HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ TRONG “TRƯỜNG HỢP BỊ BỆNH NẶNG”
Quy định pháp luật hình sự hiện hành
Hoãn chấp hành hình phạt tù là quyết định của Toà án cho phép người bị kết án trì hoãn việc thi hành án tù đến một thời điểm sau Điều này có nghĩa là người bị kết án vẫn có thể tiếp tục sống và làm việc ngoài xã hội mà chưa phải vào trại giam Các điều kiện và thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định bởi pháp luật hình sự, trong khi trình tự và thủ tục thực hiện biện pháp này được điều chỉnh bởi pháp luật về thi hành án hình sự.
Tại Điều 67 BLHS năm 2015, việc hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định như sau:
Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt Cụ thể, nếu họ mắc bệnh nặng, hoãn sẽ được áp dụng cho đến khi sức khỏe hồi phục Phụ nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi cũng được hoãn cho đến khi con đủ tuổi Đối với người lao động duy nhất trong gia đình, nếu việc chấp hành hình phạt gây khó khăn đặc biệt cho gia đình, họ có thể được hoãn đến 01 năm, trừ khi bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội phạm nghiêm trọng khác Cuối cùng, những người bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, nếu có nhu cầu công vụ, cũng có thể được hoãn đến 01 năm.
2 Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.”
Theo Điều 67 BLHS năm 2015, người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt nếu mắc bệnh nặng và sẽ tiếp tục hoãn cho đến khi sức khỏe hồi phục Tuy nhiên, nếu trong thời gian hoãn chấp hành hình phạt, người đó thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án sẽ yêu cầu họ chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 BLHS năm 2015.
Theo Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, việc áp dụng quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù cho người bị bệnh nặng được hướng dẫn cụ thể Căn cứ vào Mục 7 của Nghị quyết này, người bị bệnh nặng có thể được hoãn thi hành án nếu đáp ứng các điều kiện nhất định.
- Người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng;
- Sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng;
- Không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn;
Người bị bệnh nặng, không thể thi hành án phạt tù do nguy cơ đe dọa tính mạng, cần được hoãn chấp hành hình phạt để có điều kiện chữa trị Những trường hợp như ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, và HIV chuyển giai đoạn AIDS với các nhiễm trùng cơ hội và tiên lượng xấu là những ví dụ điển hình cho tình trạng này.
Để đảm bảo an toàn cho người bị xử phạt tù, cần có kết luận từ bệnh viện cấp tỉnh trở lên xác nhận tình trạng bệnh nặng của họ Nếu buộc họ phải chấp hành hình phạt tù, điều này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của họ.
Khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện này thì họ có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi được bình phục
Theo Nghị quyết mục 7.7, người bị xử phạt tù mắc bệnh nặng có thể được hoãn chấp hành hình phạt cho đến khi sức khỏe hồi phục Tuy nhiên, khái niệm "sức khỏe hồi phục" vẫn chưa được thống nhất trong thực tiễn Có những trường hợp, khi xin hoãn chấp hành hình phạt, người bị kết án đang trong quá trình điều trị và có xác nhận từ bệnh viện rằng việc chấp hành án ngay sẽ nguy hiểm đến tính mạng Thế nhưng, sau một thời gian hoãn, họ có thể ra viện và không còn điều trị y tế, dẫn đến tình trạng sinh hoạt bình thường Điều này đã gây ra những lo ngại trong dư luận về tính nghiêm minh của pháp luật.
Theo Điều 23 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và Điểm 1, Mục 3 Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, trình tự và thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị bệnh nặng được quy định cụ thể.
Chánh án Tòa án có quyền quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án khi nhận được đề nghị bằng văn bản từ Viện Kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp hoặc từ chính người bị kết án Trong trường hợp không có đề nghị chính thức, Chánh án vẫn có thể xem xét và quyết định hoãn hình phạt nếu nhận được yêu cầu bằng văn bản từ người thân của người bị kết án (như cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em) hoặc từ cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc, hoặc chính quyền địa phương nơi họ thường trú.
Để đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cần lập hồ sơ bao gồm các tài liệu sau: bản sao bản án hoặc trích lục bản án hình sự, văn bản đề nghị của Viện Kiểm sát hoặc cơ quan Công an (nếu có), đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù của người bị kết án, đơn hoặc văn bản đề nghị từ người thân hoặc cơ quan nơi người bị kết án làm việc, và kết luận của bệnh viện cấp tỉnh về tình trạng sức khỏe của người bị kết án Đặc biệt, đối với người nhiễm HIV chuyển giai đoạn AIDS, cần có kết quả xét nghiệm HIV và hồ sơ bệnh án xác nhận tình trạng nhiễm trùng cơ hội cùng tiên lượng xấu.
Hồ sơ đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù cần được gửi đến Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án Trong vòng 07 ngày kể từ khi nhận đơn, Chánh án phải xem xét và đưa ra quyết định Nếu không chấp nhận đề nghị, Chánh án phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đề nghị, nêu rõ lý do không chấp nhận hoãn chấp hành hình phạt tù.
Trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù, Tòa án phải gửi quyết định này cho các đối tượng liên quan, bao gồm: người chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp Quân khu, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn cư trú, và Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định Sau khi nhận được quyết định hoãn, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện và cấp Quân khu phải ngừng thủ tục đưa người chấp hành án phạt tù đi thi hành án.
