1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế về luật biển theo UNCLOS 1982 và khả năng áp dụng cơ chế này đối với việt nam

61 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài Quốc Tế Về Luật Biển Theo UNCLOS 1982 Và Khả Năng Áp Dụng Cơ Chế Này Đối Với Việt Nam
Tác giả Vũ Thị Linh Trang
Người hướng dẫn Ths. Lê Đức Phương
Trường học Trường Đại Học Luật Tp Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Quốc Tế
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2015
Thành phố Tp Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 61
Dung lượng 1,27 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP (16)
    • 1.1 Khái quát tranh chấp về biển (16)
      • 1.1.1 Khái niệm tranh chấp về biển (16)
      • 1.1.2 Đặc điểm tranh chấp về biển (18)
      • 1.1.3 Phân loại tranh chấp về biển (18)
    • 1.2 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp về biển theo quy định của UNCLOS 1982 (20)
    • 1.3 Các biện pháp và cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ƣớc 1982 (22)
      • 1.3.1 Biện pháp đàm phán (22)
      • 1.3.2 Biện pháp hòa giải (24)
      • 1.3.3 Các cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS 1982 (26)
        • 1.3.3.1 Cơ chế giải quyết tranh chấp tại Tòa án Công lý quốc tế (27)
        • 1.3.3.2 Cơ chế giải quyết tranh chấp tại Tòa án quốc tế Luật Biển (28)
        • 1.3.3.3 Cơ chế giải quyết tranh chấp tại Trọng tài quốc tế về luật biển (30)
        • 1.3.3.4 Cơ chế giải quyết tranh chấp tại Trọng tài đặc biệt (0)
    • 1.4 Mối quan hệ giữa các biện pháp và cơ chế giải quyết tranh chấp theo (30)
  • CHƯƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA UNCLOS 1982 VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ NÀY ĐỐI VỚI VIỆT NAM (34)
    • 2.1 Các quy định của UNCLOS 1982 về giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế về Luật biển (34)
      • 2.1.1 Tổ chức của Trọng tài quốc tế về Luật biển (34)
      • 2.1.2 Thẩm quyền của Trọng tài quốc tế về Luật biển (37)
      • 2.1.3 Thủ tục giải quyết tranh chấp của Trọng tài quốc tế về luật biển (41)
    • 2.2 Khả năng áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế về luật biển đối với Việt Nam (43)
      • 2.2.1 Mối liên hệ giữa Việt Nam với Trọng tài quốc tế về luật biển (0)
      • 2.2.2 Các tranh chấp về biển mà Việt Nam có thể áp dụng cơ chế Trọng tài quốc tế về luật biển để giải quyết (44)
      • 2.2.3 Một số vụ việc tiêu biểu về giải quyết tranh chấp biển giữa các quốc gia – những lưu ý cho Việt Nam (0)
      • 2.2.4 Đánh giá về khả năng áp dụng cơ chế Trọng tài quốc tế về luật biển đối với Việt Nam và một số kiến nghị (53)
  • KẾT LUẬN (60)

Nội dung

KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

Khái quát tranh chấp về biển

1.1.1 Khái niệm tranh chấp về biển

Trái đất có 71% bề mặt là biển, chiếm khoảng 362 triệu km², với 97,3% lượng nước là nước mặn Biển chứa nhiều tài nguyên quý giá, bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật, cùng với 90% trữ lượng dầu khí ngoài khơi nằm ở thềm lục địa Đại dương và các dải núi đại dương còn có trữ lượng quặng đa kim lớn Biển không chỉ là nguồn tài nguyên phong phú mà còn là tuyến đường giao thông quan trọng, có ý nghĩa chiến lược quân sự và an ninh quốc phòng cho các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ven biển Lịch sử cho thấy, để trở thành cường quốc, một quốc gia cần có biển Với sự phát triển của khoa học công nghệ, việc khai thác biển ngày càng gia tăng, dẫn đến mối quan hệ giữa các quốc gia trong việc quản lý và sử dụng biển trở nên đa dạng và phức tạp hơn.

3 Nguyễn Hồng Thao(1997), Những điều cần biết về Luật biển, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.5-6

4 Nguyễn Hồng Thao(2006), Tòa án quốc tế về Luật biển, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.10

Tranh chấp về biển là một trong những loại xung đột quốc tế có khả năng dẫn đến chiến tranh và xung đột giữa các quốc gia, gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh toàn cầu.

Từ xa xưa, các quốc gia đã sử dụng sức mạnh để chiếm đoạt các vùng biển, dẫn đến nhiều tranh chấp về biển Cuộc đấu tranh cho quyền tự do đi lại và xác lập chủ quyền trên biển ngày càng trở nên căng thẳng Hiện nay, phương pháp phổ biến để giải quyết những tranh chấp này vẫn là thông qua các cuộc đàm phán.

Hiện nay, tranh chấp biển giữa các quốc gia ngày càng phức tạp, dẫn đến nỗ lực xây dựng một "Bộ luật" quốc tế về biển để quy định các biện pháp giải quyết tranh chấp Công ước Liên hợp quốc về Luật biển, được ký kết năm 1982 tại Mongtego Bay bởi 119 quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã có hiệu lực từ ngày 16 tháng 11 năm 1994 và xây dựng các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế về biển một cách tương đối hoàn chỉnh Phương thức giải quyết tranh chấp theo Công ước 1982 rất đa dạng, bao gồm thương lượng ngoại giao, hòa giải và giải quyết tranh chấp bằng con đường tài phán Để hiểu rõ hơn về tranh chấp quốc tế về biển, chúng ta cần xác định khái niệm tranh chấp, được định nghĩa trong Từ điển Black’s Law Dictionary là "sự mâu thuẫn hoặc tranh cãi, đặc biệt là một sự việc làm phát sinh một vụ kiện cụ thể" Theo Tòa án Công lý quốc tế, tranh chấp quốc tế là sự bất đồng về quy phạm pháp luật hoặc sự kiện giữa các quốc gia khi một bên đưa ra yêu cầu mà bên kia không chấp nhận hoặc chỉ chấp nhận một phần Do đó, tranh chấp quốc tế có thể hiểu là tình huống thực tế trong đó các bên có quan điểm và yêu cầu trái ngược nhau liên quan đến lợi ích của họ.

