DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG “THỰC HIỆN TỘI PHẠM MỘT CÁCH MAN RỢ” TRONG TỘI GIẾT NGƯỜI
Quy định về vấn đề dấu hiệu định khung “thực hiện tội phạm một cách man rợ” trong tội giết người theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền bất khả xâm phạm về thân thể và bảo vệ sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mọi người, đồng thời cấm mọi hình thức tra tấn và bạo lực (khoản 1 Điều 20) Để đảm bảo tính hợp hiến, Điều 123 BLHS năm 2015 quy định mức án tử hình cho tội giết người Do đó, việc nắm rõ khái niệm tội phạm là cần thiết để đảm bảo khởi tố, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội theo quy định pháp luật.
Cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý của khái niệm này chính là khoản 1 Điều
Theo Bộ luật Hình sự năm 2015, tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bao gồm các hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại Những hành vi này có thể xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cũng như xâm phạm đến chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người và quyền lợi hợp pháp của công dân Tất cả các hành vi này đều phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật.
Giết người là hành vi trái pháp luật, tước đoạt tính mạng của người khác Hành vi giết người man rợ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điểm i Khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1 Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:…
1 Khoản 1, Điều 23 Hiến pháp năm 2013
2 Khoản 1, Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;” 3
Theo Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ, tội giết người man rợ được định nghĩa là hành vi phạm tội không còn tính người, sử dụng những phương thức gây đau đớn tột độ và sự khiếp sợ cho nạn nhân, đồng thời tạo ra sự kinh hoàng trong xã hội Các hành vi cụ thể như móc mắt, xẻo thịt, moi gan hay chặt xác thành từng phần đều là ví dụ điển hình cho loại tội phạm này.
Tính chất man rợ của hành vi giết người thể hiện qua việc gây đau đớn, quằn quại cho nạn nhân trước khi chết, như mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da và tra tấn cho tới chết Những hành vi này được thực hiện trước khi nạn nhân qua đời, bởi nếu xảy ra sau khi nạn nhân đã chết, thì không còn được coi là giết người một cách man rợ.
Trong thực tiễn xét xử, các hành vi man rợ không chỉ là biểu hiện của tội phạm mà còn là phương thức để che giấu tội ác, ví dụ như việc cắt xác nạn nhân sau khi giết người để phi tang Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, chúng tôi cho rằng cần quy định những hành vi man rợ nhằm che giấu tội giết người là "phạm tội một cách man rợ" Điều này bởi vì phạm tội không chỉ bao gồm hành vi thực hiện tội ác mà còn cả hành vi che giấu, trong khi thực hiện tội phạm chỉ phản ánh những hành vi và ý thức liên quan đến cấu thành tội giết người.
Như vậy, những lý luận trên là tiền đề để hiểu thống nhất quy định của pháp luật để giải quyết trong thực tiễn được thống nhất.
Các vướng mắc trong thực tiễn xác định dấu hiệu định khung “thực hiện tội phạm một cách man rợ” trong tội giết người
“thực hiện tội phạm một cách man rợ” trong tội giết người
Hiện nay, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong việc giải quyết các vụ án liên quan đến việc xác định dấu hiệu định khung Sự đa dạng trong cách tiếp cận này có thể ảnh hưởng đến kết quả của các vụ án, do đó, cần có sự thống nhất và rõ ràng trong quy định pháp luật để đảm bảo tính công bằng và chính xác trong quá trình xét xử.
3 Điểm i khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
4 Nghị quyết Số: 04-HĐTPTANDTC/NQ Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự 1985
Trong tội giết người, hành vi "thực hiện tội phạm một cách man rợ" được xem xét một cách nghiêm túc trong hệ thống Tòa án, nơi có những quan điểm khác nhau trong quá trình xét xử Tác giả sẽ trình bày một số vụ án điển hình để minh họa cho vấn đề này.
Ví dụ thứ nhất: “Do mâu thuẫn từ trước nên đêm ngày 01/01/2018, anh
Nguyễn Văn A đã cầm rựa chặn đường và tấn công Phan Thị B Trong quá trình giằng co, Phan Thị B đã giật được rựa từ tay A và sau đó dùng rựa chém trúng vào đầu A.
