1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Giải quyết tranh chấp về nhãn hiệu theo pháp luật việt nam thực trạng và hướng hoàn thiện (luận văn thạc sỹ luật)

87 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 87
Dung lượng 1,08 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ TRANH CHẤP VỀ NHÃN HIỆU (12)
    • 1.1. Lý luận về nhãn hiệu (13)
      • 1.1.1. Nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của nhãn hiệu (13)
      • 1.1.2. Định nghĩa về nhãn hiệu (14)
      • 1.1.3. Đặc điểm của nhãn hiệu (17)
      • 1.1.4. Phân loại (19)
      • 1.1.5. Phân biệt nhãn hiệu với một số khái niệm có liên quan (0)
    • 1.2. Pháp luật về nhãn hiệu (25)
      • 1.2.1. Sơ lƣợc pháp luật về nhãn hiệu (25)
      • 1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về nhãn hiệu (28)
    • 1.3. Tranh chấp về nhãn hiệu (30)
      • 1.3.1. Hành vi xâm phạm nhãn hiệu (30)
      • 1.3.2. Định nghĩa tranh chấp nhãn hiệu (32)
      • 1.3.3. Các loại tranh chấp nhãn hiệu (33)
      • 1.3.4. Tác động của tranh chấp nhãn hiệu đối với kinh tế xã hội (0)
    • 1.4. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 (0)
  • CHƯƠNG 2: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ VỚI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ (12)
    • 2.1. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu theo hiệp định TRIPs (38)
    • 2.2. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam (40)
      • 2.2.1. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng thương lượng, hòa giải (0)
      • 2.2.2. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính (0)
      • 2.2.3. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng biện pháp hình sự (0)
      • 2.2.4. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự (0)
      • 2.2.5. Giải quyết tranh chấp nhãn hiệu bằng phương thức Trọng tài thương mại (0)
    • 2.3. Tình hình xâm phạm nhãn hiệu và giải quyết tranh chấp nhãn hiệu ở Việt (55)
      • 2.3.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp nhãn hiệu tại Tòa án bằng biện pháp dân sự (0)
    • 2.4. Một số vụ tranh chấp cụ thể (59)
    • 2.5. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 (0)
  • CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP NHÃN HIỆU Ở VIỆT NAM (12)
    • 3.1. Những vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp nhãn hiệu ở Việt (69)
      • 3.1.1. Bất cập của hệ thống pháp luật nhãn hiệu và pháp luật có liên quan đƣợc áp dụng để giải quyết tranh chấp nhãn hiệu (0)
      • 3.1.2. Sự thiếu hiểu biết của doanh nghiệp và người dân về nhãn hiệu cũng như pháp luật về nhãn hiệu (0)
      • 3.1.3. Yếu kém trong lĩnh vực quản lý và năng lực giải quyết tranh chấp (70)
      • 3.1.4. Ảnh hưởng từ mặt trái của quá trình toàn cầu hóa (71)
    • 3.2. Giải pháp kiến nghị (71)
      • 3.2.1. Giải pháp ở tầm vĩ mô dành cho hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý của các cơ quan nhà nước (71)
      • 3.2.2. Giải pháp mang tính vi mô dành cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu (75)
    • 3.3. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 (0)
  • KẾT LUẬN (36)

Nội dung

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ TRANH CHẤP VỀ NHÃN HIỆU

Lý luận về nhãn hiệu

1.1.1 Nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của NH

Nhãn hiệu (NH) đã tồn tại từ thời cổ đại, khi thương nhân bắt đầu bán hàng hóa ra ngoài khu vực sinh sống của họ Hơn 3000 năm trước, các thợ thủ công Ấn Độ đã khắc chữ ký của mình lên các tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi đến Iran Những nhãn hiệu này không chỉ quảng cáo cho người tạo ra sản phẩm mà còn là bằng chứng xác nhận quyền sở hữu trong trường hợp tranh chấp, đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Trong thời Trung cổ, sự phát triển mạnh mẽ của kinh doanh đã thúc đẩy việc sử dụng các dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của thương gia và nhà sản xuất Những dấu hiệu này không chỉ phản ánh sự phát triển của thương mại mà còn giúp người tiêu dùng nhận biết sản phẩm do những thành viên có kinh nghiệm trong ngành buôn bán sản xuất.

