ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT
Áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo yêu cầu của đương sự
Hôn nhân và gia đình đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, được Nhà nước quy định bằng hệ thống pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực này Tuy nhiên, các quy định pháp luật không phải lúc nào cũng đủ để giải quyết mọi mối quan hệ xã hội và tranh chấp phát sinh trong thực tiễn.
Do đó, sẽ có tranh chấp xảy ra nhưng không có quy phạm pháp luật điều chỉnh thì Nhà nước cho phép áp dụng tập quán
Việc áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 Theo quy định này, khi yêu cầu Tòa án can thiệp vào vụ việc dân sự, các đương sự có quyền viện dẫn tập quán để hỗ trợ yêu cầu của mình.
Tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, một bộ phận người dân không chia tài sản cho con gái khi kết hôn, mà chỉ để lại ruộng đất cho con trai sau khi bố mẹ qua đời Trong trường hợp có sự tranh chấp, tập quán áp dụng sẽ là tập quán được thừa nhận tại địa phương nơi xảy ra vụ việc dân sự.
Theo Bộ Luật Dân sự 2015, tập quán là quy tắc xử sự rõ ràng xác định quyền và nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự, được hình thành qua thời gian và áp dụng rộng rãi trong cộng đồng Trong trường hợp không có thỏa thuận giữa các bên và pháp luật không quy định, tập quán có thể được áp dụng, nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.
Theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, tập quán được áp dụng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình phải tuân thủ quy tắc xử sự theo Khoản 4 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình Việc áp dụng tập quán cần phải đảm bảo các điều kiện tại Điều 7, trong đó nhấn mạnh tôn trọng thỏa thuận giữa các bên về tập quán được áp dụng.
Theo quy định hiện hành, các bên liên quan có quyền viện dẫn và thỏa thuận về tập quán để Tòa án giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình Tòa án không chỉ căn cứ vào pháp luật mà còn xem xét các tập quán được đương sự đưa ra Nếu các tập quán này không vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội và được cộng đồng công nhận, TAND sẽ áp dụng chúng để giải quyết các tranh chấp Quy định này phù hợp với thực tiễn quản lý xã hội hiện nay.
Trong quá trình thực thi pháp luật, việc áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình theo yêu cầu của đương sự có thể phát sinh nhiều vấn đề pháp lý khác nhau.
Cả hai bên đương sự đều trích dẫn các tập quán để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình, tuy nhiên, các tập quán này lại mâu thuẫn nhau.
3 Điều 2 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình
Trong một vụ tranh chấp hôn nhân và gia đình, một bên đương sự đã viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án giải quyết, tuy nhiên bên còn lại không đồng ý Mặc dù tập quán này tồn tại và không vi phạm quy định pháp luật cũng như đạo đức xã hội, nhưng vẫn chưa được chấp nhận trong quá trình xử lý vụ việc.
Trong trường hợp chỉ có một bên đương sự viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình, bên còn lại không đưa ra ý kiến, điều này có thể ảnh hưởng đến quá trình xét xử và quyết định của Tòa án.
Từ các trường hợp nêu trên, vấn đề đặt ra là Tòa án sẽ chọn tập quán nào để giải quyết các tranh chấp
Bản án số 75/2018/DS-ST, được ban hành vào ngày 05 tháng 7 năm 2018 bởi Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ, liên quan đến vụ “Tranh chấp đòi lại tài sản tặng cho”.
Bà Cao Thị Bạch H, đại diện cho nhà trai, đã khởi kiện Bà Hà Thị S và Chị Lương Thị Thiên T, đại diện cho nhà gái và cô dâu, yêu cầu hoàn trả số tiền 70.000.000 đồng Nguyên đơn cho rằng số tiền này là khoản đã thanh toán trong quá trình tổ chức hôn lễ.
T đã không hoàn thành trách nhiệm của một con dâu, trong đó có 50.000.000 đồng dành cho việc tổ chức lễ cưới và 20.000.000 đồng mà Bà H đã đưa cho con trai, Anh Lê Văn X, để chi cho các công việc như chụp hình, trang điểm cô dâu và quay phim.
