TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG RA ĐỜI
Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập, tự chủ trở thành một nước thuộc địa
Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam đã hình thành từ rất sớm trong quá trình dựng nước và giữ nước, thể hiện qua truyền thống đoàn kết và bất khuất Dân tộc ta đã từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược mạnh mẽ như quân Tần, quân Mông-Nguyên, quân Hán và quân Thanh Tuy nhiên, vào năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, và điều này không chỉ làm suy yếu tinh thần yêu nước mà còn khiến triều đình nhà Nguyễn dần đầu hàng Ngày 6 tháng 6 năm 1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Patơnốt đã hoàn toàn nhượng bộ nước ta cho đế quốc Pháp, dẫn đến việc Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp Từ đó, chúng bắt đầu thiết lập một chế độ thống trị tàn bạo và phản động, áp đặt chủ nghĩa thực dân lên đất nước ta.
Thực dân Pháp đã nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, khiến vua quan nhà Nguyễn trở thành bù nhìn Hơn nữa, họ thực hiện chính sách chia để trị, gây rạn nứt giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương và thành lập xứ Đông Dương thuộc Pháp, nhằm xoá bỏ danh tính của các nước Việt Nam, Lào.
Campuchia trên bản đồ thế giới thể hiện sự cai trị chuyên chế, với bộ phận tay sai mạnh mẽ phục vụ cho công cuộc bình định và quản lý Điều này tạo ra sự liên kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng cho chế độ thuộc địa Dưới sự cai trị của chính quyền thuộc địa, nhân dân Campuchia bị tước đoạt hoàn toàn quyền độc lập và tự do dân chủ.
Chính quyền thực dân Pháp đã lợi dụng chiến tranh để phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, bóc lột tàn bạo nhân dân Việt Nam nhằm cung cấp nguyên liệu cho mẫu quốc Họ thực hiện chính sách độc quyền, hạn chế phát triển công nghiệp và kìm hãm nền kinh tế độc lập của đất nước Bằng cách áp đặt hàng trăm loại thuế vô lý và duy trì chế độ bóc lột phong kiến, nhân dân ta bị đẩy vào cảnh nghèo đói, khiến nền kinh tế kiệt quệ và phụ thuộc chặt chẽ vào kinh tế Pháp.
1.1.3 về văn hóa-xã hội
Thực dân Pháp đã áp dụng chính sách ngu dân nhằm duy trì quyền lực lâu dài tại Việt Nam, lợi dụng việc truyền đạo để khuyến khích văn hóa nô dịch và sự phục tùng Họ tạo ra sự tự ti trong nhân dân, kìm hãm sự phát triển và kiến thức, từ đó dễ dàng cai trị và đồng hóa đất nước.
Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã gây ra sự phân hóa sâu sắc trong xã hội Việt Nam, dẫn đến sự xuất hiện của các giai cấp mới như công nhân và tư sản Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến đã trở nên gay gắt hơn, đồng thời xuất hiện mâu thuẫn lớn hơn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp Đây là mâu thuẫn cơ bản, phản ánh bản chất của một xã hội thuộc địa Những mâu thuẫn này ngày càng gia tăng, yêu cầu cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn liền với việc giải quyết vấn đề giai cấp và đòi quyền dân sinh, dân chủ Nhận thấy điều này, Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập một tổ chức Đảng để lãnh đạo nhân dân trong cuộc đấu tranh này.
Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự tàn bạo và chuẩn bị nền tảng cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, chỉ cần gieo hạt giống cho công cuộc giải phóng Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Pháp đã lấn át phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời, dẫn đến sự phân hoá các giai cấp cũ và hình thành cấu trúc giai cấp mới.
Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng cộng sản Việt Nam
Dân tộc Việt Nam, với lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đoàn kết, đã kiên cường chống lại sự xâm lược của đế quốc Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX cho đến nay Hơn 300 cuộc đấu tranh anh dũng đã diễn ra, tuy nhiều phong trào không thành công, nhưng chúng cho thấy con đường tư sản không đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc Những cuộc kháng chiến này là bài học xương máu, thể hiện tinh thần yêu nước bất diệt của nhân dân Việt Nam qua các thế hệ.
1.2.1 Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
Tiêu biểu nhất cho phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến là phong trào Cần vương Ngày 13/7/1885, Vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương.
Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kỳ, Trung
Vào ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục cho đến năm 1896 Trong giai đoạn hưng thịnh, giai cấp phong kiến đã từng lãnh đạo dân tộc đánh bại các thế lực phong kiến phương Bắc, nhưng khi chế độ phong kiến suy tàn và đối mặt với đế quốc Pháp hùng mạnh, họ trở nên bất lực và thậm chí trở thành tay sai cho thực dân Mặc dù có sự ủng hộ từ một bộ phận nhân dân, phong trào Cần Vương cuối cùng cũng thất bại, đánh dấu sự chấm dứt của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ tư tưởng phong kiến Thất bại này cho thấy phong trào đã trở nên lỗi thời và không còn phù hợp với điều kiện đất nước, đồng thời phản ánh sự thiếu đường lối đúng đắn và không đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân trong bối cảnh chế độ phong kiến đã thối nát.
Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành thắng lợi.
1.2.2 Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản.
Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến đã thất bại, tạo điều kiện cho sự phát triển của các hệ tư tưởng yêu nước khác, đặc biệt là xu hướng tư sản.
Nhiều người Việt Nam yêu nước đã chọn con đường ra nước ngoài để tìm kiếm giải pháp cho việc giải phóng dân tộc Các phong trào như Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo, Đông Kinh Nghĩa Thục, và Duy Tân do Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng dẫn dắt đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh này.
Phong trào Đông Du của Phan Bội Châu tìm kiếm sự hỗ trợ từ Nhật Bản, quốc gia đế quốc mạnh nhất châu Á thời bấy giờ Dù Bác Hồ rất ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng ông không đồng tình với cách tiếp cận của họ Ông cho rằng việc dựa vào Nhật để chống Pháp giống như "đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau", vì cả Pháp và Nhật đều là đế quốc với mục tiêu chung là nô dịch các nước thuộc địa.
Phong trào Duy Tân, do Phan Châu Trinh lãnh đạo, tập trung vào việc nâng cao dân trí và khôi phục tinh thần dân tộc, đồng thời phản đối chính sách cai trị của thực dân Pháp và khuyến khích cải cách Mặc dù nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các trí thức yêu nước, phong trào cuối cùng đã thất bại do những chủ trương cải cách không thực tế và tính chất thoả hiệp.
Khuynh hướng dân chủ tư sản đã tạo điều kiện cho sự ra đời của Việt Nam quốc dân đảng, do Nguyễn Thái Học và Phạm Tuấn Tài sáng lập, với mục tiêu đánh đuổi thực dân Pháp và lật đổ chế độ phong kiến Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là chủ quan, tổ chức này và cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã phải đối mặt với sự đàn áp đẫm máu từ thực dân Pháp, đánh dấu sự kết thúc cho vai trò lãnh đạo của giai cấp tư sản trong phong trào cách mạng Việt Nam.
1.2.3 Các phong trào đấu tranh của nhân dân; công, nông binh,
Dưới ảnh hưởng của các phong trào dân tộc và dân chủ, yêu cầu về quyền tự do, bình đẳng và quyền sống gia tăng, phong trào nông dân trở nên sôi nổi với các hoạt động như biểu tình giảm sưu thuế và đập phá huyện đường, nổi bật là khởi nghĩa nông dân ở Yên Thế Tuy nhiên, mục tiêu chính của các phong trào này là giảm bớt gánh nặng thuế má, thoát khỏi sự áp bức của địa chủ phong kiến và cải thiện điều kiện sống khó khăn của họ.
Mặc dù giai cấp công nhân còn non trẻ và chưa đông đảo, họ đã nhận thức rõ trách nhiệm và vai trò của mình trong các phong trào đấu tranh mạnh mẽ, như cuộc đình công của công nhân tàu biển và bãi công bạo động tại công trường đường sắt Yên Bái.
Trong bối cảnh phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, một lực lượng mới nổi lên là binh lính người Việt trong quân đội Pháp Họ tham gia khởi nghĩa vì nhận thức rõ tội ác của thực dân Pháp trong các cuộc bình định đẫm máu, đồng thời nhiều người bị ép buộc phải phục vụ và phải chịu sự đối xử khinh miệt, ngược đãi Bên cạnh đó, các dân tộc thiểu số như người Mường, Tày cũng tham gia các cuộc đấu tranh, gây khó khăn cho thực dân Pháp, cùng với hàng ngàn cuộc khởi nghĩa khác trên toàn quốc.