Ngày nay, nhãn hiệu (NH) đã trở thành một phần thiết yếu trong thương mại, đóng vai trò quan trọng trong việc phân biệt sản phẩm trên thị trường Với sự hỗ trợ của khoa học công nghệ, có nhiều sản phẩm khác nhau từ các nhà sản xuất cạnh tranh cùng một loại hàng hóa, giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận diện và lựa chọn Mỗi nhà sản xuất đều muốn nhấn mạnh sự độc đáo của sản phẩm của mình thông qua nhãn hiệu, nhằm thu hút sự chú ý và tạo lòng tin từ khách hàng.

5 WIPO (2001), “Cẩm nang Sở Hữu Trí Tuệ: Chính sách, pháp luật và áp dụng (WIPO Intellectual Property

Handbook: Policy, Law and Use)” do Cục Sở Hữu Trí Tuệ phát hành, tr.65

6 Kamil Idris (2005), “Sở hữu trí tuệ - một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế”, tr.150

Ngày nay, khi du khách tham quan Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, họ vẫn có thể nhìn thấy những dấu hiệu sản xuất trên một số viên gạch Những dấu hiệu này không chỉ đảm bảo chất lượng mà còn giúp các hoàng đế thời đó có thể quy trách nhiệm khi cần thiết Điều này thể hiện tầm quan trọng của nhãn hiệu trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, như đã được E Anthony Wayne đề cập trong tác phẩm của ông về quyền sở hữu trí tuệ.

8 Có thể lấy minh chứng trong tiếng Pháp, thuật ngữ đƣợc sử dụng là “marque deposeé” trong đó deposeé có nghĩa là

NH đã được đăng kí với một phường hội buôn bán, xem Kamil Idris (2005), chú thích số 6, tr.150

Để khách hàng lựa chọn sản phẩm của mình thay vì các sản phẩm cùng loại từ các nhà sản xuất khác, ngân hàng (NH) sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ họ thực hiện điều này.

Có nhiều cách tiếp cận về định nghĩa NH nhưng thông thường và phổ biến đó là định nghĩa NH thông qua các chức năng cơ bản của nó

WTO đã thông qua Hiệp định TRIPs, trong đó định nghĩa nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ dấu hiệu hoặc tổ hợp dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác Những dấu hiệu này có thể bao gồm tên người, chữ cái, chữ số, yếu tố hình, sự kết hợp màu sắc, và bất kỳ sự kết hợp nào của các dấu hiệu trên, miễn là chúng có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa.

Theo Hiệp định BTA, nhãn hiệu hàng hóa là các dấu hiệu hoặc sự kết hợp của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một cá nhân với hàng hóa hoặc dịch vụ của cá nhân khác Các yếu tố tạo thành nhãn hiệu bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, và hình dạng của hàng hóa hoặc bao bì Nhãn hiệu hàng hóa không chỉ bao gồm nhãn hiệu thông thường mà còn bao gồm nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận.

Theo Luật nhãn hiệu hàng hoá của Hoa Kỳ, thuật ngữ nhãn hiệu hàng hoá bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hoặc hình vẽ, cũng như sự kết hợp giữa chúng.

(1) được sử dụng bởi một người, hoặc

Một người có ý định chân thành có thể sử dụng thương hiệu trong thương mại và đăng ký theo quy định của luật để xác định và phân biệt hàng hóa của mình, bao gồm cả hàng hóa đặc chủng, với hàng hóa của những người khác, đồng thời chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa, ngay cả khi nguồn gốc đó không được xác định.