Người được hoãn chấp hành hình phạt tù sẽ được giao cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc quản lý Họ không được rời khỏi nơi cư trú mà không có sự đồng ý của cơ quan quản lý Mỗi ba tháng, cơ quan quản lý phải báo cáo tình hình quản lý người này với cơ quan thi hành án hình sự và Tòa án đã ra quyết định hoãn Nếu trong thời gian hoãn, người bị kết án vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ trốn, cơ quan quản lý phải báo cáo để đề nghị hủy bỏ quyết định hoãn Khi quyết định hủy được ban hành, cảnh sát sẽ thực hiện việc áp giải người chấp hành án Nếu người được hoãn chấp hành án bỏ trốn, cơ quan thi hành án sẽ ra quyết định truy nã Ngoài ra, nếu trong thời gian hoãn, người này phạm tội mới, Tòa án sẽ yêu cầu họ chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Thực tiễn áp dụng pháp luật
Thực tiễn áp dụng quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị bệnh nặng đã cho thấy hiệu quả tích cực, thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của Nhà nước Những quy định này giúp người thi hành án có thời gian chữa bệnh và phục hồi sức khỏe, đồng thời góp phần giáo dục và cảm hóa họ Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn tồn tại một số vướng mắc và bất cập cần được khắc phục.
Thứ nhất, theo hướng dẫn tại Điểm a, Mục 7.1 Nghị quyết số 01/2007/NQ-
Theo HĐTP, “bệnh nặng” được định nghĩa là tình trạng sức khỏe không cho phép người bị xử phạt tù thực hiện hình phạt, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng Các trường hợp cụ thể bao gồm ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao kháng thuốc độ 4, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, và HIV chuyển giai đoạn AIDS với các nhiễm trùng cơ hội Để chứng minh tình trạng “bệnh nặng”, cần có kết luận từ bệnh viện cấp tỉnh trở lên xác nhận tình trạng sức khỏe của người bị xử phạt Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn hiện hành chưa quy định rõ ràng về loại hình kết luận cần thiết, dẫn đến khó khăn và thiếu nhất quán trong việc áp dụng quy định này.
Theo Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP, người bị xử phạt tù mắc bệnh nặng có thể được hoãn thi hành án cho đến khi sức khỏe hồi phục Tuy nhiên, khái niệm “sức khỏe hồi phục” và cơ quan có trách nhiệm đánh giá tình trạng sức khỏe chưa được quy định rõ ràng Điều này dẫn đến nhiều trường hợp người được hoãn chấp hành án vì lý do sức khỏe nhưng sau đó lại trốn khỏi địa phương hoặc cố tình không thi hành án, mặc dù sức khỏe đã cải thiện, gây khó khăn cho việc thực hiện bản án của Tòa án.
Trong thời gian qua, việc áp dụng quy định pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị bệnh nặng đã gặp nhiều vướng mắc và bất cập Những khó khăn này được thể hiện rõ qua một số trường hợp thực tế, cho thấy sự cần thiết phải điều chỉnh và cải thiện quy trình thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị bệnh nặng trong hệ thống pháp luật.
Vụ việc thứ nhất: Bị án Đoàn Văn Thế bị xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” Tuy nhiên, ngày 18/8/2017, Tòa án nhân dân thành phố
Quy Nhơn đã ban hành Quyết định số 14/2017/QĐ-CA, hoãn chấp hành hình phạt tù 06 tháng đối với Đoàn Văn Thế do đang điều trị bệnh lao phổi AFB3+ tại Bệnh viện Lao và Phổi tỉnh Bình Định Liệu trình điều trị kéo dài 06 tháng yêu cầu cách ly để ngăn ngừa lây nhiễm và hạn chế lao động Tuy nhiên, kết quả xác minh của Viện KSND tỉnh Bình Định cho thấy Đoàn Văn Thế chỉ điều trị ngoại trú tại Bệnh viện từ ngày 09/5/2017 và đã được chẩn đoán lao phổi AFB dương tính, nhưng đến ngày 11/7/2017, kết quả xét nghiệm lại cho thấy âm tính, nghĩa là không còn bệnh.
Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn đã ra Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù đối với bị án Đoàn Văn Thế do lý do sức khỏe, nhưng quyết định này không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 61 Bộ luật Hình sự Theo Luật THAHS, trong vòng 07 ngày từ khi nhận được đề nghị hoãn chấp hành án, Chánh án Tòa án phải xem xét và quyết định Trong trường hợp này, bị án đã không thành khẩn và che giấu thông tin về tình trạng sức khỏe, trong khi Chánh án lại dựa vào kết quả xét nghiệm cũ từ năm 2017 để ra quyết định vào tháng 8 cùng năm, cho thấy sự thiếu chính xác trong việc xem xét thông tin.
Việc hoãn chấp hành hình phạt tù hiện nay gặp khó khăn do quy định pháp luật chỉ yêu cầu "kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người bị xử phạt tù bị bệnh nặng" mà không quy định rõ ràng về thời gian thực hiện kết luận Điều này dẫn đến tình trạng người bị kết án có thể sử dụng bản kết luận cũ để trì hoãn việc chấp hành án phạt Để khắc phục vấn đề này, cần bổ sung quy định về thời hạn hiệu lực của kết luận bệnh nặng, nhằm đảm bảo khoảng cách thời gian giữa kết luận và quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù là hợp lý.
Thái Văn Mừng đã kháng nghị quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù mà ông cho là trái pháp luật Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy trên trang web của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, truy cập ngày 09/07/2019.