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Điều kiện, tình hình của thế giới
Chủ nghĩa Mác được hình thành và sau đó được Lênin phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lê nin, thu hút đông đảo quần chúng và những người ưu tú tại các nước thuộc địa tham gia vào phong trào cộng sản Từ khi chủ nghĩa Mác - Lê nin được giới thiệu tại Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào công nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ theo hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự hình thành các tổ chức cộng sản tại Việt Nam.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã tạo ra ảnh hưởng sâu sắc đến các cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam, khi nêu gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh rằng cách mạng này đã đánh thức nhân dân châu Á sau nhiều thế kỷ ngủ quên và chỉ ra rằng để đạt được thành công trong cách mạng, cần có sự tham gia của quần chúng, một đảng vững mạnh, lòng kiên trì, hy sinh và sự thống nhất Ông cũng khẳng định tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc dẫn dắt phong trào cách mạng Sự kiện này còn đánh dấu sự ra đời của nhiều đảng cộng sản tại châu Âu như Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Hungari (1918) và Đảng Cộng sản Pháp (1919).
Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản Và nó đã có ảnh hưởng lớn đến sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và sự thành lập của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước trong nước
Tuy các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra trên khắp cả nước, mặc dù nhận được sự ủng hộ từ một bộ phận nhân dân, nhưng tất cả đều thất bại, cho thấy con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã bế tắc Cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng sâu sắc về đường lối và giai cấp lãnh đạo Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là cần tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp đủ tư cách đại diện cho quyền lợi của dân tộc, có uy tín và năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đến thành công.
Con đường tìm đường cứu nước - con đường “cách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc
Năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước mang tên
Nguyễn Tất Thành đã rời Việt Nam để tìm kiếm con đường cứu nước, bắt đầu hành trình từ Pháp và sau đó đến các quốc gia châu Âu, châu Á và châu Phi Ông đánh giá cao các giá trị tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người từ những cuộc cách mạng tư sản như Cách mạng Mỹ (1776) và Cách mạng Pháp (1789) Tuy nhiên, Nguyễn Tất Thành cũng nhận thức rõ ràng những hạn chế của các cuộc cách mạng này, nhận thấy rằng chúng không thể mang lại độc lập và hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 - 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng Người tìm thấy con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam: về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới,
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp vào tháng 12 năm 1920, Người đã quyết định gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời cách mạng của mình Từ một người yêu nước, Người đã trở thành một người cộng sản, nhận thức rằng để cứu nước, cần phải giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác.
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, đồng thời xác định phương hướng chiến lược cho cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Qua các bài báo như Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), ông đã vạch trần âm mưu của chủ nghĩa đế quốc, khơi dậy tinh thần yêu nước và thức tỉnh ý chí dân tộc, nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu Sau đó, tháng 6-1925 Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với mục đích là làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới Nếu sau khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân; mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân; tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa; thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 đến 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã tổ chức các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng, góp phần xây dựng nhiều cơ sở trong nước Đến năm 1928, Hội Việt Nam triển khai chủ trương “vô sản hóa” nhằm thúc đẩy phong trào cách mạng tại Việt Nam.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã sáng tác cuốn Đường cách mệnh, tác phẩm này đề cập đến những vấn đề cơ bản của cương lĩnh chính trị, chuẩn bị tư tưởng cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam Ngoài việc đào tạo cán bộ, ông cũng sáng lập nhiều tờ báo như Thanh niên, Công nông, lính cách mệnh và Tiền phong nhằm thức tỉnh và giác ngộ quần chúng, thúc đẩy phong trào đấu tranh yêu nước phát triển theo con đường cách mạng vô sản.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
2.4.1.Sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Tại số nhà 5D Hàm Long, Hà Nội, một nhóm hội viên tiên tiến từ tổ chức Thanh niên ở Bắc đã hình thành từ sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Kỳ đã lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam vào cuối tháng 3- 1929.
Vào ngày 17-6-1929, tại 312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ đã tổ chức Đại hội và quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng Tuyên ngôn của Đảng nhấn mạnh mục tiêu tổ chức đại đa số công nhân và nông dân để chống lại đế quốc chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa, và chế độ phong kiến Đảng hướng đến việc giải phóng công nông, thực hiện xã hội bình đẳng, tự do và bác ái, tức là xây dựng một hội cộng sản.
