1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay (khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu).

271 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ảnh Hưởng Của Triết Lý Phật Giáo Trong Thơ Việt Nam Từ 1945 Đến Nay (Khảo Sát Qua Một Số Tác Giả Tiêu Biểu)
Tác giả Đặng Thị Đông
Người hướng dẫn PGS.TS. Lê Tú Anh, PGS.TS. Nguyễn Viết Ngoạn
Trường học Trường Đại Học Hồng Đức
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Thanh Hóa
Định dạng
Số trang 271
Dung lượng 508,39 KB

Cấu trúc

  • UBDN TỈNH THANH HÓA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC

  • UBDN TỈNH THANH HÓA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

  • 9. Tác giả kính ghi

  • 14. MỤC LỤC

  • 16. LỜI CAM ĐOAN i

  • 20. Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 7

  • 21. Tiểu kết 33

  • 26. Chương 3. ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ PHẬT GIÁO TRONG THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY TRÊN PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TƯ TƯỞNG 70

  • 28. Chương 4. ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ PHẬT GIÁO TRONG THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY TRÊN PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT107

  • 31. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151

  • 40. MỞ ĐẦU

  • 2. Mục đích nghiên cứu

  • 3. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 4.1. Đối tượng nghiên cứu

    • 4.2. Phạm vi nghiên cứu

  • 5. Phương pháp nghiên cứu

  • 6. Đóng góp mới của luận án

  • 7. Bố cục của luận án

  • 68. Chương 1

    • 1.1.1. Về vũ trụ quan Phật giáo

    • 1.1.2. Về thế giới quan Phật giáo

    • 1.1.3. Về nhân sinh quan Phật giáo

  • 1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

    • 1.2.1. Những nghiên cứu về văn học Phật giáo

    • 1.2.3. Nghiên cứu về các tác giả thơ tiêu biểu từ 1945 đến nay chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo

  • 167. Tiểu kết

  • 170. Chương 2

  • 2.1. Tiền đề tiếp nhận triết lý Phật giáo của thơ Việt Nam từ 1945 đến nay

    • 2.1.1. Tiền đề khách quan

    • 2.1.2. Tiền đề chủ quan

  • 2.2. Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong các chặng đường phát triển của thơ Việt Nam từ 1945 đến nay

    • 262. 2.2.1. Giai đoạn 1945-1975

    • 284. 2.2.2. Giai đoạn 1975 đến nay

  • 295. Tiểu kết

  • 297. Chương 3

  • 3.1. Nhận thức về sự khổ và tinh thần tịnh lạc

    • 3.1.1. Phơi bày sự thật những nỗi khổ nơi thân tâm

    • 3.1.2. Tinh thần tịnh lạc

  • 3.2. Mối quan hệ tương duyên và nhận thức về chân như

    • 3.2.1. Mối quan hệ tương duyên giữa con người và vạn hữu

    • 3.2.2. Nhận ra chân như thật tính

  • 3.3. Tinh thần vô ngã và lòng từ bi trải rộng không phân ranh giới

    • 3.3.1. Thể hiện tinh thần vô ngã

    • 3.3.2. Lòng từ bi trải rộng không phân ranh giới

  • 602. Tiểu kết

  • 605. Chương 4

  • 4.1. Ảnh hưởng trên phương diện ngôn từ

    • 4.1.1. Sử dụng nhiều từ ngữ Phật học

    • 4.1.2. Ngôn ngữ trộn hòa vô trụ

    • 4.1.3. Ngôn ngữ thấm đượm chất thiền vô ngôn

  • 4.2. Ảnh hưởng trong bút pháp

    • 4.2.1. Dùng biểu tượng để tạo nên tính đa nghĩa của thơ

    • 4.2.2. Sử dụng hình ảnh mang tính giác ngộ

    • 4.2.3. Bút pháp liên tưởng hướng đến duyên khởi

    • 4.2.4. Cách xưng hô mờ nhòe hướng đến vô ngã

  • 4.3. Ảnh hưởng trong giọng điệu

    • 4.3.1. Dùng giọng phủ định để khẳng định

    • 4.3.2. Giọng triết lý, suy tư, chiêm nghiệm

    • 4.3.3. Giọng tự do, phóng khoáng, “tùy duyên”