2 Điểm a, Mục 7.1 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt
Lê Quốc Hội bị Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ tuyên phạt 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" Ngày 11/10/2011, Hội xin hoãn chấp hành hình phạt do bị bệnh nặng, cụ thể là nhiễm HIV/AIDS giai đoạn cuối Sau khi xác minh, Tòa án quyết định cho Hội hoãn chấp hành hình phạt trong 01 năm Tuy nhiên, sau khi hết thời hạn, Hội lại tiếp tục xin hoãn, nhưng qua xác minh lần này, bệnh viện không xác định Hội có nhiễm trùng cơ hội hay tiên lượng xấu Do đó, Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ không chấp nhận đề nghị hoãn, buộc Lê Quốc Hội phải thi hành án phạt tù.
Việc áp giải thi hành án đối với Lê Quốc Hội gặp khó khăn do thiếu quy định cụ thể cho trường hợp người bị kết án đang điều trị tại bệnh viện, không thuộc các bệnh được hoãn chấp hành hình phạt tù Cơ quan thi hành án hình sự cần xác định thời hạn tối đa để thực hiện áp giải Theo Điều 22 Luật THAHS, người bị kết án phải có mặt tại cơ quan thi hành án trong vòng 07 ngày kể từ khi nhận quyết định thi hành án; nếu không, cảnh sát sẽ thực hiện áp giải Trong trường hợp người bị kết án không bỏ trốn nhưng đang điều trị nội trú, việc áp giải gặp khó khăn do chưa có quy định rõ ràng về thủ tục.
Trong vụ việc này, người bị kết án đã tìm cách trốn tránh thi hành án bằng cách nhập viện điều trị nội trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ với lý do mắc bệnh ngoài da, sau khi đã điều trị tại bệnh viện đa khoa Sơn Tây Cơ quan thi hành án hình sự Công an thị xã Phú Thọ không thể thực hiện việc áp giải do lo ngại tình trạng sức khỏe của người bị kết án có thể phát sinh, gây khó khăn trong quá trình áp giải.
Vụ việc thứ ba: Bị cáo Phan Tấn Đạt, sinh năm 1993, trú tại: Thôn Long
Phan Tấn Đạt, cư trú tại xã An Hòa, huyện An Lão, tỉnh Bình Định, đã bị tuyên án 3 tháng tù giam về tội "cố ý gây thương tích" theo bản án Hình sự sơ thẩm số 01/2016/HSST vào ngày 04/12/2015 Sau khi Tòa án nhân dân huyện An Lão ra Quyết định thi hành án vào ngày 06/01/2016, Đạt đã nộp đơn xin hoãn thi hành án Ngày 13/01/2016, Tòa án nhân dân huyện An Lão đã ban hành Quyết định số 01/2016/QĐ-CA, cho phép Đạt hoãn chấp hành án trong 9 tháng do lý do sức khỏe, cụ thể là anh bị đứt dây chằng chéo trước gối và đang trong quá trình phẫu thuật, điều trị, không thể đi lại được.
Phan Tấn Đạt đã trải qua phẫu thuật nội soi tái tạo dây chằng chéo trước và sụn khớp tại Bệnh viện Phong - Da Liễu TW Quy Hòa và xuất viện vào ngày 19/12/2015 Theo quy định pháp luật, trường hợp của anh không được coi là bệnh nặng Tuy nhiên, Tòa án nhân dân huyện An Lão đã căn cứ vào giấy ra viện và chứng nhận phẫu thuật để quyết định hoãn thi hành án 9 tháng, lý do là do tình trạng sức khỏe của bị án sau phẫu thuật khiến việc đi lại gặp khó khăn.
Việc Tòa án nhân dân huyện An Lão quyết định hoãn chấp hành án 9 tháng cho bị án Phan Tấn Đạt dựa trên các giấy tờ hiện có là chưa thật sự chặt chẽ, không hoàn toàn tuân thủ hướng dẫn tại tiểu mục 7.2 Nghị quyết 01/2007/HĐTP của Tòa án nhân dân Tối cao Cụ thể, Nghị quyết quy định rằng Tòa án có thể xem xét cho người bị xử phạt tù hoãn chấp hành án trong một số trường hợp nhất định, nhưng yêu cầu phải xem xét rất kỹ lưỡng Theo điểm a tiểu mục 7.1, bị án cần phải có các điều kiện cụ thể để được xem xét hoãn án.
3 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ (2013), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án tỉnh Phú Thọ năm 2013
Bài viết của Nguyễn Thị Phương Thảo nêu rõ những kinh nghiệm rút ra trong công tác kiểm sát việc hoãn chấp hành hình phạt tù Thông qua việc phân tích các tình huống thực tế, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quy trình kiểm sát Để tìm hiểu thêm chi tiết, bạn có thể truy cập vào đường link: http://vksbinhdinh.gov.vn/newsdetail.asp?newsID829&cat1id=3&Cat2id=9.
Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
Bài viết này phân tích nguyên nhân gây ra những bất cập trong việc áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù theo điểm a khoản 1 Điều 67 Bộ luật Hình sự Việc xác định rõ các nguyên nhân này là cần thiết để cải thiện quy trình thực thi pháp luật, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả trong hệ thống tư pháp.