A, làm anh A chết ngay tại chỗ Sau khi anh A chết, chị B dùng rựa phân xác nạn nhân A ra làm nhiều phần nhỏ rồi bỏ vào nhiều bao đem vứt vào các điểm thu gom rác ở nhiều nơi Sau đó, nhân viên gom rác phát hiện báo cáo Công an bắt giữ B để xử lý theo quy định của pháp luật Phan Thị B bị khởi tố về tội giết người và bị truy tố và xét xử theo điểm i khoản 1 Điều 123 BLHS 2015” 5
* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra:
Sau khi xét xử vụ án nêu trên có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng hành vi của Phan Thị B sau khi giết chết A, bao gồm việc phân xác thành nhiều phần nhỏ và vứt bỏ ở nhiều địa điểm thu gom rác, là “man rợ” và trái đạo đức xã hội Do đó, việc truy tố và xét xử Phan Thị B về tội giết người với tình tiết “thực hiện tội phạm một cách man rợ” theo điểm i khoản 1 Điều 123 BLHS là hoàn toàn hợp lý và tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Truy tố, xét xử Phan Thị B theo điểm i
Khoản 1 Điều 123 BLHS là không phù hợp mà cần truy tố đối với Phan Thị B về tội Giết người theo khoản 2 Điều 123 BLHS Bởi vì: Hành vi giết người “một cách man rợ” khác với các hành vi giết người bằng thủ đoạn khác quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS Hành vi giết người một cách man rợ nó không chỉ hướng đến tước đoạt mạng sống mà còn hơn thế nữa, nó làm cho người bị giết phải đau đớn, bị dày vò, chết trong sự đau khổ làm cho người khác phải rùng rợn, khiếp sợ, được thể hiện qua các hành vi như tùng xẻo, ngũ mã phanh thây, dùi lửa, tra tấn cho tới chết Các hành vi đó được người phạm tội thực hiện
Trong bài viết của Dương Phúc Trường, tác giả bàn về tình tiết thực hiện tội phạm giết người một cách man rợ, nhấn mạnh rằng hành vi phân xác của B đối với A diễn ra sau khi A đã chết Tác giả so sánh hành vi này với những hành động phi tang khác như chôn xác, ném xác xuống sông, hay đốt xác, nhằm mục đích tránh sự phát hiện và truy tìm của cơ quan chức năng Điều này cho thấy sự nghiêm trọng và tính chất man rợ của tội phạm giết người trong bối cảnh pháp luật.
B “thực hiện tội phạm một cách man rợ”, B không làm cho A phải đau đớn, dày vò… trước khi chết 6
Theo Nghị quyết số 04/HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hành vi giết người một cách man rợ được định nghĩa là hành động của kẻ phạm tội không còn tính người, sử dụng những phương thức gây đau đớn tột độ và tạo ra nỗi khiếp sợ cho nạn nhân, đồng thời gây ra sự rùng rợn trong xã hội Những hành vi này bao gồm các thủ đoạn tàn bạo như móc mắt, xẻo thịt, moi gan, hay chặt xác thành từng phần.
Hành vi "thực hiện tội phạm một cách man rợ" theo điểm i Khoản 1 Điều 123 BLH được cấu thành khi B làm cho A phải chịu đau đớn, dày vò trước khi chết Tuy nhiên, trong trường hợp này, B chỉ chém trúng đầu A, dẫn đến hậu quả A tử vong Hành vi phân xác nạn nhân A, Phan Thị cũng cần được xem xét trong bối cảnh này.
B thực hiện sau khi A đã chết với mục đích nhằm che giấu hành vi giết người của B Do đó, theo tác giả, B phạm tội theo khoản 2 Điều 123 BLHS
Trong thực tiễn xét xử, có quan điểm cho rằng hành vi phân xác nạn nhân sau khi chết nhằm che giấu tội phạm cũng được xem là “thực hiện tội phạm một cách man rợ” Mặc dù vấn đề này còn nhiều ý kiến khác nhau, cá nhân tôi cho rằng nếu coi những hành vi man rợ nhằm che giấu tội phạm giết người là hành vi giết người man rợ, thì cần xem xét điều luật quy định về tình tiết “phạm tội một cách man rợ” Điều này liên quan đến điểm i khoản 1 Điều 123 BLHS, mô tả hành vi khách quan và ý thức chủ quan của người phạm tội, đồng thời cần xem xét tính chất nguy hiểm của hành vi trước khi nạn nhân chết, tạo ra vướng mắc trong vụ án này.