5 Nguyễn Hồng Thao(2008), Công ước Biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam – Sách tham khảo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.62

6 Bryan A Garner(2001), Black’s Law Dictionary , Second Pocket Edition, ST Paul, Minn., tr.211

7 Đại học Luật Hà Nội(2012), Giáo trình Luật quốc tế, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.398-399

8 Đại học Luật TPHCM(2013), Giáo trình Công pháp quốc tế quyển 2, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt

Tranh chấp quốc tế về biển được định nghĩa là tình huống trong đó các chủ thể của luật quốc tế có quan điểm khác nhau và xung đột liên quan đến việc xác lập và phân định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển, dựa trên các quy định của luật biển quốc tế, theo nội dung của Công ước 1982.

1.1.2 Đặc điểm tranh chấp về biển

Tranh chấp quốc tế về biển, mặc dù là một phần của tranh chấp quốc tế nói chung, nhưng lại có những đặc điểm riêng biệt Những đặc điểm cơ bản của tranh chấp này bao gồm tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều quốc gia và các yếu tố pháp lý đặc thù.

Chủ thể của tranh chấp về biển tương tự như chủ thể trong các tranh chấp quốc tế, bao gồm các quốc gia độc lập có chủ quyền, các vùng lãnh thổ và các tổ chức liên chính phủ được thành lập theo thỏa thuận giữa các quốc gia, tất cả đều phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế.

Tranh chấp quốc tế về biển chủ yếu tập trung vào vấn đề chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia trong các vùng tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Ngược lại, tranh chấp quốc tế có nội dung đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống quốc tế như thương mại, chính trị, an ninh quốc phòng, lãnh thổ và biên giới quốc gia.

Tranh chấp quốc tế về biển chủ yếu xoay quanh việc thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia Do đó, khách thể chính của những tranh chấp này là các quyền liên quan đến chủ quyền và quyền tài phán trên biển của từng quốc gia.

1.1.3 Phân loại tranh chấp về biển và phạm vi các loại tranh chấp về biển được giải quyết theo UNCLOS 1982

Việc phân loại tranh chấp về biển giúp nhận diện các loại tranh chấp cụ thể và xác định thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tài phán, đặc biệt là thẩm quyền của Trọng tài Luật biển Có nhiều tiêu chí phân loại khác nhau, nhưng về lý luận, có thể dựa vào hai tiêu chí cơ bản để thực hiện phân loại này.

Dựa vào lĩnh vực tranh chấp:

- Tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia đối với vùng nội thủy, lãnh hải và chủ quyền của các đảo, quần đảo trên biển;

- Tranh chấp quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa;

Tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế biển thường liên quan đến việc khai thác và đánh bắt thủy hải sản, cũng như khai thác tài nguyên như dầu mỏ, khí đốt và khoáng sản dưới đáy biển Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến nguồn lợi kinh tế mà còn tác động đến môi trường và an ninh biển.

Tranh chấp liên quan đến việc lắp đặt và sử dụng các công trình thiết bị nhân tạo trên biển, bao gồm cáp ngầm, ống dẫn ngầm, và đảo nhân tạo, cùng với nghiên cứu khoa học đáy đại dương, đang ngày càng trở nên phổ biến Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường biển mà còn tác động đến quyền lợi và lợi ích của các quốc gia liên quan.

- Tranh chấp liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu khoa học biển như khoan thăm dò, đo đạc, khảo sát địa chất, hải lưu…;

- Tranh chấp liên quan đến bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển

Dựa vào chủ thể của tranh chấp:

Tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia, như giữa Việt Nam và Trung Quốc về quần đảo Hoàng Sa, cùng với những tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Brunei và Malaysia về quần đảo Trường Sa, đã trở thành vấn đề phức tạp trong khu vực Những xung đột này không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các quốc gia mà còn tác động đến an ninh và ổn định trong khu vực Biển Đông.

Tranh chấp giữa cơ quan quyền lực đáy đại dương và các quốc gia thành viên Công ước 1982, cùng với các thực thể khác, liên quan đến việc thực thi quyền lực của cơ quan này theo quy định tại mục 5, Phần XI của Công ước 1982.

Các tranh chấp trên biển thường rất phức tạp và không thể phân loại một cách chính xác Theo Điều 288 của Công ước 1982, thẩm quyền của các cơ quan tài phán chỉ áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước Do đó, những tranh chấp về chủ quyền vùng nội thủy, lãnh hải và các đảo sẽ không được giải quyết qua các cơ chế của UNCLOS 1982, mà cần đến các biện pháp ngoại giao cho tất cả các loại tranh chấp này.

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp về biển theo quy định của UNCLOS 1982

Khi tranh chấp quốc tế phát sinh, nhu cầu giải quyết giữa các bên liên quan trở nên cấp thiết Việc giải quyết tranh chấp, đặc biệt là về biển, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế và thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia.

Tranh chấp về biển là một loại tranh chấp quốc tế, do đó, việc giải quyết những tranh chấp này yêu cầu các bên liên quan và các cơ quan tài phán tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.

- Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế

Theo Điều 279 của Công ước 1982, các quốc gia thành viên phải giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Công ước bằng các phương pháp hòa bình Điều này cần tuân thủ khoản 3 Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc và tìm kiếm giải pháp thông qua các phương pháp được nêu trong khoản 1 Điều 33 của Hiến chương này.