An Nam Cộng sản Đảng được thành lập vào tháng 7/1929 bởi các đồng chí trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ, nhằm đáp ứng yêu cầu của phong trào cách mạng Điều lệ của Đảng quy định rằng bất kỳ ai tin theo chương trình của Quốc tế Cộng sản, tích cực tham gia vào một bộ phận đảng, tuân theo mệnh lệnh và đóng góp phí đều có thể gia nhập Sự ra đời của An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Đảng đã dẫn đến sự phân hóa mạnh mẽ trong nội bộ Đảng Tân Việt, từ đó những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Mặc dù ba tổ chức cộng sản ra đời đều hướng tới mục tiêu chống đế quốc và phong kiến, đồng thời nhận được sự ủng hộ từ quần chúng, nhưng sự phân tán và tranh giành ảnh hưởng giữa chúng đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến phong trào cách mạng Việt Nam, dẫn đến nguy cơ mất đoàn kết Do đó, việc khắc phục sự chia rẽ và thống nhất giữa các tổ chức cộng sản trở thành yêu cầu cấp bách, quan trọng cho cách mạng Việt Nam, đặc biệt là đối với những người cộng sản như Nguyễn Ái Quốc.
2.4.2 Hội nghị thành lập Đảng-Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng yêu nước và sự ra đời của ba tổ chức cộng sản (Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản liên đoàn) đã dẫn đến nguy cơ chia rẽ lớn trong cách mạng Việt Nam Đáp ứng yêu cầu của Quốc tế Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc được giao nhiệm vụ hợp nhất các tổ chức này, nhấn mạnh rằng để cách mạng thành công, cần có một đảng lãnh đạo vững mạnh Ông khẳng định rằng chủ nghĩa Lênin là nền tảng vững chắc cho sự thành công của đảng và cách mạng Trước tình hình cấp bách, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng chuẩn bị nhân lực và văn kiện cho việc hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Vào ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản tại Hương Cảng, Trung Quốc, sau khi công tác chuẩn bị đã hoàn tất.
Hội nghị thảo luận đã quyết định bỏ qua mọi thành kiến xung đột cũ và sự chia rẽ, từ đó thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Dưới sự soạn thảo của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị thông qua chính cương, sách lược và điều lệ tóm tắt, cùng với lời kêu gọi của ông nhân dịp thành lập Đảng Đồng thời, hội nghị cũng bầu Ban chấp hành trung ương lâm thời, đánh dấu sự ra đời chính thức của Đảng với các văn kiện này được coi là cương lĩnh đầu tiên.
Quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát Tại Đại hội VII của Đảng năm 1991, sự kiện này được nhấn mạnh và khẳng định tầm quan trọng của Đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng tiêu biểu cho sự kết nối giữa giai cấp và dân tộc, cũng như giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.4.3 Ý nghĩa của việc Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp Đảng ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam, là “một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta
Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
Hội nghị thành lập Đảng đã hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo ra một đường lối chính trị đúng đắn và thống nhất phong trào cách mạng cả nước Đảng xác định con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo hướng vô sản, từ đó nắm bắt ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng và giải quyết khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau này.
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM-NHÂN TỐ LÀM NÊN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG
Đảng Cộng sản Việt Nam đưa cuộc cách mạng tháng 8/1945 đến thắng lợi
Thứ nhất, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa.
Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng
Từ năm 1930 đến 1931, cuộc tổng diễn tập đầu tiên cho Cách mạng Tháng Tám diễn ra, tiếp theo là cao trào dân chủ từ 1936 đến 1939, đánh dấu cuộc tổng diễn tập thứ hai Cuộc vận động giải phóng dân tộc từ 1939 đến 1945 là cuộc diễn tập thứ ba, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám Trong thời kỳ kháng Nhật, Đảng đã có những nhận định đúng đắn và chỉ đạo kịp thời qua chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12-3-1945 Sau đó, Đảng đã lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, tạo ra làn sóng khởi nghĩa phát triển nhanh chóng và đồng loạt ở nhiều nơi, với quần chúng nhân dân được chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
Sự thông minh của Đảng trong việc phân tán kẻ thù và lôi kéo lực lượng trung gian là rất quan trọng Mặc dù tầng lớp trung gian không phải là lực lượng quyết định trong các bước ngoặt lịch sử, nhưng khi họ ủng hộ cách mạng, điều này tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự thành công của cuộc cách mạng Ngược lại, nếu Đảng không tranh thủ được sự ủng hộ từ tầng lớp trung gian, thì mặc dù thời cơ có thể đã đến, cách mạng vẫn khó có thể đạt được thắng lợi nhanh chóng.