Trong luận văn này, tác giả phân tích các vụ án đã được xét xử theo Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 để làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ Sự tương đồng giữa BLHS năm 2015 và BLHS năm 1999 trong các dấu hiệu này cho thấy tính nhất quán trong quy định pháp luật.
7 Nghị quyết số 04/HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Vụ án giết người và cướp tài sản liên quan đến hai bị cáo Trần Nhật Duy (22 tuổi) và Đặng Gia Linh (24 tuổi), đều cư trú tại Gò Công, Tiền Giang, đã bước vào phiên tòa thứ tư Phiên tòa này được mở theo đơn kháng nghị của VKSND TP.HCM nhằm tăng hình phạt từ chung thân lên tử hình đối với Trần Nhật Duy, cùng với đơn kháng cáo của gia đình nạn nhân yêu cầu thay đổi tội danh của Đặng Gia Linh từ tội che giấu tội phạm sang tội giết người.
Nội dung vụ án như sau:
Theo bản án sơ thẩm, Duy và Tuấn có mối quan hệ đồng tính từ năm 2011 tại Tiền Giang Sau khi Duy đậu đại học và chuyển lên Sài Gòn, Tuấn thường xuyên ngăn cấm và đe dọa Duy khi anh quen biết người khác, dẫn đến ý định giết Tuấn Đầu năm 2014, Duy đã tìm mua 200gr thuốc độc qua mạng với giá 800.000 đồng và chờ cơ hội để thực hiện kế hoạch Mặc dù Linh đã cố gắng ngăn cản Duy, nhưng anh không nghe Vào giữa tháng 5, Duy đã nấu mì và cho thuốc độc vào, nhưng Tuấn chỉ ăn được một đũa rồi ói và bỏ đi.
Kế hoạch của Duy đã thất bại khi vào tối 19/5/2014, anh ta đã đưa thuốc độc cho Tuấn khiến nạn nhân bất tỉnh và sau đó chết Ngày hôm sau, Duy bình thường đi học rồi về phòng trọ để tìm cách phi tang xác Anh ta đã bán điện thoại và xe của Tuấn được gần 10 triệu đồng và cùng bạn gái Đặng Gia Linh phân xác nạn nhân, mang đi chôn giấu ở Long An, Bình Thuận Tuy nhiên, phần thi thể còn lại đã phân hủy và bốc mùi, khiến người dân phát hiện và báo công an Ngày 24/5/2014, khi Duy và Linh đang trên đường về quê thì bị bắt giữ.
Trong bài viết này, tác giả phân tích các vụ án đã được xét xử theo Bộ luật Hình sự năm 1999 để làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ, cho thấy sự tương đồng giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 và năm 1999.
Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự dấu hiệu định
Các vụ án được đề cập ở mục 1.2 cho thấy sự khác biệt trong nhận thức pháp luật, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa đồng nhất Nguyên nhân chính là do hành vi “thực hiện tội phạm một cách man rợ” hiện chưa có hướng dẫn cụ thể, vẫn giữ nguyên nội dung tại điểm i khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) Thêm vào đó, sự khác biệt về năng lực và trình độ của người tiến hành tố tụng cũng góp phần vào việc hiểu và áp dụng pháp luật một cách không thống nhất.
Theo tác giả, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn về hành vi “thực hiện tội phạm một cách man rợ”, tương tự như Nghị quyết số 04/HĐTPTANDTC/NQ ban hành ngày 29/11/1986.
Tài xế cố tình cán chết nam sinh đã bị tuyên án 12 năm tù, theo thông tin từ bài viết của Tiến Hiệp và Văn Dũng Vụ việc thu hút sự chú ý của dư luận và được đăng tải trên Dân trí, nhấn mạnh tính nghiêm trọng của hành vi này trong bối cảnh an toàn giao thông Quyết định án phạt nhằm răn đe và bảo vệ quyền lợi của nạn nhân.