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, được công nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc Nguyên tắc này được khẳng định trong Tuyên bố ngày 24-10-1970 của Đại hội Đồng Liên hợp quốc Theo Khoản 3, Điều 2 của Hiến chương, việc này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.

Các hội viên Liên hợp quốc có trách nhiệm giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa bình, nhằm bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế và công lý Điều này cho thấy rằng việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là nghĩa vụ bắt buộc của các bên liên quan Luật quốc tế nghiêm cấm các quốc gia sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong việc giải quyết các tranh chấp về biển.

Nguyên tắc tự do lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tại Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc, nhấn mạnh rằng trong mỗi vụ tranh chấp có nguy cơ kéo dài và đe dọa hòa bình, các bên liên quan phải ưu tiên tìm kiếm giải pháp hòa bình.

Theo Điều 33, khoản 1, phần XV của Công ước 1982 và Hiến chương Liên hợp quốc, các quốc gia có quyền tự do lựa chọn các phương pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bao gồm đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, và các biện pháp tư pháp khác Hội đồng Bảo an có thể yêu cầu các bên tranh chấp áp dụng các biện pháp này nếu cần thiết Điều 280 của Công ước 1982 khẳng định rằng không có quy định nào trong phần này có thể cản trở quyền của các quốc gia thành viên trong việc thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào mà họ lựa chọn.

Công ước 1982 tôn trọng quyền tự chọn cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên, cho phép họ lựa chọn từ các hiệp định chung, khu vực, song phương đã ký kết hoặc các biện pháp hòa bình khác Các bên có thể tự do quyết định biện pháp giải quyết, miễn là nó là hòa bình, và việc lựa chọn này có thể diễn ra bất kỳ lúc nào, cả trước và sau khi tranh chấp phát sinh.

Việc giải quyết tranh chấp về biển cần tuân thủ các nguyên tắc quốc tế quan trọng, bao gồm cấm sử dụng và đe dọa vũ lực, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, và tôn trọng bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia Các quốc gia cũng có nghĩa vụ hợp tác với nhau, đảm bảo quyền tự quyết cho tất cả các dân tộc, và cam kết thực hiện các nghĩa vụ quốc tế một cách nghiêm túc.

Bên cạnh việc giải quyết tranh chấp dựa trên những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, các quốc gia còn phải có nghĩa vụ:

Giải quyết tranh chấp biển cần tuân thủ nguyên tắc bảo vệ và duy trì tài nguyên biển vì lợi ích chung của nhân loại, như được quy định trong Mục 2 Phần VII của Công ước.

Năm 1982, trong quá trình giải quyết tranh chấp biển, việc lựa chọn giải pháp cần cân nhắc đến tác động đến tài nguyên biển, đặc biệt là trong những trường hợp tranh chấp cụ thể.

11 khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc

12 khoản 1 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc

13 khoản 5 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc

14 khoản 2 Điều 1 và Điều 55 Hiến chương Liên hợp quốc

Khoản 2 Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc quy định về việc sử dụng, khai thác và quản lý các vùng biển chung hoặc liền kề giữa các quốc gia Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên biển, đồng thời khuyến khích các quốc gia tuân thủ các nguyên tắc pháp lý và đạo đức khi khai thác những vùng biển này Việc thực hiện các quy định này không chỉ đảm bảo lợi ích của từng quốc gia mà còn góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực biển quốc tế.

Giải quyết tranh chấp quốc tế về biển cần phải chú trọng đến việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là môi trường biển, theo quy định tại phần XII của Công ước 1982 Do đó, việc bảo vệ môi trường biển phải được xem xét khi các bên tìm kiếm giải pháp cho tranh chấp, cũng như khi các cơ quan tài phán xem xét các vấn đề liên quan đến tranh chấp này.

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế về biển cần tôn trọng quyền lợi của các quốc gia không có biển và các quốc gia gặp bất lợi về địa lý Theo Công ước 1982, những quốc gia này được hưởng quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, quyền khai thác nguồn lợi thủy hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế, quyền đặt dây cáp hoặc ống dẫn ngầm, quyền nghiên cứu khoa học biển và lắp đặt thiết bị nhân tạo trong thềm lục địa Do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp biển, các bên liên quan và các cơ quan tài phán phải xem xét quyền lợi hợp pháp của các quốc gia này.

Các biện pháp và cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ƣớc 1982

Tranh chấp về biển là một vấn đề phức tạp, và Công ước 1982 đã đưa ra nhiều biện pháp hòa bình để các bên có thể lựa chọn trong việc giải quyết Các biện pháp này được phân thành hai nhóm chính: biện pháp ngoại giao và cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tài phán, dựa trên bản chất, thẩm quyền và thủ tục giải quyết.

1.3.1 Biện pháp đàm phán Đàm phán hay nói cách khác là thương lượng ngoại giao, là quá trình các bên tranh chấp tiến hành trao đổi, thảo luận những quan điểm, lập trường, nguyện vọng và các giải pháp để giải quyết tranh chấp sao cho càng gần với mục đích, lợi ích của các bên Khoản 1 Điều 283 Công ước 1982 quy định: “Khi có một vụ tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, các bên đương sự tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hay bằng các phương pháp hòa bình khác”

Điều 87 Phần VII Công ước 1982 quy định rằng đàm phán có thể diễn ra theo hình thức song phương hoặc đa phương, trực tiếp hoặc thông qua công hàm Ví dụ, các cuộc đàm phán giữa Malaysia và Singapore về đảo có đèn biển hay phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia Đàm phán được thực hiện bởi các đại diện chính thức của các bên ở nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Chính phủ, hoặc đại diện có thẩm quyền Các bên có thể thỏa thuận về thành phần, cấp tham gia, hình thức và mục đích của đàm phán, trong khi Công ước 1982 không quy định cụ thể về vấn đề này.