Chị Lương Thị Thiên T khẳng định rằng chị không biết việc Bà Cao Thị Bạch H đưa cho Anh Lê Văn X số tiền 20.000.000 đồng để thực hiện các dịch vụ như chụp hình, quay phim, trang điểm cô dâu và mua mâm bàn cưới Chị cho biết rằng mỗi bên tự lo liệu việc quay phim và chụp ảnh trong lễ cưới Về trang điểm cô dâu, chị tự chi trả, không phải anh X Anh X chỉ mua mâm bàn theo phong tục của nhà trai Do đó, chị không đồng ý trả số tiền 20.000.000 đồng theo yêu cầu khởi kiện của Bà H.
Tòa án khẳng định rằng việc nhà trai giao tiền cho nhà gái để chuẩn bị tiệc cưới hoàn toàn là tự nguyện và phù hợp với truyền thống cưới hỏi Pháp luật không yêu cầu nhà trai phải đưa tiền cho nhà gái, do đó việc bà H giao tiền cho bà S để tổ chức lễ cưới là kết quả của sự thỏa thuận giữa hai bên Thực tế, nhà gái đã tổ chức tiệc đón tiếp nhà trai và lễ cưới đã diễn ra, bà S đã sử dụng số tiền này cho việc chuẩn bị Số tiền 20.000.000 đồng được coi là chi phí phục vụ cho hôn nhân của hai người Vì vậy, Tòa án đã bác bỏ yêu cầu khởi kiện của bà H.
4 Nội dung Bản án tại phụ lục 01 của luận văn
XÁC ĐỊNH VÀ ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT
Chủ thể xác định tập quán
Theo Điều 45 BLTTDS năm 2015, Tòa án có thể áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định Tập quán phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Đương sự có quyền viện dẫn tập quán khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc và Tòa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán theo quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự Nếu các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau, tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc BLDS năm 2015 cũng quy định rằng khi không có thỏa thuận và pháp luật không quy định, tập quán có thể được áp dụng nhưng không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự tại Điều 3.
Theo Điều 4 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, trong việc giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có áp dụng tập quán, nếu hòa giải không thành công hoặc vụ việc không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Theo quy định, Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền xác định tập quán để giải quyết các tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình.
15 Khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
16 Khoản 2 Điều 5 Bộ luật Dân sự 2015
17 Điều 4 Nghị định 126/2014/NĐ-CP phán khi công nhận sự thỏa thuận theo Điều 213 BLTTDS trước khi mở phiên tòa và Hội đồng xét xử tại các phiên tòa
Nhiều bản án đã được Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp, như Bản án số 42/2010/DS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2010 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An và Bản án số 192/2009/DSPT ngày 24/7/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
Việc xác định tập quán phù hợp vẫn còn nhiều tranh cãi Theo quan điểm của tác giả, lựa chọn tập quán cần tuân thủ các nguyên tắc nhất định để đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả.
Tập quán cần phải phổ biến trong cộng đồng, được nhiều người biết đến và chấp nhận Hành vi phổ biến thể hiện tính cộng đồng tại địa phương, được công nhận bởi người dân ở xã, phường, thị trấn hoặc các cơ quan có thẩm quyền.
Ví dụ: Bản án Dân sự sơ thẩm số 13/2018/DS-ST ngày 24 tháng 5 năm 2018 của TAND huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp 20
Trong ngày lễ Đính hôn, gia đình nhà trai, ông H, đã trao cho bà T, gia đình nhà gái, sính lễ bao gồm 40.000.000 đồng tiền phụ đám nói và 42,5 chỉ vàng 24k cùng đôi bông hột xoàn trị giá 23.000.000 đồng Tuy nhiên, do xảy ra mâu thuẫn, hai bên không tổ chức đám cưới như dự định Tòa án đã đình chỉ yêu cầu về tiền phụ đám nói và chỉ chấp nhận phần khởi kiện liên quan đến 42,5 chỉ vàng 24k và đôi bông hột xoàn Trong quá trình giải quyết, ông H đã rút lại yêu cầu kiện đòi 40.000.000 đồng tiền phụ đám nói.
Chị Lan và anh Lộc gặp mâu thuẫn trong mối quan hệ hôn nhân, khi chị Lan cho rằng anh đã hủy hôn trước, trong khi anh Lộc phản bác điều này Anh Lộc cho biết gia đình đã thống nhất rằng sau khi cưới, chị Lan sẽ ở nhà chồng và không đi làm, nhưng chị không đồng ý với phương án này Do đó, khi chị Lan yêu cầu được đi làm, gia đình anh Lộc đã quyết định không gả chị cho anh.
