1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết của công trình đường bộ gây ra kinh nghiệm pháp luật nước ngoài cho việt nam

73 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 73
Dung lượng 1,48 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHIẾM KHUYẾT CÔNG TRÌNH ĐƯỜNG BỘ GÂY RA (12)
    • 1.1. Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra (12)
      • 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra (12)
      • 1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra (16)
      • 1.1.3. Ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra (18)
    • 1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra (19)
      • 1.2.1. Có thiệt hại xảy ra trên thực tế (20)
      • 1.2.2. Có sự tự thân tác động của khiếm khuyết công trình đường bộ (23)
      • 1.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại với sự tự thân tác động của khiếm khuyết công trình đường bộ (26)
    • 1.3. Xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại (28)
      • 1.3.1. Khi tài sản bị xâm phạm (28)
      • 1.3.2. Khi sức khỏe bị xâm phạm (30)
      • 1.3.3. Khi tính mạng bị xâm phạm (31)
    • 1.4. Các trường hợp không phải bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra (32)
    • 1.5. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (35)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHIẾM KHUYẾT CỦA CÔNG TRÌNH ĐƯỜNG BỘ GÂY (42)
    • 2.1. Thực tiễn thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết của công trình đường bộ gây ra (42)
      • 2.1.1. Thực tiễn thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết của công trình đường bộ gây ra ở Việt Nam (42)
      • 2.1.2. Thực tiễn thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết của công trình đường bộ gây ra ở một số quốc gia trên thế giới (53)
    • 2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại (63)
  • KẾT LUẬN (41)

Nội dung

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHIẾM KHUYẾT CÔNG TRÌNH ĐƯỜNG BỘ GÂY RA

Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra

1.1.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra

Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định lâu đời nhất trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật dân sự Trách nhiệm này đã được quy định và áp dụng từ thời La Mã, khi mà nguyên tắc "chế độ phục cừu" được hình thành, thể hiện qua việc trả thù ngang bằng như máu trả máu, mắt trả mắt, và tính mạng trả bằng tính mạng Ngoài chế độ phục cừu, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn tuân theo những nguyên tắc pháp luật đã được ấn định từ trước.

Chế độ bồi thường thiệt hại (BTTH) được phân loại thành hai loại chính: hành vi gây thiệt hại vi phạm lợi ích xã hội (ius publicum) và hành vi vi phạm tư pháp (delicta) Trong trường hợp đầu tiên, người gây thiệt hại sẽ bị xử lý theo luật công mà không cần yêu cầu từ cá nhân, và mức bồi thường không thể thỏa thuận Ngược lại, đối với hành vi vi phạm tư pháp, mức bồi thường có thể được thỏa thuận, và người gây thiệt hại phải bồi thường khi có yêu cầu từ người bị thiệt hại Trách nhiệm BTTH liên quan đến nhà cửa và công trình xây dựng đã được các học giả La Mã đề cập qua quy định cautio damni infecti, cho phép hàng xóm yêu cầu bảo đảm tài sản từ chủ sở hữu tòa nhà có nguy cơ sụp đổ Ngoài ra, Luật La Mã còn quy định trách nhiệm bồi thường cho thiệt hại do vật bị ném ra hoặc rơi từ tòa nhà (actio effusis et dejectis).

1 Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB Công an Nhân Dân, tr 13

2 Vũ Thị Lan Hương (2017), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra

- dưới góc nhìn so sánh”, (xem tại: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid 8084)

Tại Việt Nam, các triều đại phong kiến luôn coi trọng pháp luật như một công cụ quản lý xã hội, với Bộ luật Hồng Đức là bộ luật nổi bật nhất trong lịch sử pháp luật Việt Nam, đánh dấu thời kỳ thịnh vượng của triều đại Lê Sơ Bộ luật này tổng hợp nhiều quy định từ các ngành luật khác nhau, đặc biệt chú trọng đến chế độ sở hữu ruộng đất, tài sản, hợp đồng và thừa kế Điều 568 trong Quyển V Chương Tạp luật quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xây dựng hoặc phá hủy công trình gây ra, với hình phạt cho những trường hợp bất cẩn dẫn đến chết người Tuy nhiên, việc bồi thường chỉ áp dụng khi có thiệt hại về tính mạng và không xem xét các thiệt hại khác, cũng như chỉ phát sinh trong quá trình xây dựng hoặc phá hủy, không tính đến các rủi ro sau này như sụt lún hay sập đổ.

Theo Bộ dân luật Sài Gòn 1972, chủ sở hữu công trình kiến trúc bị sụp đổ do thiếu tu bổ hoặc xây dựng có khuyết điểm phải chịu trách nhiệm về thiệt hại phát sinh Người canh thủ chỉ được miễn trách nếu chứng minh được thiệt hại do nguyên nhân ngẫu nhiên hoặc bất khả kháng Điều này có nghĩa là nếu công trình gây thiệt hại cho người khác do thiếu sự quan tâm, chủ sở hữu phải bồi thường Ngược lại, nếu chủ sở hữu đã giao công trình cho người khác quản lý và đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm mà vẫn không ngăn chặn được thiệt hại, họ có thể được miễn trừ trách nhiệm Bộ dân luật Sài Gòn đã quy định rõ ràng về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường, yếu tố lỗi và điều kiện miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

3 Điều 739 Bộ dân luật Sài Gòn 1972

4 Điều 737 Bộ dân luật Sài Gòn 1972

Khi nền kinh tế thị trường phát triển, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự (BLDS) 1995 vào ngày 28/10/1995, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử lập pháp Việt Nam BLDS 1995 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đặc biệt là trách nhiệm liên quan đến nhà cửa và công trình xây dựng tại Điều 631 Theo đó, chủ sở hữu hoặc người được giao quản lý phải bồi thường nếu để nhà cửa, công trình xây dựng gây thiệt hại cho người khác, trừ khi thiệt hại hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng Sau mười năm thực hiện, các quy định này đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản trong xã hội.

Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, dựa trên các nguyên tắc và nội dung cơ bản của BLDS 1995 Tuy nhiên, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa và công trình xây dựng gây ra không được sửa đổi mà chỉ thay đổi số điều luật Hiện nay, theo BLDS 2015, quy định này đã có sự khác biệt so với BLDS 2005, cụ thể tại Điều 605, nêu rõ rằng "Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải "

BTTH là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa và công trình xây dựng gây ra cho người khác Nếu người thi công có lỗi trong việc để cho nhà cửa hoặc công trình xây dựng gây thiệt hại, họ sẽ phải chịu trách nhiệm và bồi thường cho những thiệt hại đó.

Câu hỏi về việc “công trình đường bộ” có được xem là “công trình xây dựng khác” nhằm xác định trách nhiệm pháp lý khi xảy ra thiệt hại đang được đặt ra Một tác giả cho rằng, công trình xây dựng khác rất đa dạng và phong phú, nhưng phải được xây dựng từ vật liệu kiên cố và thiết kế trong lòng đất, lòng sông, lòng biển hoặc trên mặt đất, có cột gắn vào lòng đất Tài sản này có thể được hình thành từ lao động, xây dựng mới bằng nguyên vật liệu, hoặc cải tạo cảnh quan tự nhiên như cầu cống, đê điều, và các công trình khác như cột điện, ăng-ten, mương dẫn nước, công viên, sân bay, và bến cảng Với quan điểm này, công trình đường bộ có thể được xếp vào nhóm công trình xây dựng khác theo quy định tại mục 10 Điều 3 Luật Xây dựng năm 2014.

5 Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế

(tái bản có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr 62 - 63

Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo ra từ sức lao động của con người, vật liệu xây dựng và thiết bị lắp đặt, bao gồm các phần dưới mặt đất, trên mặt đất, dưới mặt nước và trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế Theo Điều 8 Nghị định 46/2015/NĐ-CP, công trình xây dựng được phân loại thành nhiều nhóm dựa trên công năng sử dụng, bao gồm công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, nông nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, và quốc phòng, an ninh Do đó, công trình đường bộ cũng nằm trong danh sách các công trình xây dựng này.

Công trình đường bộ có thể tự gây thiệt hại do các khiếm khuyết nội tại, xuất phát từ sai sót trong thiết kế, thi công hoặc bảo trì Khiếm khuyết, theo từ điển tiếng Việt, là sự thiếu sót, và theo định nghĩa Latinh, là sự không hoàn hảo của một đối tượng Từ điển Hoàng gia Tây Ban Nha định nghĩa khiếm khuyết là sự thiếu hụt các đặc tính chất lượng Các khiếm khuyết có thể được nhận biết qua giác quan, hoạt động của một vật thể, hoặc liên quan đến khía cạnh biểu tượng, như khuyết điểm đạo đức Luật giao thông đường bộ năm 2008 không định nghĩa rõ về công trình đường bộ, nhưng liệt kê các thành phần như đường bộ, nơi dừng xe, đèn tín hiệu, biển báo, và các thiết bị phụ trợ khác.

6 http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Khi%E1%BA%BFm_khuy%E1%BA%BFt

7 “Định nghĩa từ khiếm khuyết”, (xem tại: https://vi.tax-definition.org/94176-default) (Truy cập: 25/02/2020)

Bảo trì công trình xây dựng đường bộ bao gồm các loại đường ô tô cao tốc, đường đô thị, đường nông thôn và bến phà, nhằm đảm bảo an toàn và thuận tiện cho người tham gia giao thông Công trình đường bộ không chỉ bao gồm hệ thống đường mà còn có cầu, bãi đỗ xe, vỉa hè và các hệ thống hỗ trợ khác Bài viết tập trung vào các công trình đã hoàn thành, xem xét trách nhiệm trong thiết kế, thi công, giám sát, bảo trì và sửa chữa Những khiếm khuyết như ổ gà, ổ voi trên mặt đường có thể do địa hình, thiên tai, hoặc thiếu kinh phí cho bảo trì Những thiếu sót này có thể ảnh hưởng đến an toàn, sức khỏe, tính mạng và tài sản của người tham gia giao thông.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ là một loại trách nhiệm bồi thường dân sự đặc thù, phát sinh giữa người tham gia giao thông và chủ thể sở hữu hoặc quản lý công trình Khi công trình đường bộ gặp khiếm khuyết, nó có thể gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng và sức khỏe của người tham gia giao thông.