Đảng đã chớp đúng thời cơ, đề ra đường lối cách mạng phù hợp và lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền Tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương vào tháng 5 năm 1941, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, đã quyết định thay đổi chiến lược cách mạng để phù hợp với điều kiện thực tiễn Đảng đã thành lập Mặt trận Việt Minh và chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa Qua đó, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, lãnh đạo toàn dân nhanh chóng chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc.
Bài viết "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết và sáng suốt trong bối cảnh cao trào tiền khởi nghĩa, khi Đảng tập trung vào việc chống lại phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn Mục tiêu chính là tổng khởi nghĩa giành chính quyền Ngày 13-8-1945, khi quân Nhật tan rã và xin đầu hàng, Hội nghị toàn quốc của Đảng được khai mạc ở Tân Trào Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân nổi dậy, nhấn mạnh rằng Đảng sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân chớp lấy cơ hội này, điều này đóng vai trò quyết định cho sự thành công của cuộc khởi nghĩa.
Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa 2/9/1945 (Tư liệu sưu tầm).
Kết thúc thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với trí sáng tạo, tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân Nếu Đảng không chuẩn bị đầy đủ và kịp thời chớp lấy thời cơ, cách mạng sẽ không thể diễn ra, dù điều kiện khách quan có thuận lợi Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để giành thắng lợi, dẫn đến việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
3.2 Đảng lãnh đạo nhân dân giải quyết khó khăn và giành thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Cuộc kháng chiến chống Pháp thành công nhờ vào nhiều yếu tố thuận lợi cả chủ quan lẫn khách quan, nhưng yếu tố quyết định nhất chính là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo.
Thứ nhất, chiến thắng trên lĩnh vực quân sự dưới sự chỉ đạo tài tình sáng suốt của Đảng.
Khi quân Pháp có những hành động khiêu khích, Đảng ta đã nhanh chóng phát động chỉ thị Toàn dân kháng chiến, tổ chức chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 nhằm giam chân địch trong thành phố Chiến dịch Việt Bắc năm 1947 đã đánh bại kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp Nhờ vào đường lối lãnh đạo đúng đắn, Đảng và nhân dân đã giành Chiến thắng Biên giới (Thu - Đông 1950), đánh dấu bước ngoặt của cuộc kháng chiến và nắm quyền chủ động chiến lược ở đồng bằng Bắc Bộ Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân (1953 - 1954) đã phá sản kế hoạch của Pháp và đánh bại hoàn toàn các kế hoạch quân sự lớn của họ.
Cuộc chiến Điện Biên Phủ được Đảng ta quyết định mở ra nhằm tiêu diệt kế hoạch Nava của Pháp, ban đầu với chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” nhưng sau đó chuyển sang “đánh chắc tiến chắc” Thất bại của Pháp tại chiến dịch này đã buộc họ phải tham gia đàm phán và ký kết Hiệp định Giơnevơ.
Thứ hai, thắng lợi về mặt chính trị - xã hội:
Năm 1946, các chính sách và giải pháp quyết liệt đã được đưa ra để giải quyết những thách thức nghiêm trọng như xây dựng chính quyền, nạn đói, nạn dốt, và tình trạng thiếu hụt tài chính, cùng với nội xâm và ngoại phản Từ việc hòa đàm với Pháp trước ngày 6/3/1946 cho đến việc ký kết hòa bình nhằm loại bỏ Tường, các quyết sách này đã thể hiện sự sáng suốt và kịp thời trong bối cảnh đầy khó khăn.
6/3/1946 đến trước 19-12-1946 Từ 1948 đến 1950 ta đã tiến hành củng cố chính quyền dân chủ nhân dân.
Sự sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam trong việc hoạt động công khai đã được thể hiện qua việc bầu Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư Đảng đã hợp nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt, đồng thời thiết lập khối liên minh Việt - Miên - Lào Để nâng cao công tác tuyên truyền, Đảng đã cho ra đời tờ báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận chính thức Bên cạnh đó, Đảng cũng chú trọng phát triển hậu phương về mọi mặt như chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục, nhằm thực hiện đúng phương châm trong cuộc kháng chiến.
