1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII.

331 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tư Tưởng Thân Dân Trong Văn Học Trung Đại Việt Nam Từ Thế Kỷ X Đến Hết Thế Kỷ XVII
Tác giả Đinh Thị Phương Thu
Người hướng dẫn GS.TS Lã Nhâm Thìn
Trường học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Chuyên ngành Ngữ văn
Thể loại Luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 331
Dung lượng 1,59 MB

Cấu trúc

  • Chương 2..............................................................................................................30 (37)
    • 2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII...................................................................................................... 1. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc........................................................ 2. Chế độ giáo dục, khoa cử..................................................................................... 2.2. Tiền đề tư tưởng, văn hóa của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ (38)
  • Chương 3..............................................................................................................52 (59)
    • 3.1. Khái quát về tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam................. 3.2. Tư tưởng thân dân trong văn học thời Lí........................................................... 3.2.1. Trọng dân và hướng tới ước nguyện của người dân............................................. 3.2.2. Ý thức về trách nhiệm trước người dân............................................................... 3.3. Tư tưởng thân dân trong văn học thời Trần....................................................... 3. Lấy dân làm gốc và khoan thứ sức dân trong thời Thịnh Trần............................. 3.3.2. Thương xót người dân và xót xa trước thế sự trong văn học thời Vãn Trần......... Tiểu kết chương 3 (59)
  • Chương 4............................................................................................................109 (0)
  • Chương 5............................................................................................................156 (0)
    • 5.1. Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỉ XVI................................................... 1. Tư tưởng thân dân trong sáng tác văn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm................. 1.1. Hướng đến nỗi khổ của người dân vì chiến tranh phong kiến......................... 1.2. Hướng đến nỗi khổ của người dân vì xã hội phong kiến suy thoái................. 2. Tư tưởng thân dân trong sáng tác văn học của Phùng Khắc Khoan........... 2.1. Trọng dân, thương dân và hướng về cuộc sống bình dị của người dân........... 2.2. Ý thức về trách nhiệm trước người dân........................................................... 5.2. Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỉ XVII.................................................. 5.2.1. Tư tưởng trọng dân, thương dân........................................................................ 5.2.2. Cách nhìn lịch sử theo quan điểm của nhân dân, phù hợp với đạo lí, chính nghĩa............................................................................................................................ Tiểu kết chương 5 (163)
  • KẾT LUẬN (202)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (210)

Nội dung

Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII.

Tiền đề lịch sử, xã hội của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII 1 Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc 2 Chế độ giáo dục, khoa cử 2.2 Tiền đề tư tưởng, văn hóa của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ

X đến hết thế kỉ XVII

2.1.1 Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc

Quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta luôn đề cao tư tưởng thân dân, coi việc chăm sóc sức dân là quốc sách quan trọng Theo sử cũ, vua Hùng Vương thứ nhất và các vua Hùng sau này đã biết chăm lo đời sống của dân, kéo dài sự hưng thịnh của triều đại Ngay từ khi lập quốc ở Phong Châu, các vua Hùng đã chia đất nước thành 15 bộ, có trưởng và tá để quản lý và chăm sóc dân Nhờ vào việc lưu tâm đến đời sống người dân, Nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có các thiết chế xã hội hoàn thiện, mang lại sự bình yên cho đất nước, khiến kẻ thù ngoại bang không thể xâm phạm Việc chăm sóc và giữ gìn lòng tin của dân là thành công đặc biệt của thời kỳ này Do đó, nhân dân các dân tộc Việt Nam luôn nhớ về công đức tổ tiên, đặc biệt trong ngày Giỗ Tổ vào 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.

Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba”

Thục An Dương Vương, với sự kiện Thục Phán lập nước Âu Lạc, đã dời kinh đô về đồng bằng, chọn Kẻ Chủ thuộc bộ Vũ Ninh (nay là Cổ Loa - Đông Anh, Hà Nội) làm trung tâm Đây là kinh đô đầu tiên của người Việt tại vùng đồng bằng, gần kề trung tâm Hà Nội hiện nay Quyết định này phản ánh tâm nguyện và ý chí của nhân dân, với việc lựa chọn địa hình bằng phẳng, rộng lớn, gần các sông hồ, thể hiện trí tuệ vô hạn của người dân và sự khéo léo của những người lãnh đạo Nhà nước Âu Lạc Thành Cổ Loa, với hơn hai nghìn năm lịch sử, vẫn là một di chỉ văn hóa quan trọng, chứng minh sự lao động tài tình của nhân dân Âu Lạc.