Theo Điều 283 khoản 2 Công ước 1982, đàm phán có thể là bước khởi đầu hoặc kết quả của các biện pháp giải quyết tranh chấp khác Điều này có nghĩa là các bên có thể bắt đầu giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, và nếu không thành công, họ sẽ tìm kiếm các biện pháp khác Ngược lại, nếu đã áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác và đạt được kết quả, các bên có thể tiến hành đàm phán để thực hiện phán quyết một cách hiệu quả.

Biện pháp đàm phán cần dựa trên nguyên tắc bình đẳng, với sự tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia Đồng thời, các bên tham gia cũng phải xem xét sự nhượng bộ, vì mâu thuẫn thường phát sinh từ quan điểm trái ngược Kết quả của quá trình đàm phán phải hoàn toàn tự nguyện, không được sử dụng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực để ép buộc.

Đàm phán là một biện pháp hòa bình quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp, được sử dụng rộng rãi trong lịch sử quan hệ quốc tế Phương pháp này cho phép các bên trực tiếp trao đổi và tác động đến quan điểm của nhau, từ đó tìm ra giải pháp dung hòa lợi ích và đẩy nhanh tiến độ giải quyết tranh chấp Đàm phán thường được ưu tiên lựa chọn bởi các bên trong quá trình tìm kiếm giải pháp hòa bình cho những xung đột của mình.

Cách thức tổ chức và quyết định lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các quốc gia, tạo sự linh hoạt cho các cuộc đàm phán Các bên có thể lựa chọn sử dụng song song hoặc kết hợp với các biện pháp khác Một trong những ưu điểm lớn nhất của biện pháp này là tính nội bộ, giúp hạn chế sự can thiệp của bên thứ ba, kể cả cộng đồng quốc tế.

Để đạt kết quả cao trong đàm phán, các bên cần có kế hoạch hiệu quả và phụ thuộc vào uy tín, trình độ của người tham gia Mâu thuẫn quyền lợi giữa các quốc gia nếu không được giải quyết thỏa đáng sẽ khiến đàm phán khó đạt được kết quả Các bên thường có quan điểm chủ quan, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, dẫn đến xung đột lợi ích nghiêm trọng Thêm vào đó, việc thiếu hợp tác ngay từ đầu cũng cản trở thành công của đàm phán Mặc dù đàm phán là biện pháp ưu tiên, không phải tất cả tranh chấp đều được giải quyết qua đó Đối với tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam đã xác định đàm phán là phương án ưu tiên, phù hợp với Công ước 1982 và Hiến chương Liên hợp quốc.

Hòa giải là phương pháp hòa bình hiệu quả để giải quyết tranh chấp biển, với sự tham gia của bên thứ ba nhằm hỗ trợ các bên trong việc tìm kiếm giải pháp Bản chất của hòa giải tập trung vào chính trị và thương lượng, hơn là áp dụng pháp luật, nhằm dung hòa quan điểm, quyền và lợi ích của các bên liên quan.

Theo Điều 284 Công ước 1982, các quốc gia thành viên có quyền tham gia vào các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng công ước Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tham gia của các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến luật biển.

18 Nghị quyết ngày 23-06-1994 phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

19 Ngô Hữu Phước(2013), Luật quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, tr.648

Công ước quy định rằng các bên có quyền yêu cầu hòa giải tranh chấp theo thủ tục đã được xác định, hoặc theo thủ tục khác mà các bên đồng ý Khi một bên chấp nhận yêu cầu hòa giải, bất kỳ bên nào cũng có thể đưa vụ tranh chấp ra hòa giải theo thủ tục đó Tuy nhiên, việc tham gia hòa giải hoàn toàn tự nguyện và không có ràng buộc nào giữa các bên Nếu yêu cầu không được chấp nhận hoặc không đạt được thỏa thuận về thủ tục, việc hòa giải sẽ chấm dứt Đặc biệt, theo Điều 11 Mục 2 Phụ lục V Công ước 1982, trong những trường hợp cụ thể, nếu một bên yêu cầu hòa giải, bên còn lại phải chấp nhận, tạo nên một quy định về hòa giải bắt buộc cho các tranh chấp này.

Ủy ban hòa giải được thành lập theo Phụ lục V Công ước 1982 nhằm giải quyết các tranh chấp theo yêu cầu của các bên liên quan Đây không phải là cơ quan thường trực mà là tổ chức ad hoc, có chức năng lắng nghe ý kiến của các bên, xem xét yêu sách và đưa ra đề nghị hòa giải Sau khi thành lập, Ủy ban có 12 tháng để lập báo cáo, trong đó nêu rõ thỏa thuận đạt được, theo Điều 6 Mục 1 Phụ lục V Công ước 1982 Thủ tục hòa giải do Ủy ban tự quyết định, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên Công ước cũng cho phép mời các quốc gia thành viên thứ ba tham gia góp ý Quyết định về thủ tục và báo cáo được thông qua theo đa số ý kiến của Ủy viên Quy trình hòa giải kết thúc khi tranh chấp được giải quyết hoặc khi một bên từ chối khuyến nghị của Ủy ban Các báo cáo của Ủy ban không có tính chất bắt buộc mà chỉ mang tính tham khảo, và chi phí hòa giải do các bên tranh chấp chịu.

21 Điều 4 Mục 1 Phụ lục V Công ước 1982

22 Điều 8 Mục 1 Phụ lục V Công ước 1982

Biện pháp hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba, mang lại nhiều lợi ích như giúp các bên tìm ra giải pháp hợp lý và tiết kiệm thời gian Tuy nhiên, việc có sự can thiệp của bên thứ ba cũng có thể dẫn đến một số hạn chế nhất định trong quá trình giải quyết.