1.1.2 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, với đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm này.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra là một loại trách nhiệm dân sự, trong đó người có nghĩa vụ bồi thường phải chịu hậu quả pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ dân sự Việc xác định thiệt hại, chủ thể bồi thường, nguyên tắc và năng lực bồi thường được quy định bởi các quy phạm pháp luật dân sự.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) mang tính chất tài sản, tức là liên quan đến trách nhiệm vật chất Khi một cá nhân gây ra thiệt hại cho người khác, tổn thất đó cần được xác định bằng tiền hoặc theo quy định của pháp luật về một đại lượng vật chất cụ thể; nếu không, việc bồi thường sẽ không thể thực hiện.

Thứ ba, trách nhiệm BTTH là hậu quả bất lợi mà một chủ thể phải gánh chịu

Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra

Trong lĩnh vực khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử, việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) cần dựa vào các yếu tố cụ thể.

Để được bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết của công trình đường bộ, cần thỏa mãn 14 điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường.

1.2.1 Có thiệt hại xảy ra trên thực tế Đây là điều kiện quan trọng nhất, tiên quyết của trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng Nếu trong trách nhiệm hình sự, hành vi trái pháp luật nặng hay nhẹ đều có thể cho phép Tòa án trừng phạt người có hành vi trái pháp luật ngay cả khi không có thiệt hại Ngược lại, trong BTTH ngoài hợp đồng, cho dù hành vi trái pháp luật được coi là nghiêm trọng thì người có hành vi trái pháp luật vẫn không phải bồi thường nếu thiệt hại không tồn tại: Nếu không có thiệt hại thì không có trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng 10 Theo nguyên tắc chung về BTTH ngoài hợp đồng, Khoản

Theo Điều 584 BLDS 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có thiệt hại xảy ra do hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, hoặc quyền lợi hợp pháp của người khác Việc xác định thiệt hại do xâm phạm tài sản thường không khó khăn vì tài sản có giá trị bằng tiền Tuy nhiên, trong trường hợp xâm phạm sức khỏe hoặc tính mạng, việc xác định thiệt hại trở nên phức tạp hơn vì không thể “lượng hóa” thiệt hại một cách chính xác Hiện tại, pháp luật chưa có định nghĩa rõ ràng về thiệt hại, chỉ liệt kê các trường hợp có thiệt hại, dẫn đến khó khăn trong việc xác định thiệt hại Một số ý kiến cho rằng thiệt hại là sự suy giảm giá trị của tài sản hoặc các giá trị nhân thân được pháp luật bảo vệ.

Thiệt hại được định nghĩa là sự giảm sút lợi ích vật chất mà một người đã có hoặc sự mất mát lợi ích vật chất mà họ chắc chắn sẽ nhận được Ngoài ra, thiệt hại cũng có thể được hiểu là sự giảm bớt lợi ích vật chất của một cá nhân, được xác định trên thực tế, bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp mà chắc chắn sẽ xảy ra.

Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy định rằng thiệt hại bao gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần Cụ thể, trong Khoản 1.1 tiểu mục 1 mục II Nghị quyết 03/2006, thiệt hại vật chất được xác định là những tổn thất có thể đo đếm được về tài sản và tài chính.

10 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr 71

11 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr 75

Theo quy định tại Điều 608, 609, 610 và 611 BLDS, thiệt hại về vật chất bao gồm thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, và danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm Trách nhiệm bồi thường chỉ phát sinh khi thiệt hại liên quan đến việc xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân Tuy nhiên, thiệt hại do công trình giao thông đường bộ gây ra không bao gồm thiệt hại về danh dự và uy tín, vì những thiệt hại này thường xuất phát từ khiếm khuyết của công trình, dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản.

Thiệt hại vật chất bao gồm các tổn thất tính được thành tiền như sau: (1) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, phục hồi sức khỏe và chức năng của người bị thiệt hại; (2) Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút, áp dụng mức thu nhập trung bình nếu không ổn định; (3) Chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc trong thời gian điều trị; (4) Các thiệt hại khác theo quy định của pháp luật Chi phí cứu chữa bao gồm: tiền thuê phương tiện cấp cứu, thuốc men, thiết bị y tế, chi phí xét nghiệm, mổ, vật lý trị liệu, viện phí, thuốc bổ, và các chi phí cần thiết khác như lắp chân giả, tay giả, xe lăn, nạng chống, nhằm hỗ trợ người bị thiệt hại.

12 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr 74

Tại tỉnh Phú Yên, nhiều vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra do "ổ gà" trên quốc lộ 1 Ngày 03/12/2018, ông Nguyễn Ngọc Tuân ở xã Hòa Xuân Nam gặp tai nạn khi đi xe máy, dẫn đến gãy 8 xương sườn, 1 xương bả vai, và chấn thương nghiêm trọng Chỉ một tuần sau, ngày 10/12, anh Trần Nguyễn Quang Tánh cũng gặp tai nạn tương tự và tử vong tại chỗ khi xe của anh sụp vào "ổ gà" Cả hai vụ tai nạn đều cho thấy thiệt hại lớn về sức khỏe và tính mạng, nguyên nhân chính là do sự xuống cấp của hạ tầng giao thông.