Tòa án đình chỉ phần tiền phụ đám thể hiện việc áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp giữa các đương sự Tiền phụ đám được coi là tập quán khi nhà trai gửi một khoản tiền cùng với các sính lễ khác đến nhà gái.
18 Nội dung Bản án tại phụ lục 01 của luận văn
19 PGS-TS Đỗ Văn Đại, ThS Lê Thị Diễm Phương, Bài đăng Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 01(80)/2014 - 2014, Trang 71-80
Phụ lục 03 của luận văn đề cập đến ý nghĩa của các khoản tiền và món quà từ nhà trai dành cho nhà gái, thể hiện lòng biết ơn đối với việc sinh thành và dưỡng dục cô dâu Trong vụ án này, HĐXX đã bác yêu cầu phản tố của chị Lan và bố, đồng thời buộc anh Lộc phải bồi thường thiệt hại về danh dự và nhân phẩm Theo HĐXX, nguyên nhân hôn nhân không diễn ra là do sự thiếu hiểu biết và thông cảm giữa hai gia đình.
Lễ cưới không diễn ra gây thiệt hại cho cả hai bên, nhưng chị Lan và ông Nam không có chứng cứ chứng minh thiệt hại về danh dự và nhân phẩm Do đó, HĐXX đã bác yêu cầu phản tố của chị Lan Những hành vi không phổ biến, không được cộng đồng thừa nhận và không tồn tại lâu dài không được xem là tập quán.
Thứ hai, tập quán là những quy tắc xử sự tồn tại trong thời gian dài trong cộng đồng dân cư
Ví dụ: Vụ án tại huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ 22
Vợ chồng ông H.P.P và bà T.K.C ở huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ đã tổ chức đám cưới cho con trai vào ngày 6.11.2012 Trong buổi lễ đám hỏi, nhà gái đã tiến hành đám cưới và nhà trai cử 30 người tham dự, tặng cô dâu một lượng vàng 24k cùng 30 triệu đồng để hỗ trợ chi phí tổ chức tiệc cưới Hai gia đình đã thống nhất tổ chức tiệc cưới theo phong tục truyền thống.
Vài ngày sau khi vợ ông P phải phẫu thuật cánh tay tại TP.HCM, ông P đã nhờ con dâu mới về trông coi cửa hàng Vào ngày mồng 4 Tết năm 2013, gia đình ông P sang thăm nhà thông gia thì bất ngờ nhận được thông báo hủy hôn từ bố cô dâu, kèm theo việc trả lại vàng cưới Mặc dù ông P đã hỏi lý do nhưng không nhận được bất kỳ giải thích nào, khiến ông cảm thấy bức xúc vì nhà gái hủy hôn mà không hoàn trả đầy đủ.
Ông P đã kiện để đòi lại 30 triệu đồng đã nhận, cho rằng theo phong tục địa phương, nhà gái tự tổ chức đám hỏi và không dùng tiền nạp tài cho lễ này Tuy nhiên, quan điểm này là cá nhân ông, vì thực tế tập quán này không tồn tại và không được cộng đồng chấp thuận.
Tòa sơ thẩm đã xác định rằng gia đình ông P đã đưa vàng và tiền làm tài sản cho nhà gái, tuy nhiên ông không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho việc này, do đó đơn kiện của ông đã bị bác bỏ.
21 https://webdamcuoi.com/le-nap-tai-la-gi/
Nội dung của tập quán
Điều 5 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự
Nội dung của tập quán được xác định là quy tắc xử sự rõ ràng, điều chỉnh các vấn đề cụ thể Đối với HNGĐ, các nội dung này bao gồm kết hôn, ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con và các vấn đề liên quan khác.
23 Khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015
Theo Điều 3 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, để xác định một hành vi là tập quán có thể làm căn cứ giải quyết tranh chấp trong hôn nhân và gia đình, tập quán đó cần phải đáp ứng các yêu cầu về nội dung nhất định.