Ủy ban hòa giải, với vai trò bên thứ ba, có khả năng đưa ra giải pháp, khuyến nghị, và dự thảo cho các bên tranh chấp thảo luận, đồng thời lập báo cáo gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc để ghi nhận quá trình hòa giải Thủ tục hòa giải được điều chỉnh linh hoạt tùy theo từng loại tranh chấp, và biện pháp này có thể áp dụng cho mọi tranh chấp về biển, đồng thời duy trì hòa khí, vì hoạt động hòa giải luôn hướng tới việc bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan.

Biện pháp hòa giải có một số hạn chế, khiến việc áp dụng trở nên kém hiệu quả Sự tham gia của bên thứ ba có thể làm phức tạp tình hình nếu họ can thiệp quá sâu Các Ủy viên trong Ủy ban hòa giải cần phải là những người công tâm, có uy tín và am hiểu lĩnh vực tranh chấp biển để đảm bảo các giải pháp đưa ra có tính khả thi Một hạn chế đáng lưu ý là quyết định của Ủy ban không có giá trị pháp lý, chỉ mang tính tham khảo, do đó không thể ràng buộc trách nhiệm thực hiện của các bên tranh chấp.

1.3.3 Các cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS 1982

Mối quan hệ giữa các biện pháp và cơ chế giải quyết tranh chấp theo

Công ước 1982 đã thiết lập nhiều biện pháp và cơ chế để giải quyết tranh chấp, nhưng không chỉ rõ trình tự lựa chọn phương pháp giải quyết Hơn nữa, Công ước này cũng không quy định cụ thể phương pháp nào phải được áp dụng cho từng loại tranh chấp Mục tiêu của Công ước 1982 là tạo điều kiện cho các bên liên quan tự quyết định cách thức giải quyết tranh chấp một cách linh hoạt.

34 Điều 1, Phục lục VII Công ước 1982

35 Điều 2 Phụ lục VIII Công ước 1982

Theo Ngô Hữu Phước (2006), các bên trong tranh chấp có quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết miễn là phương pháp đó hòa bình và phù hợp với thẩm quyền của cơ quan tài phán Không có quy định nào hạn chế quyền của các quốc gia thành viên trong việc thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình theo sự lựa chọn của họ Khi xảy ra tranh chấp, các quốc gia có nghĩa vụ trao đổi quan điểm để thống nhất phương thức giải quyết, đây không phải là cuộc thương lượng ngoại giao Sau khi trao đổi, các nước sẽ thống nhất biện pháp cụ thể để giải quyết tranh chấp.

Các quốc gia có quyền tự do giải quyết tranh chấp liên quan đến Công ước 1982 thông qua biện pháp ngoại giao như đàm phán và hòa giải Tuy nhiên, nếu các biện pháp này không đạt được kết quả, họ buộc phải lựa chọn một trong bốn phương thức bắt buộc để giải quyết tranh chấp: Tòa án quốc tế về Luật biển, Tòa án công lý quốc tế, Trọng tài quốc tế về Luật biển, hoặc Trọng tài đặc biệt Điều này là cần thiết do tính phức tạp của tranh chấp biển, ảnh hưởng không chỉ đến mối quan hệ giữa các quốc gia mà còn đến an ninh và hòa bình toàn cầu.

Trước khi đưa tranh chấp ra Tòa, các quốc gia thường xem xét việc tổ chức đàm phán để giải quyết vấn đề một cách hòa bình Nếu các bên đồng thuận về phương pháp hòa bình theo Công ước 1982, họ cần tiến hành giải quyết theo cách đã chọn Tuy nhiên, nếu không đạt được thỏa thuận, các thủ tục khác được quy định trong Công ước sẽ được áp dụng.

Khi cuộc đàm phán hoặc hòa giải đạt kết quả thành công nhưng một bên không thực hiện theo thỏa thuận, các quốc gia có thể áp dụng các biện pháp khác để giải quyết vấn đề.

37 Điều 280 Phần XV Công ước 1982

38 Khoản 1 Điều 283 Phần XV Công ước 1982

Theo Điều 281 Phần XV Công ước 1982, khi các quốc gia phán hoặc hòa giải thành công, họ sẽ ngừng áp dụng biện pháp đó và không chuyển sang biện pháp tài phán Nếu phương pháp đã chọn không đạt được mục đích, các quốc gia có thể lựa chọn các biện pháp hoặc cơ chế khác để giải quyết tranh chấp Mỗi cơ chế và biện pháp, đặc biệt là trong Trọng tài Luật biển, được áp dụng một cách độc lập "Độc lập" có nghĩa là chỉ khi phương pháp đã chọn không mang lại kết quả, các biện pháp khác mới được áp dụng, và không được áp dụng nhiều biện pháp cùng lúc nếu không có thỏa thuận trước.

Trọng tài Luật biển có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến Công ước 1982 nếu không có thỏa thuận khác hoặc tuyên bố loại trừ áp dụng thủ tục này Sự tồn tại của các biện pháp và cơ chế khác không làm mất quyền giải quyết của Trọng tài Trong trường hợp không có thỏa thuận về biện pháp khác ngay từ đầu, các bên không được áp dụng biện pháp khác trong quá trình trọng tài; nếu có, kết quả sẽ không có giá trị Ngược lại, nếu các bên chọn thủ tục khác thay vì Trọng tài Luật biển, thủ tục này sẽ không được áp dụng Nếu không có sự đồng thuận về thủ tục giải quyết tranh chấp, Trọng tài Luật biển sẽ là lựa chọn cuối cùng Trong trường hợp tranh chấp không thuộc thẩm quyền của các Tòa theo Công ước, Công ước khuyến khích đưa tranh chấp ra trước Ủy ban hòa giải theo Phụ lục V, vì thủ tục này có nhiều khía cạnh đạo đức và tác động tích cực đến tình hình.

Công ước 1982 đã thiết lập nhiều biện pháp và cơ chế giải quyết tranh chấp đa dạng, với mỗi cơ chế mang những đặc điểm riêng Thẩm quyền chung của các cơ quan tài phán là giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước này, tuy nhiên, cũng có một số ngoại lệ được quy định trong Công ước.