Trong bài viết này, tác giả phân tích các vụ án đã được xét xử theo Bộ luật Hình sự năm 1999 để làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ, cho thấy sự tương đồng giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 và năm 1999.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh sự cần thiết phải áp dụng pháp luật một cách thống nhất Để nâng cao nhận thức cho những người tiến hành tố tụng, cần tổ chức các Hội nghị tập huấn về hành vi này.
Hành vi giết người man rợ được quy định nhằm nhấn mạnh tính nguy hiểm cao hơn so với các hành vi giết người khác, không chỉ ở hậu quả mà còn ở bản chất và thái độ của người thực hiện Những hành vi này không chỉ đơn thuần là tước đoạt mạng sống mà còn gây ra nỗi đau, sự dày vò cho nạn nhân, với những cách thức tàn bạo như tùng xẻo hay ngũ mã phanh thây Do đó, tính nguy hiểm của hành vi giết người man rợ ở mức độ cao hơn, cần được ngăn chặn và chịu các chế tài nghiêm khắc hơn.
Hành vi giết người man rợ thường gây tranh cãi và phụ thuộc vào thời điểm nạn nhân chết Để xác định tính chất man rợ của hành vi, cần làm rõ rằng hành vi đó dẫn đến cái chết của nạn nhân, không phải là hành vi xử lý thi thể sau khi nạn nhân đã chết Việc xác định thời điểm tử vong trong thực tế xét xử rất khó khăn, thường chỉ dựa vào lời khai của nạn nhân, người bị cáo buộc và nhân chứng.
Tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến dấu hiệu định khung "thực hiện tội phạm một cách man rợ" trong tội giết người Những giải pháp này nhằm tăng cường tính chính xác và công bằng trong việc xử lý các vụ án giết người, từ đó nâng cao hiệu quả của hệ thống pháp luật hình sự.
Tòa án nhân dân Tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn để áp dụng thống nhất tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người, cụ thể là trường hợp "thực hiện tội phạm một cách man rợ".
Theo phân tích trong Luận văn, những hành vi man rợ của người phạm tội thường diễn ra trước khi nạn nhân chết Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều vụ án xảy ra sau khi đã giết người, kẻ phạm tội còn chặt xác nạn nhân thành nhiều phần và vứt đi để phi tang Các hành vi này được nhiều địa phương xem là man rợ, không chỉ là thực hiện tội phạm mà còn nhằm che giấu tội ác, thể hiện sự thực hiện tội phạm một cách man rợ.
Nghị quyết số 04 ngày 29/11/1986 của HĐTP TAND tối cao là văn bản duy nhất hướng dẫn về tội giết người man rợ, nhưng không còn phù hợp với các yếu tố mới trong xã hội hiện nay Do đó, cần thiết phải ban hành một văn bản hướng dẫn mới để đảm bảo áp dụng thống nhất các tình tiết liên quan đến tội phạm này.
Theo tác giả, nếu xem những hành vi man rợ nhằm che giấu tội giết người cũng là "thực hiện tội phạm một cách man rợ", thì cần quy định trường hợp này là "Phạm tội một cách man rợ" Điều này bởi vì phạm tội không chỉ bao gồm hành vi che giấu mà còn mô tả các hành vi khách quan và ý thức chủ quan trong cấu thành tội giết người.
Nghị quyết số 4/HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Nghị quyết hướng dẫn mới
Hành vi giết người man rợ thể hiện sự tàn ác của kẻ phạm tội, khi họ sử dụng những phương thức gây đau đớn tột cùng và khủng khiếp cho nạn nhân Những hành động như móc mắt, xẻo thịt, moi gan hay chặt xác thành từng khúc không chỉ gây khiếp sợ cho nạn nhân mà còn tạo ra nỗi ám ảnh trong xã hội.
Hành vi giết người man rợ (điểm i) bao gồm việc làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại cho đến chết, như mổ bụng, moi gan, tra tấn, chặt tay chân, rút gân, móc mắt, và sau khi giết, còn chặt xác để phi tang Những hành động này không chỉ gây ra nỗi đau khổ cho nạn nhân mà còn tạo ra sự phẫn nộ trong dư luận, khiến mọi người cảm thấy sợ hãi trước sự tàn bạo, dã man của tội phạm.
Cần tổ chức các hội nghị tập huấn nhằm nâng cao nhận thức cho những người tiến hành tố tụng về hành vi “thực hiện tội phạm một cách man rợ” trong tội giết người, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015.
DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG “CÓ TÍNH CHẤT CÔN ĐỒ”
Quy định pháp luật hình sự về vấn đề dấu hiệu định khung “có tính chất côn đồ” trong tội giết người Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
"Côn đồ" được định nghĩa là những kẻ chuyên gây rối, hành hung và có hành động thô bạo, thể hiện sự coi thường pháp luật và người khác Những người này thường xuyên phá rối trật tự xã hội, sẵn sàng sử dụng bạo lực để uy hiếp người khác, thậm chí chỉ vì những lý do rất nhỏ nhặt Hành động của côn đồ thường xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng và danh dự của người khác, như trong trường hợp va chạm giao thông, nơi mà họ có thể gây sự hoặc tấn công người khác chỉ vì một nguyên cớ không đáng có.
Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995 đã giải thích rằng hành động "có tính chất côn đồ" là biểu hiện của những người coi thường pháp luật, thường xuyên gây rối trật tự công cộng, sẵn sàng sử dụng vũ lực để đe dọa người khác, và có thể gây ra những hành vi bạo lực như đâm chém hay giết người chỉ vì những lý do nhỏ nhặt, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và danh dự của người khác.
Theo điểm c khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự 2015, nguyên tắc xử lý nghiêm trị những người chủ mưu, cầm đầu và có hành vi côn đồ Trong bối cảnh này, "côn đồ" được hiểu là những cá nhân coi thường pháp luật, thường xuyên gây gổ và xâm phạm tính mạng, danh dự, sức khỏe của người khác Điều này cho thấy sự phân biệt giữa những kẻ có bản chất côn đồ và những người phạm tội với tính chất côn đồ, nhấn mạnh sự nghiêm khắc trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Kết luận của Chánh án TAND tối cao tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995 nhấn mạnh rằng, theo quy định của pháp luật hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và định khung hình phạt cần được xem xét cẩn trọng khi quyết định hình phạt Do đó, việc áp dụng điểm c khoản 1 Điều 3 BLHS 2015 không nên thực hiện, nhằm thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật đồng thời bảo đảm tính nhân đạo và khoan hồng trong lĩnh vực hình sự.
Giết người là hành vi trái pháp luật tước đoạt tính mạng của người khác Hành vi giết người có tính chất côn đồ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.
1 Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
……… n) Có tính chất côn đồ;” 15
Giết người có tính chất côn đồ là hành vi phạm tội mà người thực hiện thể hiện sự coi thường nghiêm trọng các quy tắc xã hội, với những hành động ngang ngược và vô cớ Họ có thể cố tình sử dụng những lý do nhỏ nhặt để biện minh cho việc giết người, cho thấy sự tàn nhẫn và thiếu nhân tính trong hành động của mình.
Việc xác định giết người có tính chất côn đồ không phải lúc nào cũng đơn giản, đặc biệt so với các trường hợp giết người khác theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự Thực tế cho thấy, nhiều vụ án giết người không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự vẫn bị các Toà án xác định là giết người côn đồ, dẫn đến việc áp dụng không chính xác các quy định pháp luật Nhiều bản án đã bị kháng nghị hoặc sửa đổi do xác định sai tình tiết này, cho thấy đây là một vấn đề phức tạp với nhiều ý kiến trái chiều và chưa được tổng kết kinh nghiệm xét xử một cách đầy đủ, ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn.
15 Khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2017)
Khi xác định tính chất côn đồ trong trường hợp giết người, cần có cái nhìn toàn diện thay vì chỉ tập trung vào nhân thân, địa điểm, hoặc hành vi cụ thể của tội phạm Việc đâm nhiều nhát dao vào nạn nhân có thể được coi là côn đồ, nhưng một nhát đâm trúng tim gây chết ngay cũng có thể mang tính chất này Quan trọng là phải xem xét mối quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân, thái độ của người phạm tội khi thực hiện hành vi, cũng như nguyên nhân dẫn đến vụ giết người.
Các vướng mắc trong thực tiễn xác định dấu hiệu định khung “có tính chất côn đồ” trong tội giết người
Hiện nay, việc giải quyết các vụ án liên quan đến xác định dấu hiệu định khung vẫn gặp nhiều quan điểm khác nhau Sự đa dạng trong cách tiếp cận này ảnh hưởng đến tính nhất quán và hiệu quả của quá trình xét xử.