Thời Trưng Nữ Vương, mặc dù đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, nhưng sự tồn tại ngắn ngủi của nước này chủ yếu do kẻ thù tàn bạo, đã tàn sát gần như toàn bộ dân chúng bị bắt Hơn nữa, các lãnh đạo bộ lạc thời đó chưa thể kết nối các tầng lớp nhân dân, dẫn đến việc không thể giành lại độc lập cho đất nước.

Năm 938, Ngô Quyền đã mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, nhưng Đại Việt luôn phải đối mặt với các cuộc xâm lược từ phương Bắc và phương Nam Các triều đại phong kiến phương Bắc như Tống, Nguyên, Minh không ngừng đe dọa và thực hiện các cuộc tấn công tàn bạo vào Đại Việt, trong khi quân Chiêm Thành cũng nhiều lần tấn công Thăng Long Bên cạnh áp lực từ bên ngoài, tình hình nội bộ cũng phức tạp với loạn mười hai sứ quân và các cuộc nổi dậy ở Hoan Châu, Ái Châu Những thách thức này đã đặt ra cho các vị vua và quan lại vấn đề về đường lối cai trị và tổ chức xã hội, nhằm xây dựng một quốc gia mạnh mẽ, thống nhất và độc lập Hoàn cảnh lịch sử này đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tư tưởng và văn hóa, thúc đẩy các cuộc kháng chiến chống xâm lược và các chính sách quản lý xã hội trong các triều đại phong kiến.

Lịch sử tư tưởng chính trị cổ trung đại đã chọn đức trị làm nền tảng cho văn hóa chính trị, và các trí thức Đại Việt cũng đã áp dụng con đường này cho đất nước Đức trị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu dưỡng đạo đức cá nhân, từ đó mở rộng ra việc trị quốc và bình thiên hạ Các nhà tư tưởng cổ đại thường tập trung vào đức hạnh của người nắm quyền lực cao nhất, như đế vương và vua chúa Trong lịch sử Đại Việt, các triều đại phong kiến nổi bật với tinh thần độc lập dân tộc và đấu tranh chống lại sự bành trướng của các thế lực phong kiến phương Bắc Những vị vua sáng nghiệp, như Ngô Quyền và Đinh Tiên Hoàng, được ca ngợi là những người yêu nước, tài năng và đức độ, luôn đặt việc “ái dân trị quốc” lên hàng đầu.

Lê Đại Hành, Lí Công Uẩn, Trần Thái Tông và các vị vua khác đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập Họ đã khéo léo huy động sức mạnh toàn dân để đánh bại kẻ thù mạnh mẽ từ phương Bắc Những minh quân như Lê Đại Hành và Lí Thường Kiệt đã giành chiến thắng trước quân Tống, trong khi nhà Trần đã tạo nên những kỳ tích, ba lần đánh bại quân Mông - Nguyên Sự đồng lòng giữa vua và dân, cùng với tư tưởng thân dân, đã giúp Đại Việt giành được thắng lợi vang dội Các sự kiện lịch sử như hội nghị Diên Hồng năm 1284 thể hiện sự coi trọng ý kiến của nhân dân Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa chủ tướng và quân sĩ, khẳng định rằng sức mạnh của quốc gia chính là từ nhân dân.

Trong giai đoạn xây dựng chính quyền phong kiến, giai cấp phong kiến đóng vai trò tích cực, dựa vào sức mạnh nhân dân và phát huy truyền thống yêu nước để bảo vệ quốc gia Các triều đại phong kiến thực hiện chính sách "khoan dân, thân dân", chú trọng đến ý dân và lòng dân, từ đó định hướng cho những quyết định quan trọng như thay đổi vương triều hay phát động chiến tranh Từ thế kỷ X đến XVII, chế độ phong kiến phát triển theo hướng thịnh vượng, với Lí Công Uẩn, người sáng lập triều Lí, được tôn lên làm hoàng đế nhờ chí lớn và lòng nhân ái Vua Lí Thái Tổ, dù ở đỉnh cao quyền lực, vẫn quan tâm đến lợi ích lâu dài của đất nước, thể hiện qua quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, khẳng định tầm nhìn xa và tấm lòng thương dân của nhà vua.