Thiệt hại về tinh thần là loại thiệt hại thứ hai, liên quan đến việc xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, và uy tín của cá nhân, dẫn đến nỗi đau, buồn phiền, và mất mát tình cảm cho nạn nhân hoặc người thân gần gũi Các tổ chức cũng có thể chịu thiệt hại tinh thần khi danh dự và uy tín của họ bị xâm phạm, làm giảm sự tín nhiệm Nhiều quốc gia như Liên Xô và Cộng hòa Liên bang Đức đã công nhận thiệt hại này từ lâu, trong khi pháp luật Việt Nam hiện tại cũng thừa nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại tinh thần do hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, và uy tín Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam không quy định rõ khái niệm thiệt hại tinh thần mà chỉ điều chỉnh trong những trường hợp cụ thể khi các trạng thái tinh thần bị xâm phạm trái pháp luật.

14 Mục 1.1 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP

Bài viết "Chết do 'ổ gà, ổ voi' trên đường, ai chịu trách nhiệm?" của tác giả Duy Thanh – Mỹ Hà, đăng trên Tuổi Trẻ, đề cập đến vấn đề an toàn giao thông và trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc xử lý tình trạng hư hỏng đường xá Tác giả chỉ ra rằng những "ổ gà, ổ voi" trên đường không chỉ gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông mà còn dẫn đến những tai nạn thương tâm Bài viết kêu gọi sự cần thiết phải có biện pháp khắc phục và nâng cao ý thức của cộng đồng về an toàn khi lưu thông.

Bài luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tôn (2010) tại Đại học Quốc gia Hà Nội nghiên cứu về việc bồi thường tổn thất tinh thần liên quan đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân khi bị xâm phạm Nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về các khía cạnh pháp lý trong việc bảo vệ quyền lợi và danh dự của cá nhân trong xã hội.

Các quy định về bồi thường thiệt hại tinh thần nhằm bảo vệ giá trị con người và hỗ trợ sự phát triển ổn định trong xã hội Trường hợp anh Trần Nguyễn Quang Tánh thiệt mạng do tai nạn liên quan đến ổ gà trên quốc lộ 1, không chỉ gây tổn thất về tính mạng và tài sản mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần của gia đình anh Thiệt hại tinh thần không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn tác động đến người thân của họ, gây ra sự suy sụp và đau thương Khác với thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần khó xác định do hoàn cảnh mỗi người khác nhau Pháp luật quy định cụ thể về bồi thường thiệt hại sức khỏe và tính mạng, với mức tối đa cho thiệt hại tinh thần không quá năm mươi lần mức lương cơ sở cho sức khỏe và một trăm lần cho tính mạng, nhằm đảm bảo quyền lợi cho những người thân thích của nạn nhân.

Nguyên tắc xác định thiệt hại cần phải khách quan, thực tế và có thể tính toán được, không được dựa trên suy đoán Tuy nhiên, việc đánh giá thiệt hại lại phụ thuộc vào cảm nhận chủ quan của con người Người bị thiệt hại thường có xu hướng phức tạp hóa vấn đề và khai báo giá trị thiệt hại cao hơn thực tế, trong khi người gây thiệt hại lại có xu hướng đơn giản hóa vấn đề Do đó, vai trò của người đánh giá thiệt hại và người làm chứng trong việc xác định lỗi và mức độ bồi thường là rất quan trọng.

1.2.2 Có sự tự thân tác động của khiếm khuyết công trình đường bộ Ở những quốc gia theo truyền thống pháp luật lục địa (Pháp, Đức, Italia, Tây

Ban Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Việt Nam) coi trách nhiệm BTTH do nhà cửa,

19 Phùng Trung Tập (2017), Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB Công an Nhân Dân, tr 341

Trách nhiệm phát sinh từ các công trình xây dựng, đặc biệt là công trình đường bộ, không cần chứng minh lỗi, mà chỉ cần chứng minh thiệt hại do công trình gây ra Trong khi đó, ở các nước theo truyền thống pháp luật án lệ như Anh và Mỹ, trách nhiệm này được coi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ pháp lý Điều này cho thấy sự khác biệt trong cách tiếp cận và quy định về trách nhiệm liên quan đến thiệt hại tài sản.

Xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại

Thiệt hại là yếu tố chính phát sinh nghĩa vụ bồi thường, và nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại chỉ có thể thực hiện khi xác định chính xác mức thiệt hại Khi khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra thiệt hại, không phải tất cả thiệt hại đều được pháp luật công nhận để bồi thường ngoài hợp đồng, theo quy định tại Điều 589, Điều 590, và Điều 591 BLDS 2015 Mức bồi thường phải đảm bảo bù đắp toàn bộ thiệt hại, tuy nhiên, trong một số trường hợp, mức bồi thường có thể thấp hơn thiệt hại thực tế Các bên có thể thỏa thuận mức bồi thường, và người chịu trách nhiệm có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý, hoặc khi thiệt hại vượt quá khả năng kinh tế của họ Nếu mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế, bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh mức bồi thường.

1.3.1 Khi tài sản bị xâm phạm

Tài sản của một chủ thể có thể bị xâm phạm và gây thiệt hại, bao gồm cả tài sản hữu hình và vô hình Thiệt hại có thể là mất mát, hủy hoại, hư hỏng, giảm chất lượng, và những hậu quả liên quan, làm cho việc xác định thiệt hại trở nên phức tạp Tất cả hành vi xâm hại gây tổn thất đến vật chất, tiền bạc, giấy tờ có giá, quyền tài sản, và quyền sở hữu trí tuệ đều cần được xem xét một cách nghiêm túc.