9 Điều 15 đoạn 1Hiệp định TRIPs

10 Điều 6 khoản 1 hiệp định BTA, www.nciec.gov.vn/downloads/BTA.pdf (truy cập ngày 1/6/2012)

11 Lanham Act – US code 15, (1946-1998), Art 1127, www.uspto.gov/trademarks/law/tmlaw.pdf (truy cập ngày 1/6/2012)

8 Đối với Cộng Hòa Pháp, mặc dù thuộc hệ thống châu Âu lục địa nhƣng định nghĩa

NH đƣợc qui định tại Bộ luật SHTT Pháp cũng không khác biệt cơ bản so với luật Hoa

Sự phát triển của thị trường và khả năng nhận biết của người tiêu dùng đã làm nổi bật vai trò của nhãn hiệu hàng hóa và dịch vụ Nhãn hiệu được định nghĩa là dấu hiệu có thể biểu thị bằng đồ họa, giúp phân biệt sản phẩm hoặc dịch vụ của cá nhân hoặc pháp nhân Các dấu hiệu này có thể bao gồm từ ngữ, sự kết hợp của từ ngữ, tên họ, tên địa lý, tên bút danh, cũng như các chữ cái, chữ số và chữ viết tắt.

(b) Dấu hiệu có thể nghe được như âm thanh, đoạn nhạc;

Dấu hiệu nhận diện sản phẩm bao gồm hình ảnh, nhãn hiệu, đường viền, khắc chạm nổi, hình ảnh ba chiều, logo, hình dáng sản phẩm hoặc bao bì Những yếu tố này có thể kết hợp, sắp xếp và tạo ra các sắc thái màu sắc khác nhau để thu hút sự chú ý của người tiêu dùng.

Dựa trên việc kế thừa các quy định từ các Điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia tiên tiến, Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 lần đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa quan trọng.

Nhãn hiệu hàng hóa được định nghĩa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau Các dấu hiệu này có thể là từ ngữ, hình ảnh, hoặc sự kết hợp của chúng với nhiều màu sắc Tuy nhiên, phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu hàng hóa theo quy định trước đây quá hẹp, chỉ giới hạn trong việc phân biệt sản phẩm cùng loại Để phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế toàn cầu, Luật SHTT 2005 đã đưa ra định nghĩa mới, mở rộng khái niệm nhãn hiệu thành “dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau,” bao gồm các dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, và hình ba chiều, với khả năng phân biệt rõ ràng.

12 Intellectual Property Code of France (1992-1996), Art.L 711-1 www.jpo.go.jp/ e/s /france /e_chiteki_zaisan.pdf711-1 (truy cập ngày 6/1/2012)

9 hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu NH với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác” 15

Định nghĩa nhãn hiệu (NH) theo quy định của các quốc gia có sự khác biệt, đặc biệt trong việc bảo hộ các dấu hiệu cụ thể Tại Việt Nam, NH chỉ được xác định qua "dấu hiệu nhìn thấy được" như chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, và các yếu tố màu sắc Trong khi đó, các nước phát triển như Hoa Kỳ và Pháp mở rộng khái niệm này để bao gồm cả các dấu hiệu không thể nhìn thấy như mùi vị và âm thanh Sự khác biệt này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển, văn hóa, thói quen thương mại, và khả năng quản lý của cơ quan nhà nước Việc bảo hộ các dấu hiệu thính giác và khứu giác đòi hỏi trình độ khoa học kỹ thuật cao, do đó hầu hết các nước đang phát triển không bảo hộ những dấu hiệu không nhìn thấy được như NH.