Trong thời phong kiến, các trí thức chân chính như thiền sư và nho gia là những người yêu nước, luôn quan tâm đến dân Họ nhận thức rõ vai trò lịch sử của nhân dân và những đau khổ mà họ phải chịu dưới chế độ chuyên chế độc đoán Tuy nhiên, trong bối cảnh chính trị phức tạp, họ phải khéo léo diễn đạt tư tưởng thân dân để hạn chế sự độc tài của quân vương, đồng thời bảo vệ an toàn cho bản thân Nhiều nho sĩ đã can gián vua chúa nhưng thường không được chấp nhận, thậm chí còn gặp tai họa vì những lời khuyên thẳng thắn của mình.

Tìm hiểu lịch sử và xã hội thời trung đại là nền tảng quan trọng để khám phá tư tưởng thân dân trong văn học Qua bức tranh lịch sử và xã hội của thời đại, chúng ta nhận thấy sự đa dạng trong đời sống nhân dân, từ đó cảm hứng và tư tưởng trong văn học cũng phản ánh những quy luật này.

2.1.2 Chế độ giáo dục, khoa cử

Thế kỷ X - XIV đánh dấu giai đoạn đầu xây dựng Nhà nước phong kiến Việt Nam, với các triều Lý và Trần chú trọng đến giáo dục và tổ chức thi cử để tuyển chọn nhân tài phục vụ đất nước Thời Trần, giáo dục và khoa cử phát triển vượt bậc so với thời Lý Ban đầu, Phật giáo rất thịnh hành, nhưng sau đó Nho giáo được đề cao hơn, với quy định từ triều đình về việc học theo Ngũ kinh.

Tứ thư và Bắc sử là nền tảng giáo dục của triều đình, với việc mở rộng Quốc tử giám nhằm đào tạo con em quý tộc và quan lại Các trường công được thiết lập tại các lộ, phủ và kinh thành, giúp mở rộng cơ hội học tập cho cả người dân và con em thứ dân có tài năng Những người đỗ đạt trong các kỳ thi sẽ được bổ nhiệm làm quan, nhờ vào hệ thống thi cử được tổ chức đều đặn Kể từ năm 1232, kỳ thi đầu tiên của triều đình đã được diễn ra, và cứ bảy năm, nhà nước lại tổ chức thi tiến sĩ Những người đạt thành tích cao trong các kỳ thi này sẽ được triều đình bổ nhiệm vào các chức vụ tại viện Hàn lâm và các cơ quan hành chính.

Những nhân vật quan trọng trong việc đi sứ phương Bắc bao gồm các tên tuổi nổi tiếng như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Chu Văn An và Phạm Sư Mạnh.

Vào thế kỷ XV, khi Nho giáo phát triển mạnh mẽ, triều đình nhà Lê đã đặt sự chú trọng lớn vào giáo dục và thi cử, nhằm khuyến khích nhân tài cống hiến cho đất nước.

Vào năm 1427, khi giặc vẫn chưa tan, Lê Lợi đã tổ chức kỳ thi tại doanh Bổ Đề, đánh dấu sự khởi đầu cho việc giải phóng đất nước và lập lại hòa bình Nhà nước thiết lập Quốc tử giám ở kinh đô và mở rộng các trường học ở các phủ, lộ, cho thấy sự chú trọng vào việc sử dụng nhân tài không phân biệt đẳng cấp Lê Thánh Tông không chỉ mở rộng Quốc tử giám mà còn đặt chức bác sĩ dạy Ngũ kinh, in sách Ngũ kinh để làm tài liệu học tập Hệ thống thi cử dần dần được quy củ hóa, với nhiều hình thức khuyến khích học tập như xướng danh, treo bảng, ban mũ áo, cấp ngựa, và khắc bia tiến sĩ Sự phát triển của giáo dục đã có ảnh hưởng tích cực đến văn hóa và văn học, với nhiều trí thức nổi bật như Nguyễn Trãi, Lí Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, và Lê Thánh Tông, góp phần vào sự thịnh vượng của thời kỳ này.