24 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr 362

Theo Điều 589 BLDS 2015, khi tài sản bị xâm phạm, thiệt hại được bồi thường bao gồm tài sản bị mất, hủy hoại hoặc hư hỏng, lợi ích từ việc sử dụng tài sản bị giảm sút, chi phí hợp lý để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại, cùng với các thiệt hại khác theo quy định của pháp luật Tuy nhiên, hiện hành, chỉ có thiệt hại vật chất được bồi thường, không bao gồm thiệt hại tinh thần Thực tế cho thấy, nhiều tài sản khi bị mất hoặc hủy hoại gây tổn thất tinh thần lớn cho chủ sở hữu và gia đình Ví dụ, trong trường hợp anh A gặp sự cố giao thông làm vỡ lọ tro cốt của người thân, mặc dù không bị thiệt hại về sức khỏe, nhưng tổn thất tinh thần là rất lớn Do đó, trong nhiều trường hợp như kỷ vật, đồ thờ cúng hay thú cưng bị hư hỏng hoặc chết, người bị thiệt hại không có quyền yêu cầu bồi thường cho tổn thất tinh thần theo quy định hiện hành.

Pháp luật của nhiều quốc gia đã công nhận quyền bồi thường thiệt hại tinh thần trong một số trường hợp tài sản bị thiệt hại Cụ thể, Điều 710 BLDS Nhật Bản quy định rằng người chịu trách nhiệm về thiệt hại phải bồi thường cho cả thiệt hại vật chất lẫn phi vật chất, bao gồm tổn thất về tự do, uy tín và tài sản của người khác Mặc dù BLDS Pháp không có quy định cụ thể về bồi thường tổn thất tinh thần, nhưng án lệ hiện nay đã chấp nhận việc bồi thường trong trường hợp vật nuôi thân thiết như chó, mèo và ngựa đua bị giết.

Khi tài sản bị xâm phạm, việc bồi thường thiệt hại có thể được thực hiện qua nhiều phương thức, như thay thế tài sản hỏng bằng tài sản tương đương hoặc quy đổi thiệt hại thành tiền Tuy nhiên, một câu hỏi quan trọng là giá trị tài sản được quy đổi sẽ được xác định vào thời điểm nào, đặc biệt là vào thời điểm xảy ra tai nạn.

25 Học viện Tư pháp (2007), Giáo trình Luật dân sự, Nxb Công an nhân dân, tr 457

Luận án tiến sĩ luật học của Vũ Thị Lan Hương (2018) tập trung vào trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa và công trình xây dựng gây ra, theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành Nghiên cứu này được thực hiện tại Trường Đại học Luật, nhằm làm rõ các quy định pháp lý liên quan và đề xuất giải pháp cải thiện hệ thống bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực xây dựng.

Thời điểm thực hiện việc bồi thường thường được xác định là ngày xét xử sơ thẩm, khi thiệt hại được quy đổi thành tiền Giải pháp này giúp đảm bảo rằng người được bồi thường không phải chịu thiệt hại do sự mất giá của tiền tệ từ thời điểm xảy ra thiệt hại cho đến khi Tòa án ra quyết định bồi thường.

1.3.2 Khi sức khỏe bị xâm phạm

Cá nhân có quyền sống và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, cũng như quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe Khi sức khỏe bị xâm phạm, thiệt hại phát sinh sẽ được bồi thường theo Điều 590 BLDS 2015, bao gồm thiệt hại vật chất và tổn thất tinh thần Thiệt hại do công trình giao thông đường bộ có thể gây ra những tai nạn nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe và tài sản của nhiều người Bồi thường cho thiệt hại sức khỏe bao gồm chi phí chữa trị, thu nhập bị mất, và chi phí chăm sóc nếu người bị thiệt hại cần hỗ trợ Thời gian điều trị sẽ được xác định dựa trên thời gian mất hoặc giảm thu nhập trong quá trình điều trị, theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP.

27 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, 2016, tr 385

Thời gian điều trị, có thể diễn ra tại bệnh viện hoặc tại nhà, là khoảng thời gian mà người bị thiệt hại chi tiêu cho việc phục hồi sức khỏe để trở lại làm việc như ban đầu Cần có văn bản hướng dẫn rõ ràng về “thiệt hại khác do luật quy định”, bao gồm các chi phí như cải tạo nhà ở, chỗ ngủ, nơi làm việc cho người sử dụng xe lăn, và chi phí đào tạo nghề mới nếu nghề cũ không thể tiếp tục Đối với thiệt hại tinh thần do xâm phạm sức khỏe, pháp luật quy định người chịu trách nhiệm bồi thường phải đền bù tổn thất tinh thần, với mức bồi thường do các bên thỏa thuận hoặc không quá năm mươi lần mức lương cơ sở nếu không đạt được thỏa thuận Những thiệt hại về sức khỏe do khiếm khuyết công trình đường bộ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhan sắc, hạnh phúc gia đình, và khả năng vui chơi, giải trí, dẫn đến nỗi đau tinh thần kéo dài suốt đời Đây là quy định hợp lý nhằm xoa dịu nỗi đau mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.