41 Trường hợp này là quay lại thủ tục hòa giải

Cuốn sách "Những điều cần biết về Luật biển" của Nguyễn Hồng Thao (1997) nêu rõ rằng có những tranh chấp không thể giải quyết thông qua hình thức tài phán Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp biển đều mang lại những lợi ích và bất lợi riêng, ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình giải quyết.

Tùy thuộc vào nội dung và hoàn cảnh của tranh chấp, các quốc gia sẽ lựa chọn biện pháp giải quyết phù hợp Đối với tranh chấp trên biển Đông của Việt Nam, việc cân nhắc thẩm quyền của từng cơ quan tài phán và tình hình thực tế là rất quan trọng, nhằm đưa ra lựa chọn chính xác và hiệu quả cao nhất.

Theo Điều 297 Công ước 1982, các tranh chấp liên quan đến nghiên cứu khoa học được quy định tại điểm a, khoản 2, trong khi tranh chấp về đánh cá được đề cập tại điểm a, khoản 3.

CÁC QUY ĐỊNH CỦA UNCLOS 1982 VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CƠ CHẾ NÀY ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Các quy định của UNCLOS 1982 về giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế về Luật biển

Trong lịch sử quan hệ quốc tế, Trọng tài đã được sử dụng từ rất sớm để giải quyết các tranh chấp giữa các chủ thể của Luật quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế Hình mẫu Trọng tài hiện đại lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiệp ước JAY giữa Mỹ và Anh vào năm 1794 Hiện nay, phương thức giải quyết tranh chấp qua Trọng tài ngày càng phổ biến và được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực Các quốc gia đã nhận ra ưu điểm của Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp, và nhiều điều ước quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước La Haye cũng đã ghi nhận phương thức này Đặc biệt, Công ước Luật biển 1982 đã thiết lập Trọng tài quốc tế về luật biển theo Phụ lục VII UNCLOS.

Trọng tài Luật biển, được áp dụng cho các tranh chấp liên quan đến Công ước 1982, được coi là biện pháp hiệu quả và công bằng nhất khi các biện pháp ngoại giao không đạt kết quả Phương thức này không chỉ sở hữu những ưu điểm nổi bật của trọng tài mà còn có những đặc trưng riêng, giúp tăng cường khả năng giải quyết tranh chấp một cách hợp lý.

2.1.1 Tổ chức của Trọng tài quốc tế về Luật biển

Trọng tài quốc tế về Luật biển là một trong bốn cơ chế giải quyết tranh chấp biển bắt buộc theo Công ước 1982 Khi gia nhập Công ước này, các quốc gia có quyền lựa chọn một hoặc nhiều cơ chế để giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng các quy định của Công ước 1982.

Bành Quốc Tuấn (2013) trong bài viết "Tòa Trọng tài thường trực Lahaye và vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam" đã phân tích vai trò của Tòa Trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, nhấn mạnh tầm quan trọng của pháp lý quốc tế trong việc bảo vệ quyền lợi của Việt Nam Bài viết được đăng trên Tạp chí Phát triển KH&CN, tập 16, số Q1/2013, trang 48.

45 Nguyễn Hồng Thao(2000), Tòa án Công lý quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.20

46 Điều 287 Phần XV Công ước 1982 chế giải quyết bằng Trọng tài luật biển sẽ là một trong những thủ tục được các bên lựa chọn

Theo Công ước 1982, bất kỳ bên nào trong tranh chấp mà không có tuyên bố ràng buộc về việc lựa chọn cơ quan giải quyết có thể đưa vụ tranh chấp ra Trọng tài luật biển Điều này được thực hiện thông qua việc thông báo cho bên kia kèm theo bản trình bày yêu sách và lý do căn cứ cho yêu sách đó Do đó, không cần sự thỏa thuận giữa các bên về cơ quan giải quyết như ICJ hay ITLOS; chỉ cần một bên khởi kiện ra Trọng tài luật biển là đủ để xác định thẩm quyền giải quyết của trọng tài.

Các quốc gia thành viên Công ước 1982 có quyền chỉ định bốn trọng tài viên có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm và nổi tiếng về sự công bằng, liêm khiết Danh sách cụ thể các trọng tài viên được chỉ định sẽ được công bố.

Bản danh sách này do Tổng thư ký Liên hợp quốc lập ra và giữ một bản 48 Công ước

Theo quy định năm 1982, Trọng tài Luật biển được thành lập nhằm giải quyết các tranh chấp với sự tham gia của 5 thành viên, gọi là các Trọng tài viên Bên nguyên đơn có quyền chọn một Trọng tài viên, có thể là công dân của nước mình, từ danh sách đã được lập.

Trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận thông báo khởi kiện từ bên nguyên đơn, bên bị đơn phải lựa chọn một trọng tài viên từ danh sách, người này có thể là công dân của quốc gia bị đơn Nếu bên bị đơn không chọn trọng tài viên trong thời hạn này, quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài Luật biển vẫn không bị ảnh hưởng Sau 30 ngày, nếu bên bị đơn vẫn không cử người, bên nguyên đơn có quyền yêu cầu cử trọng tài viên trong vòng 2 tuần tiếp theo.

Các bên đã thống nhất cử ba thành viên tiếp theo để tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, đồng thời cũng quyết định lựa chọn một Chánh tòa từ số ba thành viên này.