Trong tội giết người, khái niệm "có tính chất côn đồ" thường được hiểu một cách định tính, nhưng chưa có quy định rõ ràng, dẫn đến sự nhầm lẫn giữa người phạm tội và hành vi phạm tội Việc thiếu hướng dẫn thống nhất về cách hiểu "có tính chất côn đồ" đã gây ra nhiều khó khăn trong quá trình xét xử, đặc biệt là trong hệ thống Tòa án, nơi có những quan điểm khác nhau Bài viết sẽ trình bày một số vụ án điển hình để minh họa cho vấn đề này.
Vụ án thứ sáu: Vụ án “Giết người” đối với bị cáo Nguyễn Văn H, sinh năm 1977; trú tại phố A, thị trấn C, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế
Vào khoảng 08h ngày 13-01-2015, xảy ra xô xát giữa các con của ông Dương Quang Q và ông Dương Quang H cùng Nguyễn Văn H do mâu thuẫn trong sinh hoạt Các con của ông Q đã dùng tay, chân tấn công ông H, gây ra những vết xây xát nhẹ Khi biết tin, Nguyễn Văn H đã gọi điện cho Trần Quang V, con rể của ông H, thông báo về sự việc Trần Quang V ngay lập tức từ Hà Tĩnh trở về Thừa Thiên Huế và rủ Phạm Nhật T cùng đi đánh ông Q Trước khi đi, V và T đã chuẩn bị hai cây mã tấu để mang theo Vào khoảng 16 giờ ngày 19-01-2015, V chở T đến thị trấn Lăng Cô và gọi điện cho ông H đến quán nhậu Tại đây, ông H cho biết ông bị đánh rất đau, và V đã hỏi về địa chỉ cũng như đặc điểm nhận dạng của ông Q.
“Tý nữa nhậu xong tau với mi đi đánh lại”, H nói “Nếu đánh thì đánh dằn mặt thôi” Sau đó, H về trước, V và T vẫn tiếp tục nhậu
Khoảng 17 giờ 45 phút, khi đang thanh toán tiền, Trần Quang V nói với Phạm Nhật T “Có gì tao vào đánh, người dân ra thì mi chặn lại”, T đồng ý và lên xe máy để V chở đến nhà ông Q Sau khi chạy vòng quanh nhà ông Q, biết ông Q không có ở nhà, V dừng xe ở một chỗ vắng người, lấy vải nilon che biển số xe rồi chở T đi lên cầu Lăng Cô đứng đợi Đến khoảng 18 giờ, V chở T vòng xe quay lại đến trước nhà ông Q và nhìn thấy ông Q đang cúi người mở cổng V dừng xe mở túi vợt cầu lông lấy ra 01 cây mã tấu có lưỡi hình răng cưa rồi chạy đến chém liên tiếp vào đầu, mặt, lưng, chân và tay ông Q làm ông Q bị ngã gục xuống đất Do nhiều người dân xung quanh nhìn thấy hô hoán và chạy đến nên T cầm mã tấu đe dọa, ngăn chặn tạo điều kiện cho V chạy đến chỗ để xe máy và nổ máy tẩu thoát Khi đến gần đèo Phú Gia, V gọi điện thoại cho H hỏi về tình trạng thương tích của ông Q H hỏi lại V “Thế em có chém ông Q không? Ông Q đi Bệnh viện rồi” Gọi điện thoại cho H xong V gọi điện cho Dương Quang L nói
V vừa thông báo cho L rằng anh vừa chém ông Q và nhờ L cất giấu 02 cây mã tấu Sau khi L đứng đợi V và T, T đã đưa cho L túi đựng 02 cây mã tấu để L cất giấu V sau đó chở T về nhà và cùng nhau uống bia L đã đưa túi mã tấu về nhà nhờ ông Dương Quang H cất hộ, và ông H đã mang túi này sang nhà bếp của ông Hồ T để giấu kín Ông Dương Quang Q được người dân phát hiện và đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện thành phố Đà Nẵng, nơi ông được điều trị cho đến khi xuất viện vào ngày 03-02-2015.
Tuy nhiên, vụ án này có nhiều quan điểm khác nhau:
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2016/HSST ngày 23-5-2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định xử phạt Nguyễn Văn H với tội danh “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93.