1.3.3 Khi tính mạng bị xâm phạm

Quyền sống là quyền cơ bản và quan trọng nhất của con người, thể hiện rõ trong nội dung Nhân quyền Theo Điều 19 Hiến pháp 2013, mọi người đều có quyền sống và tính mạng được pháp luật bảo vệ, không ai có quyền tước đoạt tính mạng trái phép Khi tính mạng bị xâm phạm, trách nhiệm bồi thường sẽ được áp dụng theo quy định tại Khoản 1 Điều liên quan.

Theo quy định tại Điều 591 BLDS 2015, thiệt hại do xâm phạm tính mạng bao gồm: thiệt hại về sức khỏe, chi phí hợp lý cho việc mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, và các thiệt hại khác theo quy định của pháp luật.

Khi tính mạng bị đe dọa, người bị thiệt hại có thể thực hiện các biện pháp cứu thương trước khi qua đời Do đó, các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng và phục hồi sức khỏe cũng như chức năng bị mất hoặc giảm sút của họ cần được xem xét.

Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút của người bị thiệt hại sẽ được bồi thường, và nếu thu nhập không ổn định, mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại sẽ được áp dụng Ngoài ra, chi phí hợp lý cho người chăm sóc trong thời gian điều trị cũng sẽ được tính, đặc biệt khi người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần sự chăm sóc thường xuyên Tất cả thiệt hại này cần được bồi thường toàn bộ và kịp thời.

Ngoài việc bồi thường vật chất, những người thân thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nạn nhân, cũng như những người đã trực tiếp nuôi dưỡng nạn nhân, có quyền được bồi thường tổn thất về tinh thần Mức bồi thường này có thể được các bên thỏa thuận; nếu không đạt được thỏa thuận, mức tối đa cho mỗi trường hợp xâm phạm tính mạng không vượt quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Các trường hợp không phải bồi thường thiệt hại do khiếm khuyết công trình đường bộ gây ra

Pháp luật được xây dựng để bảo vệ công bằng, lẽ phải và duy trì trật tự xã hội Ngoài việc bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại, pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng quy định các điều khoản nhằm bảo vệ quyền lợi của bên chịu trách nhiệm, trong đó có các quy định loại trừ trách nhiệm Đặc biệt, khi thiệt hại xảy ra do khiếm khuyết của công trình đường bộ, các trường hợp loại trừ trách nhiệm không được nêu rõ tại Điều 605 Bộ luật Dân sự.

Theo Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm trong trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác hoặc quy định khác của pháp luật.

Trường hợp thiệt hại là do sự kiện bất khả kháng, tại khoản 1 Điều 156 BLDS

Theo quy định năm 2015, sự kiện bất khả kháng được định nghĩa là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước và không thể khắc phục, dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết Để được coi là bất khả kháng, sự kiện này phải đáp ứng đủ ba yếu tố: tính khách quan, tính không thể lường trước và tính không thể khắc phục.

Sự kiện cần được xác định là một hiện tượng khách quan, có thể là các hiện tượng tự nhiên như thiên tai, động đất, núi lửa, lũ lụt, sóng thần hoặc dịch bệnh.

Sự kiện xảy ra có thể do con người gây ra thông qua các hành động như bạo động, nổi loạn hay chiến sự, và điều này cho thấy rằng một sự kiện có thể xảy ra một cách khách quan khi không theo ý chí của các bên liên quan Để xác định yếu tố khách quan, việc quan trọng là phân tích xem bên gây thiệt hại có lỗi chủ quan hay chủ ý dẫn đến sự kiện bất khả kháng hay không.

Để xác định một sự kiện là "không thể lường trước được", cần đánh giá yếu tố này tại thời điểm xảy ra hành vi gây thiệt hại Một sự kiện được coi là không thể lường trước khi nó xảy ra ngoài dự đoán của các bên liên quan Nếu một người bình thường có thể dự đoán sự kiện đó, thì nó không được xem là sự kiện bất khả kháng.

Việc gây thiệt hại được xác định là "không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp và khả năng cho phép", tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 chưa làm rõ các tiêu chí đánh giá nỗ lực của một bên Cần xem xét liệu yếu tố kinh tế có ảnh hưởng đến việc áp dụng biện pháp khắc phục hay không Có thể hợp lý khi nhìn nhận từ góc độ các biện pháp mà một người bình thường có thể thực hiện trong hoàn cảnh tương tự Tuy nhiên, không thể chấp nhận lý do kinh tế như một cơ sở để một bên không thực hiện bất kỳ biện pháp khắc phục nào khi thiệt hại xảy ra.

Thiệt hại do sự kiện bất khả kháng không phải do khiếm khuyết công trình đường bộ hoặc hành vi trái pháp luật của con người gây ra, mà là do "sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được" Do đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu, người quản lý và thi công công trình đường bộ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại này, mà người bị thiệt hại phải tự gánh chịu Tuy nhiên, nếu thiệt hại xảy ra do cả khiếm khuyết công trình và sự kiện bất khả kháng, liệu có cần bồi thường hay không? Theo tác giả, trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường vẫn cần được xem xét.

32 Đỗ Văn Đại (2016), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, tập 1, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr 140

28 người được giao quản lý và sử dụng công trình đường bộ sẽ được miễn một phần trách nhiệm Tương tự, nếu thiệt hại xảy ra do lỗi của người thi công kết hợp với tác động tự thân từ khiếm khuyết của công trình, thì người thi công cũng sẽ được miễn một phần trách nhiệm, cùng với chủ sở hữu, người chiếm hữu và những người quản lý, sử dụng công trình.