2015, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
Để xác định tình trạng "bệnh nặng" cho người được hoãn chấp hành hình phạt tù, bệnh viện cấp tỉnh trở lên phải cấp văn bản kết luận riêng, trong đó nêu rõ loại bệnh, tình trạng bệnh, thời gian điều trị và tái khám, cũng như khả năng ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân Những người có thẩm quyền xác nhận tình trạng bệnh bao gồm bác sĩ khám bệnh, trưởng khoa điều trị và giám đốc bệnh viện Việc này đảm bảo tính chính xác và trách nhiệm của cơ sở y tế trước pháp luật Nếu văn bản kết luận không chính xác, những người có thẩm quyền sẽ chịu trách nhiệm kỷ luật hoặc hình sự, đặc biệt nếu có hành vi nhận hối lộ từ 2 triệu đồng trở lên.
Để ngăn chặn tình trạng người bị kết án lợi dụng văn bản kết luận tình trạng bệnh để trì hoãn thi hành án phạt tù, cần bổ sung quy định về thời hạn hiệu lực của văn bản này Theo Điều 23 Luật THAHS, người bị kết án phạt tù tại ngoại phải có mặt tại cơ quan thi hành án trong vòng 07 ngày kể từ ngày nhận quyết định thi hành án Do đó, văn bản kết luận tình trạng bệnh chỉ được xem là căn cứ để Tòa án ra quyết định hoãn thi hành án nếu được cấp trong thời hạn quy định.
Trong vòng 07 ngày kể từ khi nộp hồ sơ đề nghị Tòa án xem xét, quyết định về việc hoãn thi hành án phạt tù, nếu quá thời hạn này, người bị kết án sẽ phải thực hiện giám định y khoa tại bệnh viện cấp tỉnh hoặc bệnh viện cấp quân khu trở lên để xác định tình trạng sức khỏe của mình.
Để ngăn chặn việc kéo dài thời hạn hoãn chấp hành án tù không giới hạn, cần quy định rằng người được hoãn vì bệnh nặng phải khám tại bệnh viện cấp tỉnh trở lên theo lịch tái khám của bác sĩ, tối thiểu 3 tháng một lần Cơ quan quản lý sẽ báo cáo tình trạng sức khỏe của họ với cơ quan thi hành án hình sự để thông báo cho Tòa án Việc khám bệnh là bắt buộc để xác định lại tình trạng sức khỏe, từ đó quyết định tiếp tục hoặc chấm dứt hoãn chấp hành án Trách nhiệm giám sát thuộc về người được giao nhiệm vụ quản lý, có thể là cán bộ UBND cấp xã hoặc nhân viên quân đội, tùy thuộc vào nơi quản lý Nếu không thực hiện đúng trách nhiệm, họ sẽ bị xử lý kỷ luật theo mức độ vi phạm, từ khiển trách đến buộc thôi việc.
Thứ ba, hướng dẫn cụ thể quy định tại tiểu mục 7.2 Nghị quyết
Theo Nghị quyết 01/2007/HĐTP của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án có thể hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị xử phạt nếu họ thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 61 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 và có văn bản xác nhận từ bệnh viện cấp tỉnh trở lên về tình trạng sức khỏe cần điều trị lâu dài Nếu bệnh không yêu cầu điều trị lâu dài, người chấp hành án phải thi hành án tù Trong trường hợp họ không tự giác chấp hành, Cảnh sát hỗ trợ tư pháp sẽ thực hiện việc áp giải Nếu người được hoãn chấp hành án bỏ trốn, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh sẽ ra quyết định truy nã và phối hợp tổ chức truy bắt theo quy định của pháp luật.
Vào thứ tư, cần thực hiện kiểm tra chặt chẽ các điều kiện để quyết định hoãn thi hành án phạt tù của Tòa án, nhằm ngăn chặn việc người bị kết án lợi dụng chính sách nhân đạo của Nhà nước để trốn tránh thi hành án Điều này rất quan trọng để bảo đảm việc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án không bị ảnh hưởng Theo quy định tại khoản 3 Điều 23 Luật Thi hành án hình sự, trong thời hạn
Trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù, Tòa án phải gửi quyết định đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm tra hồ sơ và căn cứ ra quyết định Trong quá trình thi hành quyết định hoãn, cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện và cấp quân khu sẽ thông báo cho Tòa án định kỳ 03 tháng một lần về việc quản lý người được hoãn chấp hành hình phạt tù Viện kiểm sát có trách nhiệm xem xét, kiểm tra việc quản lý này nhằm đảm bảo việc thi hành quyết định được thực hiện đúng pháp luật và chặt chẽ.
Hoãn chấp hành hình phạt tù là quyết định của Toà án cho phép người bị kết án trì hoãn việc thi hành án phạt tù, giúp họ tiếp tục sống và làm việc ngoài xã hội Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người mắc bệnh nặng, khi việc chấp hành án có thể đe dọa đến tính mạng của họ Do đó, việc hoãn chấp hành hình phạt tù không chỉ mang tính nhân đạo mà còn tạo điều kiện cho họ có thời gian chữa bệnh.
Thực tiễn áp dụng quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị bệnh nặng đã thể hiện tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của Nhà nước Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số vướng mắc như thiếu quy định rõ ràng về kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, chưa xác định rõ tiêu chí sức khỏe hồi phục và cơ quan có trách nhiệm đánh giá, cũng như quy trình quản lý và chấm dứt hoãn chấp hành hình phạt chưa chặt chẽ.