Thứ ba, lãnh đạo nhân dân ta thắng lợi về ngoại giao:
Năm 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, đánh dấu sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa từ năm 1950 Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đồng thời tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến của nước ta Chiến thắng ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ đã buộc thực dân Pháp ký Hiệp định Giơnevơ vào ngày 21/7/1954, chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp phụ thuộc vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu Đảng đã đề ra đường lối chính trị, quân sự và kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc Lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
3.3 Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ - khép lại chiến tranh
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập Nền kinh tế chậm phát triển và bị tàn phá bởi chiến tranh, dẫn đến nhiều khó khăn trong đời sống nhân dân Đối diện với một đế quốc hùng mạnh, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn, cùng với chính sách tàn bạo, Việt Nam đã phải kiên cường đấu tranh để giành lại độc lập và thống nhất.
Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, bao gồm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam Mục tiêu là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc đã xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội, đồng thời tạo ra hậu phương vững chắc để hỗ trợ miền Nam Miền Nam đã huy động mọi lực lượng yêu nước để chống lại đế quốc Mỹ và giải phóng miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, hướng tới thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
(Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày
Để hiện thực hóa đường lối cách mạng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành chiến tranh nhân dân với nhiều hình thức phong phú, từ toàn dân đánh giặc đến mỗi người dân yêu nước trở thành chiến sĩ Các làng xã, khu phố, nhà máy, trường học, và bệnh viện đều trở thành pháo đài chống Mỹ, kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang và du kích với chính quy Qua tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chúng ta đã đánh bại từng bước kẻ thù, với nhiều phương pháp và vũ khí khác nhau, làm suy yếu ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ Sau các thắng lợi lớn như “Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968” và “Đại thắng mùa xuân năm 1975”, nhân dân Việt Nam đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, ghi dấu ấn chói lọi trong lịch sử nhân loại thế kỷ XX.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ - khép lại chiến tranh
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập Nền kinh tế chậm phát triển và bị tàn phá bởi chiến tranh, khiến đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn Việt Nam phải đối mặt với một đế quốc hùng mạnh, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn, cùng với chính sách tàn bạo, đứng đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới.
Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến việc thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam Mục tiêu là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã tạo ra cơ sở vật chất và hậu phương vững chắc để hỗ trợ miền Nam Đồng thời, miền Nam đã huy động mọi lực lượng yêu nước nhằm chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ và hoàn thành nhiệm vụ giải phóng, thống nhất đất nước.
(Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày
Để hiện thực hóa đường lối cách mạng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành chiến tranh nhân dân với nhiều hình thức phong phú, từ toàn dân đánh giặc đến việc kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang Tinh thần đại đoàn kết toàn dân được phát huy, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại để từng bước đánh bại kẻ thù Qua nhiều chiến thắng quan trọng như “Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968” và “Đại thắng mùa xuân năm 1975”, nhân dân Việt Nam đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, ghi dấu ấn chói lọi trong lịch sử thế giới thế kỷ XX.
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thể hiện đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo Sự xác định này không chỉ phản ánh tầm nhìn xa trông rộng và tư duy chiến lược của Đảng mà còn phù hợp với quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố làm nên thắng lợi trong thời kì mới
Đồng chí: Nguyễn Phú Trọng (14/4/1944) hiện đang là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong thế kỷ XX, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước thuộc địa nửa phong kiến thành quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa Đất nước đã xây dựng mối quan hệ quốc tế rộng rãi và khẳng định vị thế quan trọng trong khu vực và thế giới Nhân dân từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước và xã hội Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật với tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt từ 6,5%.
Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch tích cực, với tỷ trọng ngành công nghiệp-dịch vụ gia tăng và tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm Đến năm 2019, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.800 USD, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vượt 360 tỷ USD và thu hút 18 triệu khách quốc tế.
Văn hóa-xã hội Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực với nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là chỉ số phát triển con người (HDI) Đến năm 2020, tỷ lệ người lớn biết chữ đạt 94,9%, tuổi thọ trung bình gần 73,5 tuổi và tỷ lệ nghèo giảm xuống dưới 3% Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, không khí dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng Vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, với Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập quan hệ với 228 chính đảng tại 112 quốc gia, trong đó có 59 đảng cầm quyền và 38 đảng tham chính.
Việt Nam hiện đang duy trì quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như WTO, ASEAN, APEC và ASEM Quốc gia này đã chủ động và linh hoạt trong việc ký kết cũng như thực thi 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác thương mại quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Trong suốt 90 năm qua, cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quyết định cho mọi thắng lợi, tạo nên nhiều kỳ tích cho đất nước Những thành tựu to lớn từ khi Đảng được thành lập đến nay phản ánh sự trưởng thành toàn diện của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam.