16 Xem: Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2016/HSST ngày 23-5-2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã ra Bản án hình sự phúc thẩm số 217/2016/HSPT vào ngày 02-8-2016, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H Theo đó, bị cáo Nguyễn Văn H bị xử phạt theo khoản 2 Điều 104 về tội “Cố ý gây thương tích”.
Ngày 06 tháng 11 năm 2018, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 269/QĐ-CA, hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 2107/2016/HSPT của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, liên quan đến tội danh và hình phạt đối với Nguyễn Văn H Vụ án đã được chuyển cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để tiến hành xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.
Tòa án nhân dân tối cao xác nhận rằng bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đối với Nguyễn Văn H, người đồng phạm với Trần Quang V và Phạm Nhật T về tội “Giết người”, là có căn cứ Tuy nhiên, việc kết án Nguyễn Văn H theo điểm n khoản vẫn cần được xem xét lại.
Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết "Có tính chất côn đồ" không phù hợp trong vụ án này, vì Trần Quang V và Phạm Nhật T chỉ là những người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q Họ đã sử dụng mã tấu chém nhiều nhát vào các vùng trọng yếu trên cơ thể ông Q chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt với các con của ông Do đó, hành vi phạm tội chỉ thuộc về V và T.
Nguyễn Văn H không trực tiếp tham gia vào việc đánh ông Q, mà chỉ hỗ trợ cho V và T trong hành động này Do đó, hành vi của H không được coi là "có tính chất côn đồ", mà chỉ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
93 Bộ luật Hình sự năm 1999
* Nhận xét, đánh giá và vướng mắc đặt ra:
Trong trường hợp đồng phạm tội giết người, người thực hành sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh "Giết người" kèm theo tình tiết định khung "Có tính chất côn đồ" Đồng thời, người xúi giục cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.
Hành vi "giết người" không bị áp dụng tình tiết định khung "có tính chất côn đồ" do sự không rõ ràng trong việc xác định dấu hiệu này theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Hình sự năm 1999 có những điểm khác biệt, đặc biệt là trong Khoản 2 Điều 93 của Bộ luật 1999 và Khoản 2 Điều 123 của Bộ luật 2015, dẫn đến nhiều nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật.
Nhận thức về dấu hiệu "có tính chất côn đồ" còn mơ hồ, dẫn đến sự nhầm lẫn với tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS 1999.
Bản án số: 395/2017/HS-PT ngày 26-7-2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh
Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự dấu hiệu định khung “có tính chất côn đồ” trong tội giết người
Mục 2.2 của Luận văn đã chỉ ra các vướng mắc trong thực tiễn xác định dấu hiệu định khung “có tính chất côn đồ” trong tội giết người
Các vướng mắc trong việc xác định dấu hiệu "có tính chất côn đồ" trong tội giết người xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau Những lý do này bao gồm sự thiếu rõ ràng trong quy định pháp luật, sự khác biệt trong cách hiểu và áp dụng của các cơ quan chức năng, cũng như sự phức tạp trong tình huống thực tiễn của từng vụ án.
Hiện nay, vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết về dấu hiệu định khung "có tính chất côn đồ" trong tội giết người, điều này dẫn đến sự lúng túng trong việc xác định dấu hiệu này.
Năng lực và trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng có thể ảnh hưởng đến cách hiểu khác nhau về dấu hiệu “có tính chất côn đồ” trong tội giết người, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đồng nhất.
Dựa trên nguyên nhân của những vướng mắc đã nêu, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể để xác định chính xác dấu hiệu định khung “có tính chất côn đồ” trong tội giết người.
Kiến nghị Tòa án nhân dân Tối cao ban hành văn bản hướng dẫn về các tình tiết "phạm tội có tính chất côn đồ" theo quy định tại d khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự và "có tính chất côn đồ" theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về 02 tình tiết này:
Quan điểm thứ nhất cho rằng “phạm tội có tính chất côn đồ” xảy ra khi người phạm tội coi thường quy tắc xã hội, thể hiện hành vi ngang ngược và càn quấy Họ bất chấp sự can ngăn của người khác và thường chỉ vì những nguyên cớ nhỏ nhặt mà cố tình gây sự để thực hiện hành vi phạm tội.