Trường hợp thiệt hại hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại là một trong những căn cứ để miễn hoặc giảm trách nhiệm cho người gây thiệt hại, theo quy định của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Pháp, Đức, và Italia Nếu thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật của con người, thì người gây thiệt hại không phải bồi thường Lỗi của người bị thiệt hại có thể là vô ý hoặc cố ý, nhưng phải xác định là hoàn toàn thuộc về họ Ví dụ, nếu người tham gia giao thông biết về khiếm khuyết của công trình nhưng vẫn vi phạm quy định, thì họ phải tự chịu trách nhiệm cho thiệt hại Mặc dù nguyên tắc chung yêu cầu bồi thường phải được thực hiện kịp thời và toàn bộ, nhưng các bên vẫn có thể thỏa thuận về mức bồi thường hợp lý, miễn là không trái với pháp luật và đạo đức xã hội.

Bài viết của Lê Văn Sua (2017) thảo luận về sự kiện bất khả kháng và nguyên tắc suy đoán lỗi theo Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 Tác giả phân tích các khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện bất khả kháng, đồng thời làm rõ cách áp dụng nguyên tắc suy đoán lỗi trong bối cảnh này Để tìm hiểu chi tiết hơn, độc giả có thể truy cập vào liên kết: https://moj.gov.vn/UserControls/News/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/qt/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi&ListIdua8df79-a725-4fd5-9592-517f443c27b6&SiteId1f9e79-d495-439f-98e6-4bd81e36adc9.

&ItemID!03&SiteRootID1e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3) (truy cập ngày 23/4/2020)

Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Khiếm khuyết của công trình đường bộ có thể gây ra thiệt hại, và việc xác định chủ thể bồi thường không chỉ dựa vào hành vi trái pháp luật mà còn theo nguyên tắc hưởng lợi và gánh chịu rủi ro Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần xem xét độ tuổi, khả năng nhận thức, năng lực tài sản, cũng như lợi ích và trách nhiệm của người liên quan đến công trình Theo Điều 584 BLDS năm 2015, bất kỳ ai thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác đều phải chịu trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng Điều này khẳng định rằng mọi nguyên nhân gây thiệt hại đều phải được xem xét, bao gồm cả hành vi của cá nhân, pháp nhân, hoặc cơ quan nhà nước, cũng như thiệt hại từ tài sản như cây cối, công trình xây dựng hay súc vật.

Trong trường hợp xảy ra thiệt hại cho người tham gia giao thông do khiếm khuyết của công trình đường bộ, có thể áp dụng quy định tại Điều luật liên quan để xác định trách nhiệm bồi thường.

Theo Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2015, công trình đường bộ được coi là một loại công trình xây dựng khác, và chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) trong trường hợp xảy ra tai nạn giao thông do đường hỏng, không có rào chắn hay cảnh báo nguy hiểm, sẽ bao gồm chủ sở hữu, người chiếm hữu, và người được giao quản lý công trình Điều này có nghĩa là nếu có lỗi từ phía người thi công dẫn đến thiệt hại, họ cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường Do đó, việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm BTTH trong trường hợp này cần phải căn cứ vào các quy định cụ thể tại Điều 605 để đảm bảo quyền lợi cho những người bị ảnh hưởng.

Chủ sở hữu công trình dường bộ cần lưu ý rằng, theo điểm b Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Dân sự 2015, công trình này được xem là bất động sản do gắn liền với đất.

Theo Khoản 1 Điều 106 BLDS 2015, chủ sở hữu công trình đường bộ phải đăng ký quyền sở hữu, và người được xác định là chủ sở hữu là người có tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng Chủ sở hữu có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác, và họ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản được pháp luật công nhận Mỗi chủ thể thực hiện quyền sở hữu khác nhau, có thể trực tiếp thực hiện toàn bộ quyền năng hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện một số quyền nhất định Thêm vào đó, theo Khoản 7 Điều 2 Thông tư 52/2013/TT-BGTVT, có quy định về quản lý, khai thác và bảo trì công trình đường bộ.

Chủ sở hữu công trình đường bộ chuyên dùng có thể là tổ chức hoặc cá nhân theo quy định pháp luật, hoặc người được ủy quyền quản lý và khai thác công trình đó Ví dụ, chủ sở hữu bãi đỗ xe tại siêu thị hay khu chung cư thuộc loại công trình đường bộ chuyên dùng Trong các giao dịch dân sự như mua bán, tặng cho, hay thừa kế, nếu chưa hoàn tất thủ tục sang tên mà công trình gặp sự cố gây thiệt hại, cần xác định ai là chủ sở hữu để chịu trách nhiệm bồi thường Điều 238 BLDS 2015 quy định rằng quyền sở hữu chấm dứt khi chuyển giao quyền sở hữu cho người khác, và đối với tài sản phải đăng ký, bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn tất thủ tục đăng ký, trong khi bên mua chịu rủi ro từ thời điểm hoàn thành thủ tục, trừ khi có thỏa thuận khác.