Trong thế kỷ XVI - XVII, mặc dù chế độ phong kiến đang suy thoái, việc học và thi cử vẫn được các triều đại phong kiến coi trọng Nhà Mạc, ngay sau khi thiết lập triều chính, đã nhanh chóng tổ chức thi cử để tìm kiếm nhân tài Từ năm 1527 đến 1592, nhà Mạc đã tổ chức 22 khoa thi Hội nhằm tuyển chọn những người xuất sắc.

Khái quát về tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam 3.2 Tư tưởng thân dân trong văn học thời Lí 3.2.1 Trọng dân và hướng tới ước nguyện của người dân 3.2.2 Ý thức về trách nhiệm trước người dân 3.3 Tư tưởng thân dân trong văn học thời Trần 3 Lấy dân làm gốc và khoan thứ sức dân trong thời Thịnh Trần 3.3.2 Thương xót người dân và xót xa trước thế sự trong văn học thời Vãn Trần Tiểu kết chương 3

Văn học trung đại Việt Nam, bắt đầu từ thế kỉ X cho đến hết thế kỉ XIV, đánh dấu giai đoạn đầu tiên kể từ khi Ngô Quyền xưng vương và dựng nước Thời kỳ này chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn học, phản ánh bản sắc văn hóa và lịch sử dân tộc Các tác phẩm nổi bật từ thời kỳ này không chỉ thể hiện tư tưởng nhân văn mà còn khắc họa sâu sắc cuộc sống, con người và những giá trị văn hóa của dân tộc Việt.

Giai đoạn lịch sử kéo dài gần năm thế kỷ, từ năm 939 đến 1414, chứng kiến sự hưng vong của sáu triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lí, Trần, Hồ, với hai thời đại quan trọng là Lí và Trần Văn học trong thời kỳ này phản ánh cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, đồng thời ghi nhận sự phát triển của các vương triều phong kiến Việt Nam Các triều đại không ngừng củng cố đất nước, thể hiện tư tưởng tiến bộ và hướng đến nguyện vọng của nhân dân, đặc biệt là sự kiện Lí Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư.

Lư ra thành Đại La vào năm 1010 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử quan trọng, mở ra kỷ nguyên mới cho quốc gia Đại Việt với tinh thần độc lập và tự chủ Thơ ca và văn chương thời Lí thể hiện nguyện vọng hòa bình và độc lập của nhân dân, khẳng định vai trò của họ trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống và sự thống nhất đất nước Các tác giả thời Lí cũng nhấn mạnh trách nhiệm của mình đối với nhân dân qua các bài văn chiếu, văn bia, và can gián Đặc biệt, thơ của các thiền sư thời Lí, dù không nhiều, đã phản ánh tư tưởng an lạc của Phật giáo, khuyến khích sự hòa hợp với thiên nhiên và cuộc sống bình yên của người dân.

So với văn học thời Lí, văn học thời Trần có sự phong phú hơn về số lượng tác giả và tác phẩm thể hiện tư tưởng thân dân, với chủ đề và thể loại đa dạng hơn Các tác phẩm không chỉ mang tính chức năng mà còn thể hiện cảm hứng nghệ thuật, đặc biệt là trong thơ phú Nội dung chủ yếu nhấn mạnh vai trò và sức mạnh của người dân trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, đồng thời phản ánh mối quan hệ giữa người dân theo cả quan hệ đẳng cấp và quan hệ làng xã mang tính dân chủ Tuy nhiên, vẫn có những tiếng nói trái chiều trong văn học giai đoạn này, khi một số vị vua cuối thời Lí và cuối thời Trần thể hiện thái độ đi ngược lại quyền lợi của người dân, cùng với cái nhìn khinh thị đối với họ Các tác giả trí thức phong kiến mong muốn thông qua tác phẩm của mình, thể hiện tiếng nói thanh nghị đối với các vương triều phong kiến khi họ đi ngược lại tư tưởng thân dân.