Bài viết đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những bất cập trong việc áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù theo Điều 67 BLHS năm 2015 Các giải pháp bao gồm: hướng dẫn xác định tình trạng “bệnh nặng” của người được hoãn chấp hành hình phạt tù từ bệnh viện cấp tỉnh trở lên; bổ sung quy định về thời hạn của văn bản kết luận tình trạng bệnh; yêu cầu người được hoãn chấp hành hình phạt tù do bệnh nặng phải khám tại bệnh viện cấp tỉnh theo lịch tái khám của bác sĩ ít nhất 3 tháng một lần; hướng dẫn cụ thể quy định tại tiểu mục 7.2 Nghị quyết 01/2007/HĐTP của Tòa án nhân dân Tối cao; và thực hiện kiểm tra chặt chẽ các điều kiện để ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù của Tòa án.
HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ TRONG TRƯỜNG HỢP “PHỤ NỮ CÓ THAI HOẶC ĐANG NUÔI CON DƯỚI 36 THÁNG TUỔI”
Quy định pháp luật hình sự hiện hành
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 67 BLHS năm 2015 thì: “Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
… b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi”
Trường hợp này áp dụng cho phụ nữ bị kết án có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, nếu họ là lần đầu bị xử phạt tù Đứa con có thể là con đẻ hoặc con nuôi, và nếu là con nuôi, cần đảm bảo các yêu cầu theo Thông tư liên tịch số 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA Để quyết định hoãn chấp hành hình phạt, Tòa án cần dựa vào kết luận của bệnh viện cấp huyện trở lên về tình trạng mang thai hoặc bản sao giấy khai sinh, giấy chứng sinh và xác nhận từ chính quyền địa phương về việc nuôi con.
Theo Nghị quyết 01/2007/NQ HĐTP ngày 02/7/2007, thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi là đến khi con đủ 36 tháng Nếu trong thời gian hoãn, người phụ nữ này lại có thai hoặc tiếp tục nuôi con nhỏ dưới 36 tháng, Tòa án sẽ tiếp tục hoãn đến khi con đủ 36 tháng, cho phép nhiều lần hoãn Thêm vào đó, theo khoản 2 Điều 67 BLHS năm 2015, quy định này được củng cố và áp dụng.
Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn lại phạm tội mới, Tòa án sẽ yêu cầu họ chấp hành hình phạt cũ trước, sau đó tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật.
Theo Nghị quyết 01/2007/NQ HĐTP ngày 02/7/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án có thể xem xét cho phép hoãn chấp hành hình phạt tù đối với người bị xử phạt tù trong một số trường hợp đặc biệt, bao gồm phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, ngay cả khi họ không thuộc trường hợp “bị xử phạt tù lần đầu” Tuy nhiên, việc này cần được xem xét rất chặt chẽ và cẩn thận.
“Nguyễn Thị B bị xử phạt ba năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy,
B bị xử phạt tù lần đầu khi đang nuôi con nhỏ 12 tháng tuổi và được tại ngoại Chánh án đã quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù cho B đến khi con đủ 36 tháng tuổi Tuy nhiên, trong thời gian hoãn, B lại phạm tội trộm cắp và bị xử phạt hai năm tù, tổng hợp hình phạt buộc B phải chấp hành năm năm tù Chánh án đã ra quyết định thi hành án, nhưng B đã nộp đơn xin hoãn thi hành án Trường hợp này cần xem xét kỹ lưỡng; nếu con B 24 tháng tuổi và có chồng chăm sóc, B sẽ không được hoãn, nhưng nếu con hay ốm đau và B đang mang thai, thì B vẫn có khả năng được hoãn chấp hành hình phạt tù.
Theo ví dụ trên, trong thời gian hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người phụ nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án có thể tiếp tục cho hoãn hình phạt nhưng phải xem xét rất chặt chẽ Tuy nhiên, khái niệm “rất chặt chẽ” chưa được hướng dẫn cụ thể, do đó việc áp dụng sẽ phụ thuộc vào nhận định của Chánh án Tòa án nhân dân có thẩm quyền.
Trình tự và thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được quy định tại Điều 23 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và Điểm 1, Mục 3 Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Chánh án Tòa án có quyền quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù cho người bị kết án khi nhận được đề nghị bằng văn bản từ Viện Kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp hoặc chính người bị kết án Nếu không có đề nghị từ các cơ quan trên, Chánh án vẫn có thể xem xét và quyết định hoãn hình phạt tù nếu nhận được đề nghị bằng văn bản từ người thân của người bị kết án (như cha, mẹ, chồng, anh, chị, em) hoặc từ cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc, hay chính quyền địa phương nơi người bị kết án cư trú.
Cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân muốn đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù cần phải lập hồ sơ đề nghị Hồ sơ này phải bao gồm đầy đủ các tài liệu cần thiết để xem xét yêu cầu hoãn chấp hành hình phạt.
- Bản sao bản án hoặc bản sao trích lục bản án hình sự;
- Văn bản đề nghị của Viện Kiểm sát (trường hợp Viện kiểm sát đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù);
- Văn bản đề nghị của cơ quan Công an (trường hợp cơ quan Công an đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù);
- Đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù của người bị kết án (trường hợp người bị kết án xin hoãn chấp hành hình phạt tù);
Đơn xin giảm án từ người thân của người bị kết án hoặc văn bản đề nghị từ cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc, cùng với đề xuất từ chính quyền địa phương nơi họ thường trú sẽ được xem xét, đặc biệt trong trường hợp không có đề nghị từ Viện Kiểm sát, cơ quan Công an và bản thân người bị kết án.