Việt Nam có thể mở rộng định nghĩa nhãn hiệu (NH) theo nhu cầu bảo hộ thực tế và quy định của TRIPs, bao gồm các dấu hiệu có khả năng phân biệt và nhận biết bằng hình ảnh Tuy nhiên, đối với các dấu hiệu không truyền thống như âm thanh hay mùi vị, việc bảo hộ hiện tại chưa phù hợp do độ phức tạp trong việc xét nghiệm và yêu cầu trình độ khoa học kỹ thuật cao Hơn nữa, trình độ dân trí ở Việt Nam còn hạn chế, gây khó khăn trong việc nhận biết và dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Pháp luật về nhãn hiệu

1.2.1 Sơ lƣợc pháp luật về NH

Pháp luật về sở hữu trí tuệ, đặc biệt là luật về nhãn hiệu, khác với các chế định khác trong luật dân sự, được phát triển từ thực tiễn của cuộc cách mạng công nghiệp, thay vì từ các nguyên tắc của Luật La Mã.

Pháp luật hiện đại về nhãn hiệu (NH) có nguồn gốc từ hệ thống án lệ, nhằm ngăn chặn sự nhầm lẫn hàng hóa giữa các nhà sản xuất Anh là quốc gia đầu tiên ban hành luật bảo hộ độc quyền NH, với nhãn hiệu đầu tiên được bảo hộ là của hãng bia BASS vào năm 1777 Sau đó, nhiều quốc gia khác cũng đã ban hành luật về NH, và hiện nay hầu hết các quốc gia đều có quy định về vấn đề này Quyền đối với NH được ghi nhận lần đầu trong Công ước Paris năm 1883, đã trải qua nhiều sửa đổi trong thế kỷ 20, giải quyết các vấn đề bảo hộ sở hữu công nghiệp như nguyên tắc bảo hộ, quyền ưu tiên đăng ký, và thực thi công ước tại các quốc gia thành viên Các quy định của Công ước về NH đã trở thành nguồn tham khảo quan trọng cho pháp luật quốc gia.

43 Xem Lê Mai Thanh (2006), chú thích số 16, tr.28

44 Điều 32 Khoản 1 Luật Thương mại 2005

45 Xem Phan Ngọc Tâm (2011), chú thích số 18, tr.53

46 Lê Nết (2005), tập bài giảng “Quyền Sở hữu Trí tuệ”, NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, tr.57

Công ước 47 được thông qua vào ngày 20 tháng 3 năm 1883 và đã trải qua nhiều lần sửa đổi quan trọng, bao gồm tại Brussels vào ngày 14 tháng 12 năm 1900, Washington vào ngày 2 tháng 6 năm 1911, La Haye vào ngày 6 tháng 11 năm 1925, London vào ngày 2 tháng 6 năm 1934, Lisbon vào ngày 31 tháng 10 năm 1958 và Stockholm vào ngày 14 tháng 7 năm 1967 Cuối cùng, công ước này đã được tổng sửa đổi vào ngày 28 tháng 9 năm 1979.

Có 19 luật quan trọng đã được quy định và cụ thể hóa trong các điều ước quốc tế, cũng như trong pháp luật nội địa của nhiều quốc gia Những luật này tiếp tục đóng vai trò thiết yếu trong việc điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế và nội địa, góp phần vào việc xây dựng một hệ thống pháp lý toàn cầu vững mạnh.

Với sự phát triển của khoa học công nghệ, các điều ước quốc tế như Thỏa ước Madrid 1891 và Nghị định thư Madrid 1989 đã ra đời, nhằm quy định về đăng ký nhãn hiệu (NH) Hệ thống Madrid điều chỉnh quy trình nộp đơn và đăng ký NH, tạo điều kiện thuận lợi để việc đăng ký diễn ra nhanh chóng và hiệu quả tại các quốc gia thành viên Điều này đã hình thành một khung pháp lý hiệu quả cho việc đăng ký NH quốc tế, bổ sung cho hệ thống đăng ký quốc gia trước đây.