Văn học trung đại Việt Nam vào thế kỷ XV ghi nhận sự chuyển mình quan trọng, tiếp nối tư tưởng thân dân từ thời Lí - Trần, đồng thời phản ánh kỳ tích của vương triều nhà Lê trong cuộc kháng chiến chống quân Minh Các tác phẩm thơ, phú, và văn chính luận bằng chữ Hán và chữ Nôm đạt nhiều thành tựu xuất sắc, nổi bật là hình tượng anh hùng Lê Lợi, người gắn liền với sức mạnh của nhân dân và khẳng định lịch sử hào hùng của dân tộc Tư tưởng thân dân được thể hiện rõ nét qua thơ văn Nguyễn Trãi và các tác phẩm như Quốc âm thi tập, góp phần mở ra nhiều hướng tiếp cận đời sống phong phú của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển nghệ thuật thơ ca tiếng Việt Nửa cuối thế kỷ XV, thơ văn thời Hồng Đức, đặc biệt là của Lê Thánh Tông, tập trung ca ngợi cuộc sống bình yên của nhân dân và sự thịnh vượng của chế độ phong kiến, phản ánh sự hòa hợp giữa triều đình và nhân dân Tư tưởng thân dân trong văn học giai đoạn này không chỉ tiếp thu yếu tố từ văn học Lí - Trần mà còn mang âm hưởng của thời đại bình Ngô hưng quốc, thể hiện bản chất chế độ phong kiến và phẩm chất của những trí thức tiến bộ qua những vần thơ cảm thán thời thế.

Vào thế kỷ XVI - XVII, giai cấp phong kiến Việt Nam rơi vào khủng hoảng, đặc biệt trong thời kỳ Lê - Mạc, khi quyền lợi của người dân bị xem nhẹ Mâu thuẫn giữa các phe phái phong kiến gia tăng, dẫn đến sự chia cắt đất nước và nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra mạnh mẽ Tư tưởng thân dân trong giai đoạn này gắn liền với sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc, từ việc ca ngợi vương triều phong kiến chuyển sang phê phán thực trạng xã hội và đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân Tư tưởng này không chỉ phát triển trong nội dung tác phẩm mà còn thể hiện qua sự phát triển rực rỡ của văn học chữ Nôm và thể loại văn học dân tộc Các tác giả chủ yếu là nho sĩ ẩn dật và nho sĩ bình dân, như Nguyễn Bỉnh Khiêm, người đã từ quan để trở về quê hương, và Phùng Khắc Khoan, người đã trải qua thời gian bị đày trước khi giúp triều Lê phục hưng.

Thơ văn của giai đoạn Ai Lao (miền tây Nghệ An ngày nay) thể hiện tâm trạng ẩn sĩ, ca ngợi cuộc sống ẩn dật và tiết tháo nhà nho Tác phẩm miêu tả hiện thực đau khổ của nhân dân và lên án những thói hư tật xấu trong xã hội Tiếng nói phê phán hiện thực xã hội chủ yếu dựa trên lập trường đạo đức, khẳng định giá trị Nho giáo, khác với lập trường nhân bản của văn học thế kỷ XVIII - XIX.

Trong bối cảnh chế độ phong kiến suy thoái, tư tưởng thân dân trong văn học thế kỷ XVIII - XIX nổi bật với trào lưu nhân đạo, tập trung vào quyền sống của người dân Nội dung tư tưởng này thể hiện sự thương cảm sâu sắc đối với những con người nhỏ bé, đau khổ và bị áp bức, cùng với ước mơ về công lý và hạnh phúc cho nhân dân Những tác phẩm tiêu biểu như "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn, bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm, "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, cùng với thơ của Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan đã phản ánh rõ nét những khát vọng và nỗi niềm của nhân dân trong thời kỳ này.

Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái và kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du được xem là đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam Vào nửa cuối thế kỉ XIX, khi đất nước đối mặt với xâm lăng, các tác giả thể hiện nỗi đau và đồng cảm với người dân, đặc biệt là nông dân lao động Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa hình ảnh những người dân bất khuất vùng lên chống giặc ngoại xâm, trở thành biểu tượng anh hùng trong lịch sử Nhà thơ Tam Nguyên Yên Đổ cũng hướng đến cuộc sống nông thôn, miêu tả hình ảnh người nông dân nghèo khổ nhưng chân chất và đầy ân tình Thành tựu tư tưởng thân dân trong thế kỉ XVIII - XIX đã được nối tiếp từ văn học dân tộc trước đó qua các tác phẩm văn học Phật giáo.