47 Điều 1 Phụ lục VII Công ước 1982

48 Điều 1 Phụ lục VII Công ước 1982

49 Điểm a, b Điều 3 Phụ lục VII Công ước 1982

Theo Điều 3 Phụ lục VII Công ước 1982, nếu trong vòng 60 ngày kể từ khi bên nguyên đơn thông báo về việc khởi kiện, các bên không thể thỏa thuận về việc lựa chọn trọng tài viên và cử Chánh tòa, Chánh án Tòa án quốc tế về Luật biển sẽ tiến hành chọn trọng tài viên từ danh sách có sẵn trong vòng 30 ngày, trừ khi có thỏa thuận khác Nếu Chánh án không thể thực hiện nhiệm vụ, quyền này sẽ được giao cho thành viên cao cấp nhất của Tòa án Quốc tế về Luật biển, người này không phải là công dân của các bên tranh chấp Ba trọng tài viên, bao gồm Chánh tòa, phải có quốc tịch khác nhau và không cư trú thường xuyên tại quốc gia tranh chấp Công ước cũng quy định việc bổ nhiệm người thay thế trong trường hợp có ghế trống, nhằm đảm bảo quy trình lựa chọn trọng tài viên diễn ra công bằng và hiệu quả nhất.

Theo Công ước 1982, các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên, và việc không chọn trọng tài viên không làm mất hiệu lực của quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài Việc lựa chọn trọng tài viên mang lại những lợi ích chung của thủ tục trọng tài, và nếu cần thiết, các bên có thể dễ dàng và nhanh chóng thay đổi trọng tài viên.

Mặc dù các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trọng tài viên là công dân của nước mình, điều này có thể ảnh hưởng đến tính khách quan trong xét xử do sự chi phối của lợi ích quốc gia Tuy nhiên, việc mỗi bên có quyền chọn một thành viên cũng thể hiện sự cân bằng giữa các quốc gia Trọng tài viên là những người trực tiếp xét xử và đưa ra phán quyết cuối cùng, do đó, quy định về việc thành lập trọng tài và lựa chọn trọng tài viên trong Công ước 1982 được thiết lập một cách hợp lý và rõ ràng.

51 Điểm e Điều 3 Phụ lục VII Công ước 1982

52 Điểm e Điều 3 Phụ lục VII Công ước 1982

53 Điểm f Điều 3 Phụ lục VII Công ước 1982

54 Điểm h Điều 3 Phụ lục VII Công ước 1982

 Trụ sở Trọng tài Quốc tế về Luật biển

Trọng tài quốc tế về Luật biển không có trụ sở chính, nhưng khi các thành viên được lựa chọn đầy đủ, tổ Trọng tài năm thành viên sẽ họp và xét xử tại các địa điểm phù hợp Chẳng hạn, trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc, Bộ ngoại giao Philippines đã thông báo rằng Tòa án trọng tài thường trực ở The Hague, Hà Lan, được chỉ định làm nơi diễn ra xét xử Tòa trọng tài thường trực La Haye (Permanent Court of Arbitration - PCA) là cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế được thành lập theo Công ước La Haye 1907, và nhiều vụ tranh chấp theo phụ lục VII của Công ước Luật biển 1982 hiện nay được giải quyết dưới sự bảo trợ của PCA Do đó, Philippines đã yêu cầu PCA thành lập Hội đồng trọng tài để xử lý tranh chấp, khẳng định rằng mặc dù không có trụ sở chính, các phiên xét xử tranh chấp thường diễn ra tại PCA.

2.1.2 Thẩm quyền của Trọng tài quốc tế về Luật biển

 Căn cứ xác lập thẩm quyền

Trọng tài Luật biển được quy định bởi phần XV về giải quyết tranh chấp và Phụ lục VII của Công ước 1982, với thẩm quyền trong các trường hợp cụ thể.

Khi phê chuẩn Công ước 1982, các quốc gia cam kết rằng việc giải quyết tranh chấp sẽ được chuyển giao cho Trọng tài quốc tế về luật biển, điều này tạo nền tảng vững chắc cho việc xác lập thẩm quyền của cơ quan này.

Khả năng áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế về luật biển đối với Việt Nam

2.2.1 Mối liện hệ giữa Việt Nam với Trọng tài quốc tế về Luật biển

Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam khóa IX đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, chính thức gia nhập Công ước Việt Nam cam kết tuân thủ các quy định của Công ước 1982 theo nguyên tắc Pacta Sunt Servanda, thể hiện quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, thúc đẩy phát triển và hợp tác trên biển.

Dựa trên Công ước 1982 và quy định pháp lý của Việt Nam, nước này có các vùng biển nội thuỷ, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, với chủ quyền và quyền tài phán quốc gia rõ ràng Việt Nam có cơ hội mở rộng các vùng đặc quyền kinh tế và phát triển kinh tế biển, đồng thời thúc đẩy giao thông vận tải biển Xu hướng tiến ra biển không chỉ tăng cường hợp tác giữa các quốc gia mà còn tạo ra nhiều tranh chấp biển, yêu cầu giải quyết chủ động Theo Công ước 1982, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc.

Việt Nam, với tư cách là thành viên của Công ước 1982, có trách nhiệm giải quyết tranh chấp biển thông qua biện pháp ngoại giao Nếu biện pháp này không đạt được kết quả, một bên tranh chấp có thể yêu cầu đưa vụ việc ra các cơ quan tư pháp có thẩm quyền, bao gồm cả việc lựa chọn sử dụng Trọng tài quốc tế về Luật biển.

Theo Nghị quyết 1994 của Quốc hội, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước 1982 nhưng không chọn bất kỳ thủ tục giải quyết bắt buộc nào theo Điều 287 của Công ước này Do đó, Việt Nam có quyền tuyên bố về sự lựa chọn của mình vào bất kỳ thời điểm nào.

71 Nguyễn Hồng Thao(2008), Công ước biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Theo Điều 287 Công ước 1982, Việt Nam có quyền lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp, bao gồm cả Trọng tài Luật biển Trong trường hợp xảy ra tranh chấp mà các bên chưa thống nhất về cơ chế giải quyết, thủ tục Trọng tài Luật biển sẽ tự động được áp dụng Với sự gia tăng hoạt động trên Biển Đông hiện nay, nguy cơ tranh chấp trên biển ngày càng cao, điều này có thể dẫn đến khả năng các quốc gia tranh chấp với Việt Nam đưa ra Trọng tài Luật biển.