Thứ nhất, nội dung của tập quán phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của LHNGĐ
Các nguyên tắc trong hôn nhân gia đình (HNGĐ) bao gồm hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng và bình đẳng giữa vợ chồng Ngoài ra, quan hệ hôn nhân giữa các công dân Việt Nam thuộc các dân tộc và tôn giáo khác nhau, cũng như giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, cần được tôn trọng và bảo vệ Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành công dân có ích cho xã hội, trong khi con cái phải kính trọng và chăm sóc ông bà Các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc và hỗ trợ lẫn nhau, không phân biệt đối xử giữa các con, đồng thời cần bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
TAND tỉnh Tây Ninh đã tiến hành xử phúc thẩm một vụ kiện, trong đó quyết định sửa án sơ thẩm bằng cách chia đôi sính lễ, nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ.
Ông N đã khởi kiện sau khi gia đình ông tổ chức đám hỏi cho hai con vào ngày 1-10-2017, với dự kiến đám cưới vào ngày 21-11-2017 âm lịch Tại đám hỏi, ông N đã chi tổng cộng 25 triệu đồng và 37,9 triệu đồng tiền nữ trang Tuy nhiên, mâu thuẫn phát sinh khi gia đình ông N nghe thông tin từ gia đình nhà gái chê bai về số tiền và vàng đã đưa Kết quả là đám cưới không được tổ chức như dự định, dẫn đến việc ông N quyết định khởi kiện.
T phải trả lại 8 triệu đồng tiền nhà trai lo quần áo cô dâu và tiền phụ đám cưới cùng toàn bộ số vàng ước tính thành tiền là 37,9 triệu đồng (tổng cộng 45,9 triệu đồng) Đối với số tiền 10 triệu đồng còn lại, do đã làm chi phí cho đám hỏi nên ông N không yêu cầu trả lại
Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N., buộc chị T phải trả cho ông N số vàng cưới tương đương với giá trị 37,9 triệu đồng.
C trả cho ông N., số tiền 5 triệu đồng Sau đó chị T và bà C kháng cáo
Theo Tòa phúc thẩm cho rằng nhà gái, nhà trai cùng có lỗi, nên chỉ buộc chị
T có nghĩa vụ trả lại 1/2 số vàng cưới, tương đương với 18,9 triệu đồng Bà C có nghĩa vụ trả lại 1/2 số tiền 5 triệu đồng là tiền nạp tài đám cưới
25 https://plo.vn/phap-luat/kien-dau-hut-doi-vang-vi-bi-huy-hon-808384.html (Phụ lục 7)
Nguyên nhân hủy đám cưới theo tác giả xuất phát từ cả hai gia đình, do việc không tìm hiểu thông tin chính xác từ hai phía và thiếu thiện chí trong việc giải quyết mâu thuẫn Bên cạnh đó, chị T và chồng chưa cưới cũng không dành đủ thời gian để tìm hiểu lẫn nhau, dẫn đến việc không có cơ hội giải quyết các vấn đề phát sinh.
Việc nhà trai đòi lại toàn bộ sính lễ là không phù hợp do lỗi của cả hai bên Theo tập quán địa phương, sau lễ đính hôn, cô dâu và chú rể được coi như vợ chồng mặc dù chưa đăng ký kết hôn hoặc tổ chức đám cưới chính thức Vì vậy, tài sản này được xem là tài sản chung của hai vợ chồng Khi hôn nhân không đạt được mục đích, việc chia đôi tài sản là hợp lý theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Trong thực tế, có những trường hợp mà TAND tại một số địa phương chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của nhà trai trong việc đòi lại vàng cưới.
Ví dụ: TAND huyện Cái Bè Tiền Giang xét xử sơ thẩm vụ án dân sự đòi vàng cưới 26
Anh N và chị H đã phát triển tình cảm từ mối quan hệ quen biết và dự định tổ chức lễ cưới Tuy nhiên, cả hai đều từng có gia đình riêng, trong đó anh N có một con riêng nhưng chưa hoàn tất thủ tục ly hôn với vợ.
Ngày 8/5/2016, gia đình anh N đã đến hỏi cưới chị H và được gia đình chị
H đồng ý Anh N có nộp tài 2.000.000 đồng; 6,5 chỉ vàng 24k gồm dây chuyền 3,5 chỉ, một lắc hai chỉ, một đôi bông tai một chỉ và chiếc vòng 3,5 chỉ vàng 18k Gia đình hai bên chọn ngày 11/6/2016 âm lịch sẽ tổ chức lễ cưới
Khi anh N chuẩn bị trình thiệp để tổ chức lễ cưới, gia đình chị H bất ngờ phản đối Lý do là vợ cũ của anh N đã đến nhà và ngăn cản việc tổ chức lễ cưới.