Kết luận của bệnh viện cấp huyện trở lên xác nhận rằng phụ nữ mang thai hoặc người bị kết án phạt tù cần cung cấp bản sao giấy khai sinh hoặc giấy chứng sinh của con, cùng với xác nhận từ chính quyền địa phương về việc họ đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi.
Hồ sơ đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù cần được gửi đến Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án trong vòng 07 ngày kể từ khi nhận đơn Chánh án phải xem xét và quyết định về đề nghị này Nếu không chấp nhận, Chánh án phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị, nêu rõ lý do không chấp nhận, chẳng hạn như người bị kết án đã phạm tội mới trong thời gian hoãn, hoặc có con dưới 36 tháng tuổi không sống chung với mẹ.
Trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù, Tòa án phải gửi quyết định này đến các cá nhân và cơ quan liên quan, bao gồm người chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, và các cơ quan thi hành án hình sự Khi nhận được quyết định hoãn, cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện và cấp Quân khu phải ngừng thủ tục đưa người chấp hành án đi thi hành án Người được hoãn chấp hành hình phạt tù sẽ được giao cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nơi họ cư trú quản lý, và không được rời khỏi nơi cư trú nếu không có sự đồng ý của cơ quan quản lý.
Thực tiễn áp dụng pháp luật
Quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thể hiện chính sách nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước Trong bốn trường hợp hoãn chấp hành hình phạt tù theo Điều 67 BLHS, trường hợp này được áp dụng nhiều nhất Tại tỉnh Bình Thuận, năm 2016, trong tổng số 47 trường hợp hoãn chấp hành án phạt tù, có đến 38 trường hợp là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Việc áp dụng quy định hoãn chấp hành hình phạt tù cho phụ nữ mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi hiện vẫn chưa thống nhất giữa các địa phương Tại TPHCM, Bình Thuận, Bình Định, thời gian hoãn bắt đầu từ khi người bị kết án mang thai cho đến khi con tròn 36 tháng tuổi Trong khi đó, ở Quảng Bình, Đà Nẵng, quy trình này được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 1 là hoãn trong thời gian mang thai và giai đoạn 2 là từ khi sinh con đến khi con đủ 36 tháng tuổi Mặc dù quy định này không ảnh hưởng đến quyền lợi của phụ nữ, nhưng việc theo dõi thi hành án trở nên khó khăn, đặc biệt khi thời gian hoãn kéo dài hơn 3 năm, vì có thể xảy ra các tình huống như sảy thai, con chết hoặc được giao cho người khác nuôi dưỡng.
Một số người bị kết án đã lợi dụng chính sách nhân đạo để trốn tránh việc thi hành án phạt tù, gây khó khăn cho công tác thi hành án và làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật Hành vi này cho thấy sự bất công khi những người vi phạm pháp luật không phải chịu trách nhiệm tương xứng với tội lỗi của họ.
Công văn số 231/BC-VKS-P8 ngày 24/5/2016 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận báo cáo kết quả xác minh điều kiện hoãn chấp hành án phạt tù gửi đến Vụ 8 Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Báo cáo số 62/BC-TA ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2018 và đề ra phương hướng nhiệm vụ năm 2019, nhấn mạnh vai trò của việc trừng trị và giáo dục thông qua áp dụng hình phạt.
Vụ việc thứ nhất: Bị cáo Nguyễn Thị Liễu đã bị Tòa án nhân dân huyện
Nguyễn Thị Liễu, bị tuyên phạt 5 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" tại Thanh Ba, Phú Thọ, đã được hoãn chấp hành án do đang nuôi hai con nhỏ, trong đó con nhỏ nhất mới 12 tháng tuổi Chồng của Liễu cũng đang thụ án tại trại giam Sau khi được hoãn cho đến khi con thứ hai đủ 36 tháng tuổi, Liễu tiếp tục mang thai con thứ ba, dẫn đến việc Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba phải gia hạn hoãn chấp hành án Khi con thứ ba gần đủ 36 tháng tuổi, Liễu lại mang thai con thứ tư, tiếp tục gây ra tình huống pháp lý phức tạp.
Nguyễn Thị Liễu đã cố tình có thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi để trốn tránh bản án 5 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Mặc dù các cơ quan tố tụng nhận thức được mục đích này, nhưng theo quy định pháp luật hiện hành, họ buộc phải hoãn chấp hành hình phạt tù cho Liễu Cụ thể, khi phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, họ có quyền được hoãn thi hành án cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, dẫn đến khả năng hoãn nhiều lần.
Trong một số trường hợp, những người được hoãn chấp hành hình phạt tù lại lợi dụng chính sách nhân đạo để tiếp tục phạm tội mới, điển hình là một số vụ án sau đây.
Vụ việc thứ hai: Vào ngày 10/2/2017, TAND huyện Long Hồ (Vĩnh
Long) đã tuyên phạt Nguyễn Thị Kiều (44 tuổi) hai năm ba tháng tù về tội trộm
Kiều, một hoa khôi thôn quê, đã biến thành trùm ma túy và có nhiều tiền án về tội trộm cắp tài sản và cướp giật Từ năm 1990 đến tháng 7/2012, Kiều đã bị xét xử nhiều lần, bao gồm án phạt 15 tháng tù vào năm 1995, nhưng được hoãn thi hành án do nuôi con nhỏ Cuối năm 2012, Kiều tiếp tục bị phạt một năm ba tháng tù nhưng không chấp hành án vì liên tục mang thai và sinh con, hiện đã có 10 đứa con Mặc dù Kiều thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, cơ quan điều tra phải cho tại ngoại do có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi Mỗi lần bị triệu tập, Kiều đều dẫn theo con cái và thường xuyên xin hoãn chấp hành hình phạt vì lý do tương tự.