Quan điểm này tương đồng với cách hiểu được nêu trong Công văn số 38/NCPL ngày 06-01-1976 của Tòa án nhân dân tối cao và Kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1995 Điều này cũng phản ánh quan điểm của Viện phúc thẩm 2 Viện kiểm sát nhân dân tối cao, được khẳng định tại Tọa đàm khoa học nghiệp vụ với các Viện kiểm sát khu vực Tây Nguyên.
Có quan điểm cho rằng côn đồ là những kẻ chuyên gây sự và hành hung, với tội phạm có tính chất côn đồ được xác định là do nguyên cớ do chính họ gây ra Sự phân biệt giữa “côn đồ” và “có tính chất côn đồ” là cần thiết, và việc áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ” hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi mà người phạm tội đã thực hiện Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá xem hành vi đó có mang tính chất côn đồ hay không.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, cho rằng thuật ngữ “côn đồ” theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa là “kẻ chuyên gây sự, hành hung”, phản ánh bản chất của chủ thể chứ không chỉ hành vi Qua phân tích các tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ” tại điểm d khoản 1 Điều 52 BLHS và “có tính chất côn đồ” tại Điều 123, nhận thấy cả hai đều chỉ hành vi vi phạm quy định của BLHS, không chỉ tập trung vào cá nhân thực hiện hành vi Do đó, cần hiểu “côn đồ” như một thuộc tính, thể hiện tính nguy hiểm của hành vi phạm tội đã xảy ra.
Trong khoa học luật hình sự, nhân thân người phạm tội được xem xét ở nhiều mức độ khác nhau và có thể ảnh hưởng đến việc định tội, khung hình phạt cũng như tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Nhân thân có thể làm cho hành vi phạm tội trở nên nguy hiểm hơn, tuy nhiên, mỗi người chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của chính mình Nếu hành vi đó gây nguy hiểm cho xã hội, Nhà nước sẽ lên án ở các mức độ khác nhau Trong các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 BLHS, chỉ có tình tiết “tái phạm, tái phạm nguy hiểm” liên quan đến nhân thân, xuất phát từ việc người phạm tội đã thực hiện hành vi bị xác định là tội phạm và tiếp tục tái phạm Các tình tiết tăng nặng khác liên quan đến hành vi cụ thể mà người phạm tội đang bị xử lý, do đó, các yếu tố nhân thân chỉ được xem xét độc lập khi quyết định hình phạt hoặc điều chỉnh mức độ tăng nặng cho mỗi hành vi.
Xét về mặt định tội và định khung, nhân thân của người phạm tội chỉ liên quan đến hành vi mà họ đã thực hiện hoặc đang thực hiện, tức là những hành vi đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tương tự như tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 BLHS và tính chất "côn đồ" theo Điều 123 chỉ được áp dụng khi hành vi phạm tội có tính chất côn đồ, tức là do nguyên cớ nhỏ nhặt, vô lý từ chính bản thân người phạm tội Cần phân biệt rõ giữa côn đồ với hành vi phạm tội, vì không phải mọi hành vi đều có tính chất côn đồ giống nhau; mức độ nguy hiểm của hành vi côn đồ do kẻ côn đồ gây ra thường cao hơn so với hành vi do người tuân thủ pháp luật thực hiện.
Dựa trên các phân tích, chúng tôi cho rằng khi đánh giá tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "phạm tội có tính chất côn đồ", cần xem xét hành vi cụ thể Yếu tố chủ thể chỉ ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi côn đồ, vì vậy không nhất thiết người thực hiện hành vi phải là côn đồ để bị áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất côn đồ".
Theo Nghị quyết số 41/2017/QH14, BLHS năm 2015 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 Tác giả kiến nghị cần có hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng như “có tính chất côn đồ” nhằm tạo ra quy chuẩn thống nhất trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền.
Dấu hiệu định khung hình phạt "Có tính chất côn đồ" trong tội giết người theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 được hiểu là hành vi phạm tội của người phạm tội thể hiện sự ngang ngược và coi thường quy tắc cuộc sống Điều này bao gồm việc giết người vô cớ, gây sự dẫn đến giết người, hoặc thực hiện hành vi giết người vì những lý do nhỏ nhặt.