LIÊN HỆ VỚI BẢN THÂN TRƯỚC SỰ NGHIỆP, THẮNG LỢI CỦA ĐẢNG
Học tập và nghiên cứu về sự nghiệp của Đảng giúp em hiểu rõ quá trình đấu tranh cách mạng và truyền thống của Đảng, không chỉ để tự hào mà còn để nâng cao niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Điều này thúc đẩy em nỗ lực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần vào công cuộc đổi mới và đạt được những thắng lợi to lớn hơn.
Mỗi cá nhân trong công việc và học tập cần tích cực tham gia vào việc xây dựng và bảo vệ Đảng, nhằm nâng cao sự trong sạch và vững mạnh của Đảng Chúng ta cần nỗ lực học tập và rèn luyện để trở thành những đảng viên cống hiến tài năng và sức trẻ cho sự nghiệp của Đảng, đồng thời phát triển và làm phong phú thêm những thành tựu và truyền thống của Đảng Đặc biệt, cần kiên quyết chống lại các hiện tượng tiêu cực và sự chống phá từ các thế lực thù địch Mặc dù Đảng có lúc mắc sai lầm và khuyết điểm, nhưng đã nghiêm túc tự phê bình và sửa chữa để tiếp tục tiến lên Tuy nhiên, một số kẻ thù địch lại xuyên tạc và thổi phồng những sai lầm của Đảng, nhằm kích động và chia rẽ nội bộ, làm suy yếu Đảng và chế độ từ bên trong, đây là hành động hết sức thâm độc và nguy hiểm.
Việt Nam cần kiên định tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tránh để kẻ xấu lợi dụng cho mưu đồ phản động Mọi người không cần phải là quan chức lớn hay đại gia mới có thể đóng góp cho Đảng và đất nước; thực tế, những người bình thường có thể đã đóng góp nhiều hơn so với những người đã bị tù vì tham nhũng Để thể hiện lòng yêu nước và xây dựng Đảng vững mạnh, mỗi công dân và Đảng viên cần thực hiện tốt trách nhiệm của mình, học tập và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đồng thời tuyên truyền về những truyền thống tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trải qua 90 mùa Xuân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã mang lại nhiều thắng lợi to lớn, nâng cao quy mô và trình độ kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần Những thành tựu này khẳng định vị thế và uy tín của đất nước trong khu vực và thế giới Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, là yếu tố quyết định cho những thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam trong hơn 7 thập kỷ qua Đảng kiên định theo đuổi mục tiêu giành độc lập cho dân tộc và tự do hạnh phúc cho nhân dân, không ngại khó khăn, thử thách, luôn giữ vững vai trò lãnh đạo và trách nhiệm tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua nhiều thử thách, từ đó trưởng thành và tích lũy kinh nghiệm, ngày càng khẳng định vai trò lãnh đạo của mình Đảng xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân, và dân tộc Việt Nam tự hào về Đảng Cộng sản quang vinh do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập.
Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời đại diện cho nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam Dưới sự lãnh đạo của Người, sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn để đạt được vinh quang và hạnh phúc Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo duy nhất trong hệ thống chính trị, một nguyên tắc không thay đổi trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
1 Vũ Thiên Bình, Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi của sức mạnh Việt
2 Tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1930-2016 ( qua các kỳ Đại hội), nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2016.
3 Hà Minh Hồng (chủ biên), Bác Hồ với các kỳ Đại hội Đảng, nxb Trẻ, 2016
4 Thời dựng Đảng, nxb Tổng hợp TP.HCM, thành phố Hồ Chí Minh, 2013.
Trịnh Nhu và Trần Trọng Thơ đã ghi lại những sự kiện quan trọng của Cách mạng tháng 8 năm 1945, một thắng lợi vĩ đại đầu tiên của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX Cuốn sách được xuất bản bởi Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM, mang đến cái nhìn sâu sắc về ý nghĩa lịch sử và ảnh hưởng của cuộc cách mạng này đối với đất nước.
6 Văn Tiến Dũng, Đại thắng Mùa xuân, nxb Quân đội nhân dân, 1976.
7 Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, nxb Chính trị Quốc gia, Hà
8 https://toc.123docz.net/document/683712-tinh-hinh-xa-hoi-viet-nam-truoc- khi-dang-cong-san-viet-nam-ra-doi.htm, truy cập ngày 11/06/2021.