Hiệp định TRIPs năm 1994 đã xác định quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là một phần quan trọng trong hệ thống thương mại quốc tế, cùng với GATT và GATS, tạo thành ba trụ cột chính của WTO Điều 15 của Hiệp định có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi liên quan đến nhãn hiệu (NH), trong khi Điều 16 quy định về bảo vệ NH nổi tiếng, kế thừa và phát triển từ các quy định của Công ước Paris, đặc biệt là điều 6 bis Ngoài ra, Phần III và IV của Hiệp định nêu rõ các yêu cầu tối thiểu mà các quốc gia thành viên cần tuân thủ trong việc giải quyết tranh chấp về SHTT và NH.

Hiệp ước Luật Nhãn hiệu 1994 và Hiệp ước Singapore về Luật Nhãn hiệu sửa đổi năm 2006 được ký kết nhằm mục đích hài hòa hóa và đơn giản hóa quy trình đăng ký nhãn hiệu ở cấp quốc gia và khu vực Điều này giúp giảm bớt sự phức tạp và tăng tính dự đoán trong việc nộp đơn và quản lý hành chính liên quan đến đăng ký nhãn hiệu tại nhiều cơ quan có thẩm quyền, đồng thời điều chỉnh các vấn đề trong lĩnh vực công nghệ truyền thông.

Ngoài các điều ước quốc tế đa phương, còn có các điều ước quốc tế song phương được ký kết giữa các quốc gia, cùng với pháp luật về ngân hàng của từng nước, tạo nên bức tranh tổng thể của hệ thống pháp luật ngân hàng.

Pháp luật Việt Nam về NH

Do tình hình kinh tế chính trị đặc biệt, pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT) và ngân hàng ở Việt Nam ra đời muộn hơn so với nhiều quốc gia khác Cụ thể, Luật thương hiệu được ban hành tại miền Nam vào năm 1957, trong khi đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành các quy định liên quan vào năm 1958.

Thể lệ về thương phẩm và thương hiệu là những văn bản pháp lý đầu tiên liên quan đến ngân hàng tại Việt Nam, tuy nhiên, giá trị thực tiễn của các văn bản này vẫn còn hạn chế.

Vào năm 1976, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã kế thừa Công ước Paris và Thỏa ước Madrid, trong khi Việt Nam trở thành thành viên của hai điều ước này từ ngày 08/03/1949 dưới thời Chính phủ Bảo Đại.

Ngày 14/12/1982 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 197/HĐBT quy định Điều lệ về NH và Điều lệ này được hướng dẫn thực hiện bởi TT 1258/SC ngày 18/10/1983

Năm 1986, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khai mạc và trong báo cáo chính trị, nội dung "xây dựng và phát triển hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp" được đề cập Chủ trương này của Đảng đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của toàn bộ hoạt động sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong lĩnh vực nhãn hiệu.

Vào ngày 11/2/1989, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN), trong đó ngân hàng (NH) được công nhận là một loại tài sản được pháp luật bảo vệ Pháp lệnh quy định thẩm quyền của Tòa án trong việc xử lý tranh chấp và vi phạm quyền SHCN, đồng thời giao cho TANDTC hướng dẫn xét xử các vụ việc liên quan Ngày 22/7/1989, TANDTC đã ban hành Thông tư số 3/NCPL để hướng dẫn xét xử các tranh chấp về quyền SHCN Sự ra đời của Pháp lệnh này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền SHCN đối với NH tại Việt Nam, dẫn đến sự gia tăng đáng kể số lượng đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ NH đầu tiên của Việt Nam đăng ký bảo hộ ở nước ngoài thông qua Thỏa ước Madrid là NH “SEAPRODEX”.

Bộ luật dân sự 1995, có hiệu lực từ ngày 1/7/1996, đã thay thế Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động sở hữu trí tuệ tại Việt Nam Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đánh dấu sự chuyển mình sang giai đoạn mới trong việc triển khai và bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu trí tuệ.