Lí, sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan,

Thiên Nam ngữ lục, Thiên Nam minh giám,…

Tư tưởng thân dân không chỉ có ý nghĩa trong thời trung đại mà còn được kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử văn học Việt Nam Trong thời cận đại, các nhà Nho duy tân yêu nước như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã nâng cao quan điểm về vai trò của nhân dân, nhấn mạnh quyền làm chủ đất nước của họ và xây dựng tư tưởng mới nhằm chấn hưng và cải cách đất nước dựa trên sức mạnh quần chúng Phan Bội Châu khẳng định rằng “Dân là dân nước, nước là nước dân”, nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân dân trong việc hình thành đất nước Đến thời đại Hồ Chí Minh, tư tưởng thân dân đã phát triển lên tầm cao mới, phù hợp với bối cảnh cách mạng, khi Người luôn nhắc nhở Đảng phải lấy nhân dân làm trung tâm trong mọi hoạt động.

Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tư tưởng "dân là gốc" trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, thể hiện qua việc kế thừa và vận dụng sáng tạo trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và giải phóng dân tộc Tư tưởng này vẫn tiếp tục được áp dụng linh hoạt trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, góp phần phát huy vai trò của quần chúng nhân dân và tạo động lực lớn cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong mọi thời đại, các nhà tư tưởng lớn đều nhận thức rõ vai trò quan trọng của nhân dân đối với đất nước Luận án này nghiên cứu tư tưởng thân dân qua các giai đoạn lịch sử, cho thấy mỗi thời kỳ có những sắc thái riêng do các vấn đề xã hội đặt ra Chúng tôi tập trung vào tư tưởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII, khi mà tư tưởng này đã trải qua quá trình phát triển độc đáo, vừa kế thừa vừa nối tiếp qua các triều đại phong kiến Mặc dù có những đặc điểm riêng biệt, tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam vẫn mang những quy luật chung Qua các phân tích chi tiết trong luận án, chúng tôi khẳng định rằng tư tưởng thân dân đã trở thành sản phẩm tinh thần tự hào, góp phần tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

3.2 Tư tưởng thân dân trong văn học thời Lí Để tìm hiểu tư tưởng thân dân trong văn học thời Lí, chúng tôi tiến hành khảo sát khoảng 136 đơn vị tác phẩm thời Lí của 60 tác giả hữu danh và 14 tác giả khuyết danh Theo thống kê của chúng tôi, số tác giả thể hiện tư tưởng thân dân là 18, số tác phẩm có tư tưởng thân dân là 22 bài viết bằng chữ Hán (18 bài văn chính luận, 4 bài thơ ) [Xin xem bảng phụ lục cuối Luận án].

3.2.1 Trọng dân và hướng tới ước nguyện của người dân

Triều đại nhà Lý đặt ra yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng vương quyền vững mạnh, nhằm tạo lập cuộc sống thanh bình, no ấm cho nhân dân Để đất nước cường thịnh, cần có những lãnh đạo tốt, phù hợp với nguyện vọng của dân Việc thay thế nhà Tiền Lê đã suy yếu và ủng hộ nhà Lý lên lãnh đạo là sự lựa chọn tất yếu, phản ánh mong muốn của mọi tầng lớp trong xã hội.

Nhiều tác phẩm khuyết danh, chủ yếu là thơ dưới dạng sấm kí, đã xuất hiện để chuẩn bị dư luận cho sự chuyển giao quyền lực từ nhà Tiền Lê sang nhà Lý Giới tăng lữ, đặc biệt là Thiền sư Vạn Hạnh, có thể là những tác giả chính của các bài sấm thi này và đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành của nhà Lý Thiền sư Vạn Hạnh là tác giả của những bài sấm thi nổi bật, trực tiếp đề cập đến vấn đề này.