Tại Việt Nam, thiệt hại xảy ra đối với nhà cửa và công trình xây dựng thuộc sở hữu cũ sẽ do chính chủ sở hữu đó bồi thường Tuy nhiên, cách tiếp cận này có thể gây bất lợi cho người bị thiệt hại nếu chủ sở hữu đã chuyển đi nơi khác và không còn tài sản nào để đảm bảo việc bồi thường Vì vậy, cần có những giải pháp thuyết phục hơn để bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại.

Khi tham gia tố tụng, việc đưa cả chủ sở hữu hiện tại vào làm người có quyền lợi và nghĩa vụ là rất quan trọng Nếu không xác định được vị trí của chủ sở hữu cũ, chủ sở hữu hiện tại sẽ phải chịu trách nhiệm Sau khi giải quyết xong vụ việc, họ có quyền truy đòi chủ sở hữu cũ hoàn trả.

Xác định chủ sở hữu công trình đường bộ chuyên dùng rất quan trọng, vì điều này giúp xác định trách nhiệm bồi thường khi có khiếm khuyết xảy ra Chủ sở hữu không chỉ phải bồi thường mà còn có trách nhiệm giám sát, sửa chữa và bảo trì công trình để đảm bảo an toàn và hiệu quả sử dụng.

Người chiếm hữu theo BLDS 2015 không được định nghĩa cụ thể, nhưng có thể hiểu là người nắm giữ và chi phối tài sản, trực tiếp hoặc gián tiếp "Chiếm hữu" được phân loại thành "chiếm hữu có căn cứ pháp luật" và "chiếm hữu không có căn cứ pháp luật" Chiếm hữu có căn cứ pháp luật bao gồm các trường hợp như: chủ sở hữu chiếm hữu tài sản, người được ủy quyền quản lý tài sản, hoặc người nhận chuyển nhượng quyền chiếm hữu qua giao dịch dân sự hợp pháp Ngoài ra, còn có các trường hợp như phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản bị đánh rơi, hoặc gia súc, gia cầm bị thất lạc theo quy định của pháp luật hiện hành.

“chiếm hữu không có căn cứ pháp luật” được hiểu là người “nắm giữ, chi phối” tài sản không thuộc các trường hợp nói trên 38

Khái niệm “người chiếm hữu” có sự giao thoa với “chủ sở hữu” và “người được giao quản lý” Trong nhiều trường hợp, “người chiếm hữu” công trình đường bộ cũng chính là “chủ sở hữu” và thường là “người được giao quản lý, sử dụng” công trình đó.

35 Ðỗ Văn Ðại - Lê Hà Huy Phát (2012), “Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, (số 05)

Theo quy định tại Nghị định 14/1998/NĐ-CP, công trình đường bộ là tài sản của nhà nước, thuộc hệ thống giao thông vận tải phục vụ lợi ích công cộng và quốc gia Nghị định 33/2019/NĐ-CP quy định rằng tất cả tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ được Nhà nước giao cho các đối tượng quản lý và sử dụng theo pháp luật Do đó, người được giao quản lý công trình đường bộ có trách nhiệm đảm bảo việc sử dụng và bảo trì tài sản này theo quy định hiện hành.

Người được giao quản lý công trình đường bộ không được định nghĩa rõ ràng trong Bộ luật Dân sự, nhưng có thể hiểu là người có trách nhiệm trông coi và giữ gìn tài sản theo yêu cầu nhất định Tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ do Nhà nước đầu tư được quản lý bởi các cơ quan được giao quản lý tài sản, bao gồm cơ quan trung ương hỗ trợ Bộ Giao thông vận tải thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành và các cơ quan địa phương giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, quận, huyện, và xã thực hiện chức năng tương tự.

Cơ quan quản lý đường bộ tại Việt Nam bao gồm Tổng cục Đường bộ, Cục Quản lý đường bộ, Sở Giao thông vận tải và các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã Các đơn vị này được phân cấp và ủy quyền quản lý đường bộ bởi Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh Mạng lưới đường bộ được chia thành sáu hệ thống: quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường xã, đường đô thị và đường chuyên dùng Tổng cục Đường bộ không chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước mà còn chỉ đạo và điều hành các cục quản lý đường bộ.

Luận án tiến sĩ của Vũ Thị Lan Hương (2018) tại Đại học Luật Hà Nội nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa và công trình xây dựng gây ra theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, với nội dung chi tiết được trình bày trên trang 85.

40 Khoản 5 Điều 2 Thông tư 37/2018/TT-BGTVT

41 Khoản 1 Điều 39 Luật giao thông đường bộ năm 2008

THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHIẾM KHUYẾT CỦA CÔNG TRÌNH ĐƯỜNG BỘ GÂY

Ngày đăng: 15/01/2022, 22:03

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Bộ dân luật Sài Gòn 1972. 3. BLDS 1995.4. BLDS 2005.5. BLDS 2015 Khác
9. Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng thẩm phán về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Khác
10. Nghị định 46/2015/NĐ-CP về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng Khác
11. Nghị định 14/1998/NĐ-CP ngày 06 tháng 3 năm 1998 về quản lý tài sản nhà nước Khác
12. Nghị định 33/2019/NĐ-CP quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ Khác
13. Thông tư 37/2018/TT-BGTVT quy định về quản lý, vận hành khai thác và bảo trì công trình đường bộ Khác
14. Thông tư 52/2013/TT-BGTVT quy định về quản lý, khai thác và bảo trì công trình đường bộ.Văn bản luật nước ngoài Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w