Theo HĐXX, việc anh N nộp vàng cho chị H để tổ chức lễ cưới đã xảy ra và chị H đã nhận quản lý số vàng đó Tuy nhiên, do lễ cưới không diễn ra, yêu cầu của anh N về việc trả lại vàng là hợp lý Dựa trên phong tục tập quán, việc chị H nhận vàng cưới mà không tổ chức lễ cưới đã tạo ra cơ sở cho yêu cầu này, bất kể nguyên nhân dẫn đến việc không tổ chức lễ cưới là gì.
Áp dụng tập quán trong việc giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân
Do chưa có quy định về việc áp dụng tập quán nên hoạt động này có sự không thống nhất như sau:
2.2.1 Tòa án không áp dụng tập quán mặc dù tập quán có tính phổ biện và tồn tại ở địa phương
Ví dụ: Vụ án đòi lại sính lễ 31 tại TAND huyện Giá Rai, Bạc Liêu
TAND huyện Giá Rai, Bạc Liêu đã yêu cầu gia đình cô N hoàn trả gần 23 chỉ vàng và 10 triệu đồng tiền mặt cho gia đình anh P do đám cưới giữa hai người bị hủy bỏ vì mâu thuẫn giữa hai bên gia đình.
TAND huyện Giá Rai đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc gia đình cô
N phải hoàn trả đầy đủ lễ vật Theo Tòa án, đây là hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện Nguyên đơn dùng số tiền, vàng trên làm lễ vật tặng nhà gái là để đạt điều kiện hai trẻ cưới nhau Thực tế không có đám cưới, nhà trai đòi lại lễ vật là hợp lý, cần chấp nhận Cạnh đó, các bên không yêu cầu bồi thường thiệt hại do không thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho tài sản nên tòa không xem xét đến phần lỗi của các bên
Trong trường hợp này, phán quyết của Tòa án thiếu thuyết phục do không xem xét đến việc áp dụng tập quán Các lý do sau đây làm cho bản án này không đủ sức thuyết phục.
Theo khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, đương sự có quyền viện dẫn tập quán khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự Tuy nhiên, trong vụ án này, gia đình và cô N đã nêu rõ tập quán lâu đời tại địa phương nhưng không được Tòa án xem xét áp dụng.
31 https://plo.vn/thoi-su/doi-lai-sinh-le-345654.html (Phụ lục 11)
Bản án của Tòa án chưa đảm bảo tính công bằng, vì cô N cho rằng quyết định này không xem xét đầy đủ phong tục, tập quán và phẩm giá của phụ nữ Tòa án cũng chưa thấu lý đạt tình khi không xem xét lý do hủy hôn và không xác định rõ phần lỗi của nguyên đơn, dẫn đến việc họ không phải chịu trách nhiệm bồi thường một phần vật chất.
Trong trường hợp này, tác giả nhận thấy có các vướng mắc sau:
Tòa án cần xác định lỗi của các bên trước khi đưa ra phán quyết, với nhà gái có trách nhiệm trả lại lễ vật nếu lỗi thuộc về họ Ngược lại, nếu nhà trai có lỗi, họ phải bồi thường uy tín và danh dự cho nhà gái Trong trường hợp cả hai bên đều có lỗi, trách nhiệm sẽ được chia đều Việc xác định yếu tố lỗi là cần thiết trong mọi quan hệ dân sự và không thể bỏ qua chỉ vì bên liên quan không yêu cầu Nếu nguyên nhân hủy cưới do nhà trai, họ sẽ mất toàn bộ lễ vật, vì đó là tài sản đã cho con dâu tương lai mà họ không thừa nhận Những gì đã cho đi sẽ không thể lấy lại.
Trong vụ án này, Tòa chỉ tập trung vào các yếu tố lý tính mà chưa xem xét đến yếu tố tình cảm Phẩm giá của người con gái là điều thiêng liêng, đặc biệt trong việc cưới hỏi, một sự kiện quan trọng suốt đời Khi người khác thực hiện thủ tục dạm ngõ rồi lại từ chối, uy tín của cô gái sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Ví dụ: Thông gia kiện nhau 32
Chị Trang và anh Cường đã kết hôn tại Mỹ, nhưng trước đó, hai gia đình đã thống nhất tổ chức đám cưới theo phong tục Việt Nam Tuy nhiên, sau một thời gian, mâu thuẫn phát sinh và họ đã ly hôn tại Mỹ.