2.2.2 Các tranh chấp về biển mà Việt Nam có thể áp dụng cơ chế Trọng tài quốc tế về Luật biển để giải quyết

Biển Đông là một biển nửa kín, kéo dài từ vĩ độ 3 độ Bắc đến 26 độ Bắc và từ kinh độ 100 độ đến 121 độ kinh Đông, được bao quanh bởi các quốc gia như Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei và Philippines Đây là vùng biển nhộn nhịp thứ hai thế giới, chỉ sau Địa Trung Hải, và chiếm khoảng 30% lưu lượng tàu hoạt động trên các vùng biển toàn cầu.

Tuyến hàng hải và hàng không chiến lược này kết nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, đồng thời liên kết châu Âu, Trung Đông với châu Á và giữa các quốc gia châu Á, đóng vai trò quan trọng trong thương mại toàn cầu.

Việt Nam, một quốc gia ven biển với bờ biển dài hơn 3.260 km và khoảng 3.000 hòn đảo, có hai vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia là nội thủy và lãnh hải, cùng ba vùng biển khác thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán Vùng biển Việt Nam không chỉ giàu tài nguyên thiên nhiên mà còn là khu vực kinh tế phát triển năng động, thu hút đầu tư từ thị trường toàn cầu Địa vị chiến lược về địa – chính trị và địa – kinh tế của Việt Nam được củng cố qua các quy định của Công ước Luật biển năm 1982, ảnh hưởng đến các yêu sách biển và mở rộng vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia.

73 Ngô Hữu Phước - Lê Đức Phương(2011), Hỏi đáp về chủ quyền biển đảo trong Luật quốc tế và pháp luật Việt

Nam, NXB Lao động, tr.52

74 Nguyễn Ngọc Tường(2014), Vấn đề Biển Đông, NXB Chính trị quốc gia, tr.34

75 Ngô Hữu Phước - Lê Đức Phương(2011), Hỏi đáp về chủ quyền biển đảo trong Luật quốc tế và pháp luật Việt

Nam, NXB Lao động, tr.52

Biển Đông có một số vấn đề tranh chấp về vùng chồng lấn trên biển cần được giải quyết

Việt Nam, với tinh thần yêu chuộng hòa bình, luôn nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp của mình Nước này đã đạt được một số thành công qua các cuộc đàm phán, như việc ký kết Hiệp định phân định ranh giới biển với Thái Lan năm 1997, Indonesia năm 2003 và Trung Quốc năm 2000, cũng như Tuyên bố DOC với ASEAN – Trung Quốc năm 2012 Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều tranh chấp biển chưa được giải quyết, mặc dù đã áp dụng biện pháp đàm phán.

Trung Quốc và Việt Nam đã trải qua nhiều tranh chấp trên Biển Đông, với Trung Quốc thể hiện tham vọng bành trướng lãnh thổ, gây ra những xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền của Việt Nam.

Vào ngày 07/05/2009, Trung Quốc đã gửi công hàm tới Tổng thư ký Liên hợp quốc, kèm theo một bản đồ thể hiện 9 đoạn đứt khúc, hay còn gọi là "đường chữ U".

Vào ngày 26/6/2014, Trung Quốc đã công bố bản đồ mới với đường 10 đoạn, chiếm hơn 90% diện tích Biển Đông, nhằm phản đối Việt Nam nộp Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa theo UNCLOS 1982 Trong công hàm, Trung Quốc khẳng định "có chủ quyền không thể tranh cãi" đối với Biển Đông và các vùng nước lân cận, nhưng chưa bao giờ làm rõ cơ sở pháp lý cho các yêu sách này Sự thiếu nhất quán trong việc thay đổi từ đường 9 đoạn sang đường 10 đoạn, cùng với các hành động gây hấn gia tăng, đã tạo nên một yêu sách mập mờ, không có cơ sở pháp lý và tọa độ chính xác.

76 Công hàm số CML/17/2009 của Trung Quốc, http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/mysViệtNam3309/chn2009re_mysViệNamme.pdf

Tình hình Biển Đông đang trở nên căng thẳng do những hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của nhiều quốc gia trong khu vực Trung Quốc, với mục tiêu bành trướng ra Biển Đông qua đường lưỡi bò, đã tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn thuộc về Việt Nam.

Trung Quốc tiếp tục thực hiện yêu sách của mình bằng cách xây dựng trái phép các bãi cạn trên quần đảo Trường Sa, mà nước này đã xâm lược của Việt Nam từ năm 1988, bao gồm các bãi Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga ven, Tư Nghĩa và Su Bin Họ đang thay đổi hiện trạng Biển Đông thông qua việc xây dựng đảo nhân tạo, sân bay và căn cứ quân sự với mục tiêu độc chiếm khu vực này Kể từ đầu năm 2014, kế hoạch cải tạo và mở rộng quy mô lớn tại các điểm chiếm đóng trái phép đã đẩy mâu thuẫn trên Biển Đông lên một giai đoạn phức tạp và khó lường hơn.

Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông, điển hình là việc tàu Hải giám quấy nhiễu và cắt cáp tàu Bình Minh khi đang thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào ngày 25/6/2011 Hành động này không chỉ thể hiện sự sử dụng vũ lực mà còn kèm theo những đe dọa, như các cuộc tập trận quân sự và việc đưa máy bay quân sự, tàu chiến đến giám sát khu vực tranh chấp Gần đây, tàu cảnh sát biển Trung Quốc đã tấn công tàu cứu hộ và tàu cá của ngư dân Việt Nam, cho thấy tình hình trên Biển Đông ngày càng căng thẳng.

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:13

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT - Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế về luật biển theo UNCLOS 1982 và khả năng áp dụng cơ chế này đối với việt nam
BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT (Trang 5)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w