủ mạnh để điều chỉnh hoạt động khuyến mại trong các lĩnh vực kinh doanh đa dạng như địa ốc, ngân hàng, viễn thông và mạng máy tính Đặc biệt, trong lĩnh vực ngân hàng, sự phức tạp đến từ việc các ngân hàng chịu sự điều chỉnh của Luật Các tổ chức tín dụng, trong khi hoạt động khuyến mại lại thuộc Luật Thương mại 2005, dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát và điều chỉnh.

Việc thực hiện và đảm bảo yêu cầu về trần lãi suất huy động đang gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt khi Ngân hàng Nhà nước áp dụng biện pháp này nhằm đối phó với biến động lãi suất trên thị trường Đòi hỏi bỏ trần lãi suất đã được đặt ra để các ngân hàng có thể sử dụng khuyến mại như một công cụ cạnh tranh Đồng thời, các quy định cấm khuyến mại trong một số lĩnh vực cũng gây tranh cãi, đặc biệt là trong ngành dược, khi những quy định như khoản 7 điều 4 của Nghị định 37/2006/NĐ-CP gây khó khăn cho các doanh nghiệp dược phẩm Theo Đỗ Văn Doanh, Chủ tịch Hiệp hội Sản xuất và Kinh doanh Dược, quy định cấm khuyến mại thuốc chữa bệnh ở khâu bán buôn không chỉ không phù hợp với các luật liên quan mà còn cản trở sự phát triển của ngành dược trong nước.

Để quảng bá sản phẩm và tăng cường tiêu thụ, 50 mẫu thuốc mới và thuốc thành phẩm sẽ được cung cấp miễn phí cho doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành dược trong nước Tuy nhiên, điều này đòi hỏi pháp luật về khuyến mại cần có những điều chỉnh hợp lý, đảm bảo các tiêu chí hoạt động khuyến mại mà không cản trở sự phát triển kinh doanh công bằng giữa các ngành và lĩnh vực nhạy cảm.

Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát chất lượng hàng hóa và dịch vụ khuyến mại, cần tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý thông qua việc đào tạo chuyên môn và cập nhật kịp thời các quy định pháp luật hiện hành Cần thiết lập tiêu chuẩn rõ ràng về chất lượng hàng hóa dùng để khuyến mại và yêu cầu doanh nghiệp cam kết về giá trị sử dụng và giá trị kinh tế của sản phẩm Đồng thời, cần bổ sung quy định cụ thể về bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng khi hàng hóa khuyến mại ảnh hưởng đến sức khỏe và lợi ích kinh tế của khách hàng Nếu các chương trình khuyến mại gây phiền hà hoặc quấy nhiễu khách hàng, cần có mức xử lý và bồi thường hợp lý.

Kết Luận…………………………………………………………………………… 50 Kết luận

Luật Thương mại 2005 được ban hành cùng với sự thay thế của Nghị định 37/2006/NĐ-

Nghị định 32/1999/NĐ-CP đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về khuyến mại tại Việt Nam Sự phát triển kinh tế và khả năng hội nhập quốc gia đã thúc đẩy hoạt động khuyến mại, đặc biệt tại thành phố Hồ Chí Minh, tăng cả về số lượng lẫn chất lượng Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này vẫn gặp nhiều bất cập do các nguyên nhân chủ quan và khách quan Do đó, cần thiết phải có điều chỉnh và bổ sung kịp thời để đảm bảo các tiêu chí tích cực của hoạt động khuyến mại được thực hiện hiệu quả.

Từ thực trạng khuyến mại tại thành phố Hồ Chí Minh kể từ sau khi luật Thương mại

Kể từ khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực, hoạt động khuyến mại tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên cũng phát sinh nhiều vấn đề Luật Thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh cho các thương nhân trong việc thực hiện các hoạt động khuyến mại nhằm thúc đẩy mua bán hàng hóa Mặc dù có những quy định mới phù hợp với tình hình kinh tế, nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan Do đó, pháp luật cần được điều chỉnh kịp thời để tránh những tiêu cực phát sinh từ những lỗ hổng mà thương nhân có thể lợi dụng Mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy mua bán hàng hóa cần được đặt song song, đòi hỏi các cơ quan chức năng nghiên cứu và đưa ra giải pháp hiệu quả để thực hiện hai mục tiêu quan trọng này.

Hoạt động khuyến mại tại thành phố Hồ Chí Minh đang phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy khả năng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ Mặc dù pháp luật Thương mại đã có những quy định điều chỉnh hoạt động này, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế Nghiên cứu tình hình khuyến mại giai đoạn 2005-2008 cho thấy sự đa dạng và tăng trưởng của hoạt động này, đồng thời chỉ ra những khó khăn và thách thức cần giải quyết Khóa luận đã đánh giá khả năng thực thi pháp luật và đề xuất giải pháp nhằm cải thiện hệ thống pháp luật về khuyến mại, mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3 Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng 1999

4 Nghị định 37/2006/NĐ-CP ngày 04/04/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động Xúc tiến thương mại

5 Nghị định 55/2008/NĐ-CP ngày 24/04/2008 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng

6 Nghị Định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 quy định chi tiết Luật Thương Mại về hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện

7 Nghị định 88/2003/NĐ-CP ngày 30/07/2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội

8 Nghị định 175/2004/NÐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại

9.Thông tư 07/2007/TTLT BTM-BTC ngày 06/07/2007 Hướng dẫn thực hiện một số điều về khuyến mại và hội chợ, triển lãm thương mại quy định tại Nghị định số

37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật

Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại

10 Nguyễn Lâm Trâm Anh (2006), Pháp luật về hoạt động khuyến mại theo luật Thương mại 2005

11 Nguyễn Thị Dung (2007), Pháp Luật Về Xúc Tiến Thương Mại Ở Việt Nam - Những

Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội

12 Nguyễn Thị Dung (2007), “Pháp luật về khuyến mại – Một số vướng mắc về lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Luật Học, (07)

13 Trường Đại Học Luật Hà Nội(2006), Giáo trình Luật Thương Mại, NXB Công An Nhân Dân, Hà Nội

14 Philip Kotler (2008), Marketting Căn Bản, NXB Lao Động Hà Nội, Hà Nội.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:15

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

2.1.1Tình hình chung - Hoạt động khuyến mại tại thành phố hồ chí minh thực trạng và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật
2.1.1 Tình hình chung (Trang 31)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w