Bà Hoa đã kiện ông Biển để đòi lại 80 triệu đồng mà bà đã chuyển cho ông để đặt cọc nhà hàng tổ chức tiệc cưới Ông Biển đã chuyển cho con trai 160 triệu đồng để mua nhẫn cưới, áo cưới, giày cưới và vé máy bay cho bà Hoa, nhưng chị Trang cho rằng mình không nhận được số tiền này và không có chứng cứ chứng minh cô dâu đã nhận Do đó, bà Hoa đã rút một phần yêu cầu và chỉ đòi 50 triệu đồng Tòa án đã chấp nhận yêu cầu của bà Hoa và yêu cầu ông Biển phải trả lại 50 triệu đồng.
32 https://laodong.vn/phap-luat/bi-hai-chuyen-thong-gia-kien-thong-gia-de-doi-sinh-le-545421.ldo (Phụ lục 4)
Bà Hoa đã thành công trong việc đòi lại 50 triệu đồng nhờ vào các bằng chứng xác thực Số tiền mà bà chuyển cho ông Biển không phải là một món quà tặng mà thực chất là khoản vay tạm thời, theo quy định của pháp luật được gọi là Hợp đồng vay tiền Do đó, phán quyết của Tòa án trong trường hợp này là hoàn toàn hợp lý.
Tuy nhiên trong vụ án này, chị Trang và anh Cường dù đăng ký kết hôn ở
Việc tổ chức đám cưới tại Việt Nam theo phong tục tập quán của người Việt đã không được Tòa án xem xét đúng mức trong vụ án này Trong quá trình xét xử, Tòa không hướng dẫn nhà gái về tập quán sính lễ và không xem xét số tiền 160 triệu đồng mà ông Biển đã tuyên bố đưa cho con trai để lo cho đám cưới Hệ quả là nhà gái không chỉ mất tiền mà còn bị thiệt thòi do tập quán không được áp dụng.
2.2.2 Cùng một tập quán nhưng các Tòa án khác nhau áp dụng khác nhau
Bản án số 42/2010/DS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2010 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Long An đã nhấn mạnh rằng theo tập quán địa phương, việc tặng hoa tai và tiền cho cô dâu để may trang phục cưới là bắt buộc Do đó, bà Thoa có quyền giữ lại những tài sản này, và Tòa án chỉ chấp nhận một phần khởi kiện của đương sự.
Ví dụ: Bản án số 192/2009/DSPT ngày 24/7/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã áp dụng quy định về việc tặng cho tài sản có điều kiện, yêu cầu nhà gái hoàn trả sính lễ cho nhà trai Cụ thể, ông Thọ đã tặng nhà gái đôi bông hột xoàn, 20 chỉ vàng và 15.000.000đ trong lễ đính hôn, được chị Kha và bà Tư xác nhận Theo phong tục, việc tặng cho chỉ có hiệu lực khi anh Sơn và chị Kha kết hôn, vì vậy số tiền và vàng chưa được coi là tài sản của bên nhận Chị Kha và bà Tư đã hoàn trả ông Thọ đôi bông hột xoàn và 15.000.000đ, nhưng ông Thọ chỉ nhận lại 10 chỉ vàng.
24 K là đã có lợi cho bị đơn; Đồng thời, vào ngày 12/01/2008 và ngày 07/3/2008, bà
Bà Tư đã ký cam kết trả lại cho ông Thọ 10 chỉ vàng 24K nhưng không thực hiện Vì lý do này, bản án sơ thẩm yêu cầu chị Kha và bà Tư phải hoàn trả số vàng cho ông Thọ.
10 chỉ vàng là có căn cứ theo quy định tại Điều 256 và 470 của Bộ luật dân sự” 34
Tòa án đã không sử dụng tập quán để giải quyết tranh chấp này Mặc dù vậy, ông Thọ chỉ yêu cầu 10 chỉ vàng 24K, điều này có lợi cho nhà gỏi.
33 Nội dung Bản án tại phụ lục 01 của luận văn
34 Đỗ Văn Đại, Lê Thị Diễm Phương (2014), Bài đăng Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 01(80), tr.71-80