Ngày đăng: 14/01/2022, 12:52

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh, (1974), Trần Thái Tông, Khoá hư lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trần Thái Tông, Khoá hư lục
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb Khoa học xãhội
Năm: 1974
2. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán - Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Hán - Việt
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2003
3. Trần Quang Ánh (1996), Quan niệm về dân và tư tưởng thân dân trong“Luận ngữ”, “Mạnh Tử”, Luận văn Thạc sĩ triết học, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan niệm về dân và tư tưởng thân dân trong"“Luận ngữ”, “Mạnh Tử”
Tác giả: Trần Quang Ánh
Năm: 1996
4. Aristote (1964), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật thơ ca
Tác giả: Aristote
Nhà XB: Nxb Văn hóa nghệ thuật
Năm: 1964
5. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 150 thuật ngữ văn học
Tác giả: Lại Nguyên Ân
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc giaHà Nội
Năm: 1999
6. Lại Nguyên Ân (Biên soạn) (2009), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các bài giảng về tư tưởng phươngĐông
Tác giả: Lại Nguyên Ân (Biên soạn)
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội
Năm: 2009
7. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, Diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giao tiếp, Diễn ngôn và cấu tạo văn bản
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: NxbGiáo dục
Năm: 2009
9. Phan Kế Bính (1970), Việt Hán văn khảo, Mặc Lâm, Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Hán văn khảo
Tác giả: Phan Kế Bính
Năm: 1970
10. Phan Quý Bích (2006), Chữ “dân” trong di cảo văn chương của Nguyễn Trãi, nguồn: PhongDiep.net Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chữ “dân” trong di cảo văn chương củaNguyễn Trãi
Tác giả: Phan Quý Bích
Năm: 2006
11. Bùi Huy Bích (2007), Hoàng Việt thi tuyển, Nxb Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàng Việt thi tuyển
Tác giả: Bùi Huy Bích
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 2007
12. Đào Phương Bình, Phạm Tú Châu, Nguyễn Huệ Chi và nhiều tác giả (Biên soạn), (1977), Thơ văn Lí - Trần, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Lí - Trần
Tác giả: Đào Phương Bình, Phạm Tú Châu, Nguyễn Huệ Chi và nhiều tác giả (Biên soạn)
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1977
13. Đào Phương Bình, Phạm Đức Duật, Trần Nghĩa và nhiều tác giả (Biên soạn), (1978), Thơ văn Lí - Trần, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Lí - Trần
Tác giả: Đào Phương Bình, Phạm Đức Duật, Trần Nghĩa và nhiều tác giả (Biên soạn)
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1978
14. Nguyễn Thanh Bình (2007), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Học thuyết chính trị - xã hội của Nhogiáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉXIX)
Tác giả: Nguyễn Thanh Bình
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2007
15. Nguyễn Huệ Chi (1978), Các yếu tố Nho, Phật, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng văn học Lí - Trần, Tạp chí Văn học, Số 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các yếu tố Nho, Phật, Đạo được tiếp thu vàchuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng văn học Lí - Trần
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi
Năm: 1978
16. Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên) (1988), Thơ văn Lí - Trần, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Lí - Trần
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên)
Nhà XB: NxbKhoa học xã hội
Năm: 1988
17. Nguyễn Huệ Chi, (Chủ biên) (1998), Hoàng đế Lê Thánh Tông - nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàng đế Lê Thánh Tông - nhàchính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi, (Chủ biên)
Nhà XB: Nxb Khoa học Xãhội
Năm: 1998
18. Nguyễn Huệ Chi (2011), Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc, http://thuvienhoasen.org Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bước đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi
Năm: 2011
19. Nguyễn Phương Chi (2009), Kinh tế, xã hội thời Trần (thế kỉ XIII - XIV), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế, xã hội thời Trần (thế kỉ XIII -XIV)
Tác giả: Nguyễn Phương Chi
Nhà XB: Nxb Giáo dục Việt Nam
Năm: 2009
20. Doãn Chính (2009), Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, Tạp chí Triết học, Số 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi
Tác giả: Doãn Chính
Năm: 2009
21. Doãn Chính, Bùi Trọng Bắc (2015), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, Nxb Chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp phần tìm hiểu tư tưởng triếthọc của Nguyễn Trãi
Tác giả: Doãn Chính, Bùi Trọng Bắc
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2015

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w