48 Xem Lê Nết (2005), chú thích số 46, tr 30

The report titled "25 Years of Construction and Development of the Intellectual Property Office (1982 - 2007)" by the Intellectual Property Office highlights the organization's progress and achievements over a quarter-century For more details, visit the official website at http://www.noip.gov.vn/web/noip/home/vn?proxyUrl=/noip/cms_vn.nsf/%28agntDisplayContent%29?OpenAgent&UNID

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:14

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
16. Thông tƣ số 10/2008/TT-BTTTT ngày 24 tháng 12 năm 2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về giải quyết tên miền quốc gia “.vn” Sách, tạp chí
Tiêu đề: vn
1. Ts. Đinh Thị Mai Phương (chủ biên) – Phan Thị Hải Anh – Điêu Ngọc Tuấn Cẩm nang pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2004 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cẩm nang pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ
Nhà XB: Nxb. Chính trị quốc gia năm 2004
2. Kamil Idris, “Sở Hữu Trí Tuệ - một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế”, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), năm 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sở Hữu Trí Tuệ - một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế
3. Ts. Lê Mai Thanh, luận án tiến sĩ “Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Viện nhà nước và pháp luật, năm 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
4. Ts. Lê Nết “Quyền Sở hữu trí tuệ”, tài liệu bài giảng, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền Sở hữu trí tuệ”
Nhà XB: Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2005
5. Ts. Lê Trung Đạo “Giáo trình Bảo hộ quyền Sở Hữu Trí Tuệ”, Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan, Nxb. Tài chính năm 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Bảo hộ quyền Sở Hữu Trí Tuệ”
Nhà XB: Nxb. Tài chính năm 2009
6. Ts. Lê Xuân Thảo “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về Sở hữu trí tuệ”, Nxb. Tƣ pháp năm 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về Sở hữu trí tuệ”
Nhà XB: Nxb. Tƣ pháp năm 2005
7. Mary LaFrance “Understanding Trademark Law”, LexisNexis năm 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Understanding Trademark Law
8. Ts. Ngô Tuấn Nghĩa “Bảo đảm quan hệ lợi ích hài hòa về Sở Hữu Trí Tuệ trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc Gia Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật năm 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo đảm quan hệ lợi ích hài hòa về Sở Hữu Trí Tuệ trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”
Nhà XB: Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật năm 2011
9. Nguyễn Thị Phương Thùy, luận văn cử nhân luật, “Thực trạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp và giải pháp hạn chế vi phạm” năm 2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp và giải pháp hạn chế vi phạm
10. Nxb. Từ điển Bách khoa, “Quyền Sở hữu trí tuệ” (Focus on Intellectual property rights) năm 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyền Sở hữu trí tuệ” (Focus on Intellectual property rights
Nhà XB: Nxb. Từ điển Bách khoa
11. Ts. Phan Ngọc Tâm, luận án tiến sĩ “Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nghiên cứu so sánh pháp luật Liên minh Châu Âu và Việt Nam” năm 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nghiên cứu so sánh pháp luật Liên minh Châu Âu và Việt Nam
13. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới “Cẩm nang Sở Hữu Trí Tuệ: Chính sách, pháp luật và áp dụng” (WIPO Intellectual Property Handbook: Policy, Law and Use) do Cục Sở Hữu Trí Tuệ phát hành năm 2001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cẩm nang Sở Hữu Trí Tuệ: Chính sách, pháp luật và áp dụng” (WIPO Intellectual Property Handbook: Policy, Law and Use)
1. Công ƣớc Paris 2. Hiệp định TRIPs 3. Hiệp định BTAVăn bản pháp luật trong nước 1. Bộ luật Dân sự 1995 Khác
4. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) 5. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 Khác
7. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) 8. Luật Thương mại 2005 Khác
10. Nghị định số 97/2008/NĐ-CP ngày 28 tháng 08 năm 2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet Khác
11. Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp Khác
15. Thông tƣ 09/2008/TT-BTTTT ngày 24 tháng 12 năm 2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam hướng dẫn về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet Khác
1. Luật Nhãn hiệu hàng hoá của Liên bang Hoa Kỳ (Lanham Act năm 1946, đƣợc sửa đổi lần cuối năm 1998) Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w