Vụ việc thứ ba: Đối tượng Hà Kim Dung cư trú tại phường Nhật Tân, quận
Tây Hồ, Hà Nội, là một đối tượng nghiện ma túy có 4 tiền án, tiền sự, nổi bật với thủ đoạn bán lẻ ma túy tinh vi Sau khi cai nghiện, Dung đã lên kế hoạch sinh con như một "lá chắn" cho hoạt động phạm tội của mình Dù đã hơn 40 tuổi, Dung vẫn nỗ lực điều trị để có khả năng mang thai Kế hoạch của cô đã thành công khi vào đầu năm 2015, Dung mang thai mà không có bố cho đứa trẻ.
Vào tháng 4/2015, Hà Kim Dung bị Công an quận Hoàn Kiếm bắt giữ vì tội mua bán trái phép ma túy và bị tuyên phạt 30 tháng tù giam, nhưng được hoãn thi hành án do đang mang thai Tuy nhiên, trong thời gian thai nghén, vào tháng 11/2015, Dung tiếp tục vi phạm khi mua bán ma túy và bị Công an quận Cầu Giấy bắt giữ, dẫn đến án phạt 9 năm tù giam Dù vậy, do đang mang bầu gần đến ngày sinh, Dung lại được hoãn thi hành án một lần nữa.
Minh Giang đã liên tục sinh 10 đứa con nhằm trốn tránh việc thi hành án, sau đó lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản Hành động này đã gây ra nhiều hệ lụy và thu hút sự chú ý của dư luận (Nguồn: dantri.com.vn, truy cập ngày 09/02/2019).
Những bà mẹ sinh con liên tục để trốn án là một hiện tượng đáng chú ý trong xã hội hiện nay Hành động này không chỉ phản ánh những khó khăn mà họ phải đối mặt, mà còn là một phương thức để tránh né trách nhiệm pháp lý Việc sinh con liên tục không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân của họ mà còn tác động đến sự phát triển của trẻ em Các cơ quan chức năng cần có biện pháp hỗ trợ và can thiệp kịp thời để giải quyết tình trạng này, đảm bảo quyền lợi cho cả mẹ và con.
Mặc dù đang hoãn chấp hành hai bản án và biết rằng các cơ quan pháp luật khó xử lý khi có con nhỏ, Hà Kim Dung vẫn tiếp tục tham gia vào hành vi mua bán ma túy Đến tháng 5/2016, Dung bị bắt quả tang khi thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Nhiều đối tượng đã lợi dụng chính sách hoãn chấp hành hình phạt tù để tiếp tục phạm tội, điều này ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và hiệu quả trừng phạt đối với người vi phạm.
Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
Dựa trên việc nhận diện những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù theo điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ luật Hình sự năm 2015, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình này.
Theo Nghị quyết 01/2007/NQ HĐTP, việc hoãn chấp hành hình phạt tù cho phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi cần được xem xét cẩn thận, đặc biệt khi họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, nhất là các tội phạm nghiêm trọng Việc cho phép hoãn chấp hành hình phạt trong trường hợp này có thể ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và tạo cơ hội cho người bị kết án gây hại cho xã hội mà không bị trừng phạt Do đó, nếu trong thời gian hoãn chấp hành, họ thực hiện tội phạm mới với lỗi cố ý, Tòa án sẽ yêu cầu họ chấp hành hình phạt trước đó và tổng hợp với hình phạt mới, không cho phép hoãn chấp hành hình phạt đã được tổng hợp.
Cần hạn chế số lần hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, vì quy định hiện tại đã dẫn đến tình trạng lạm dụng để trốn tránh hình phạt Tác giả đề xuất rằng nếu người bị hoãn tiếp tục có thai trong thời gian được hoãn, Tòa án có thể cho phép hoãn đến khi con đủ 36 tháng tuổi Tuy nhiên, nếu sau đó họ vẫn tiếp tục có thai, họ phải chấp hành hình phạt tù để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Vào thứ ba, văn bản hướng dẫn đã được ban hành nhằm thống nhất quy định về việc hoãn chấp hành án phạt tù đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi Việc này được chia thành hai giai đoạn: hoãn chấp hành án phạt tù cho phụ nữ mang thai và hoãn cho phụ nữ nuôi con nhỏ Mục đích của việc tách biệt này là để quản lý và theo dõi người bị kết án, đồng thời bảo đảm quyền lợi của họ theo chính sách của Nhà nước Điều này cũng nhằm tránh tình trạng hoãn chấp hành án không còn căn cứ (như trường hợp sảy thai hoặc con qua đời) mà không được báo cáo cho chính quyền địa phương, dẫn đến Tòa án không có cơ sở để chấm dứt việc hoãn chấp hành án.
Vào thứ tư, quy định mới đã được ban hành về việc kiểm tra, theo dõi và quản lý những người được hoãn chấp hành hình phạt tù, giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc Cụ thể, người được giao nhiệm vụ quản lý sẽ thực hiện kiểm tra định kỳ hàng tuần để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ, tránh tình trạng người bị án rời khỏi nơi cư trú mà không được phát hiện Ngoài ra, cần có chế tài xử lý đối với những trường hợp vi phạm, như đi khỏi nơi cư trú mà không có sự đồng ý của chính quyền hoặc không trình báo khi vắng mặt Nếu người được hoãn chấp hành hình phạt tù tái phạm từ hai lần trở lên, Tòa án có quyền quyết định buộc họ phải chấp hành hình phạt tù đã được hoãn, trừ khi con dưới 36 tháng tuổi của họ có người chăm sóc.
Vào ngày thứ năm, cần thực hiện kiểm tra chặt chẽ các điều kiện để quyết định hoãn thi hành án phạt tù của Tòa án, nhằm ngăn chặn việc lợi dụng chính sách nhân đạo của Nhà nước để trốn tránh thi hành án Điều này rất quan trọng để bảo đảm tính hiệu lực của bản án đã được Tòa án xác lập, đặc biệt trong các trường hợp như nhận nuôi con nuôi dưới 36 tháng tuổi.
Hiện nay, Luật chỉ quy định rằng phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hoãn thi hành án phạt tù Tuy nhiên, trong thực tế, có trường hợp người chồng phải nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi vợ qua đời Do đó, tác giả đề xuất cần nghiên cứu để quy định rằng trong trường hợp vợ chết, người chồng cũng nên được hoãn thi hành án phạt tù nhằm đảm bảo sự công bằng và tính nhân đạo của pháp luật.
Theo Điều 67 BLHS năm 2015, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi sẽ được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, nếu đây là lần đầu bị xử phạt Quy định này áp dụng cho cả con đẻ và con nuôi Nếu trong thời gian hoãn, người phụ nữ tiếp tục có thai hoặc nuôi con nhỏ, Toà án vẫn sẽ cho phép hoãn đến khi con đủ 36 tháng tuổi Đây là chính sách nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước đối với phụ nữ trong tình trạng này.
Trong thực tế, nhiều người bị kết án đã lợi dụng chính sách nhân đạo để trốn tránh hình phạt tù bằng cách mang thai liên tục Ngoài ra, một số đối tượng cũng đã lợi dụng quy định khoan hồng liên quan đến việc hoãn chấp hành hình phạt tù để tiếp tục phạm tội mới Hơn nữa, một số cơ quan và tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý người hoãn chấp hành hình phạt không thực hiện việc theo dõi chặt chẽ, dẫn đến việc họ rời khỏi nơi cư trú mà không được báo cáo.
Để khắc phục những bất cập trong việc áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù theo Điều 67 BLHS năm 2015, tác giả đề xuất một số giải pháp quan trọng Đầu tiên, cần quy định cụ thể về việc cho phép hoãn chấp hành hình phạt tù theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP Thứ hai, giới hạn số lần hoãn chấp hành hình phạt tù đối với phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi Thứ ba, cần thống nhất việc hoãn chấp hành án phạt tù cho phụ nữ mang thai và phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi thành hai giai đoạn riêng biệt Bên cạnh đó, trường hợp người chồng phải nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi vợ qua đời cũng cần được xem xét để đảm bảo sự công bằng và nhân đạo Cuối cùng, cần quy định cụ thể về việc kiểm tra, theo dõi và quản lý người được hoãn chấp hành hình phạt tù.
Hoãn chấp hành hình phạt tù là một chế định quan trọng trong luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Chế định này không chỉ thể hiện nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội, mà còn phản ánh chính sách khoan hồng, dân chủ xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người.
Thực tiễn áp dụng quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù tại các địa phương thời gian qua đã bộc lộ một số bất cập, như căn cứ xác định tình trạng "bệnh nặng" chưa rõ ràng và thiếu quy định về sức khỏe hồi phục cũng như cơ quan có trách nhiệm đánh giá Thủ tục quản lý và chấm dứt hoãn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp bệnh nặng cũng chưa chặt chẽ Ngoài ra, một số phụ nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi đã lợi dụng chính sách này để trốn tránh thi hành án hoặc tái phạm tội Hơn nữa, các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý người được hoãn chấp hành hình phạt tù không theo dõi chặt chẽ, dẫn đến tình trạng họ rời khỏi nơi cư trú mà không được báo cáo.
Dựa trên việc nhận diện những khó khăn và bất cập trong thực tiễn áp dụng chế định hoãn chấp hành hình phạt tù, tác giả đã đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi chế định này Mục tiêu là đảm bảo tính khoan hồng, nhân đạo và nhân văn trong chính sách hình sự của Nhà nước, đồng thời cam kết thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và nghiêm minh.
Vì hạn chế về điều kiện nghiên cứu và năng lực cá nhân, bài viết không thể tránh khỏi một số thiếu sót Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ Hội đồng khoa học và các nhà nghiên cứu để hoàn thiện luận văn.
Học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Thầy, Cô của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã tận tâm giảng dạy và chia sẻ kiến thức với lớp cao học Luật khóa 1 - Bình Thuận Đặc biệt, học viên rất biết ơn Tiến sĩ Hoàng Thị Tuệ Phương vì sự quan tâm và hướng dẫn tận tình, giúp đỡ trong việc hoàn thành luận văn này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A Văn bản quy phạm pháp luật
2 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), (Luật số: 37/2009/QH12) ngày 19/06/2009;
3 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017), (Luật số: 12/2017/QH14) ngày 20/6/2017;
4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, (Luật số: 101/2015/QH13) ngày 27/11/2015;
5 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, (Luật số: 53/2010/QH12), ngày 17/6/2010;
6 Luật Thi hành án hình sự năm 2019, (Luật số: 41/2019/QH14);
7 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
8 Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;