  • 847. Tiểu kết

  • 849. KẾT LUẬN

  • 9. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

  • 9. TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • A. TIẾNG ANH

  • 324. DANH MỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT

Nội dung

Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay (khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu).Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay (khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu).Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay (khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu).Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay (khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu).Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay (khảo sát qua một số tác giả tiêu biểu).

Mục đích nghiên cứu

42 Với tên đề tài Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt

Từ năm 1945 đến nay, luận án này khảo sát và phân tích các tác giả tiêu biểu để làm rõ dấu ấn của triết lý Phật giáo trong sáng tác của họ Bài viết chỉ ra giá trị của triết lý Phật giáo không chỉ ở nội dung mà còn trong nghệ thuật thơ ca, khẳng định rằng thơ ca có khả năng truyền tải thông điệp về con đường giác ngộ tự thân.

11 thời phát hiện thêm những góc nhìn mới lạ của thơ Việt Nam từ 1945 đến nay - vẻ đẹp mang màu sắc tôn giáo - tâm linh.

Nhiệm vụ nghiên cứu

43 Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định những nhiệm vụ chính cần thực hiện là:

Để nghiên cứu đề tài này, trước tiên cần tìm hiểu cơ sở lý thuyết và thực tiễn liên quan đến triết lý Phật giáo Điều này bao gồm việc khảo sát lịch sử nghiên cứu về văn học Phật giáo và ảnh hưởng của triết lý này đối với thơ ca Việt Nam, đặc biệt là từ năm 1945 đến nay và các tác giả thơ trong giai đoạn này.

45 Thứ hai: Nghiên cứu những tiền đề tiếp nhận triết Phật trong thơ

Việt Nam đã phát triển thơ ca từ những truyền thống văn học dân tộc, chịu ảnh hưởng từ bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa Qua việc nghiên cứu các tác giả tiêu biểu, ta thấy rõ tác động của triết lý Phật giáo trong quá trình hình thành và phát triển của thơ Việt Nam từ năm 1945 đến nay.

Nghiên cứu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay cho thấy những chủ đề nổi bật như tình yêu thương rộng mở, sự nhận thức về thực tại nhiệm màu, và lẽ sống vô thường Thơ ca phản ánh bản chất khổ đau của thân tâm, cùng với sự phức tạp trong các mối quan hệ Ngoài ra, tư tưởng vô ngã, tinh thần tịnh lạc, và niềm tin vào hướng thiện và bình đẳng vô phân biệt cũng được khai thác sâu sắc trong các tác phẩm thơ này.

47 Thứ tư: Nghiên cứu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo đến thơ Việt

Từ năm 1945 đến nay, nghệ thuật Nam đã phát triển với các thủ pháp biểu trưng sâu sắc, thể hiện những ý niệm giác ngộ Ngôn ngữ trong nghệ thuật này mang đậm dấu ấn của triết lý nhà Phật, với những khái niệm như vô trụ và chất thiền, tạo nên một giọng điệu chiêm nghiệm và khuyến tu Sự tự tại và phủ định trong nghệ thuật dẫn đến những khẳng định mạnh mẽ, đồng thời thể hiện tinh thần tùy duyên bất biến trong sáng tác.

Phương pháp nghiên cứu

54 Nghiên cứu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau đây:

55 - Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh ảnh hưởng của triết lý Phật giáo vào thơ giai đoạn từ 1945 đến nay so với văn học

Bài viết này phân tích 13 giai đoạn tiếp thu ảnh hưởng của nhà thơ, so sánh sự tác động của triết lý Phật giáo đến thơ ca với các thể loại văn học khác, đồng thời đối chiếu giữa thơ chịu ảnh hưởng của Phật giáo và thơ không chịu ảnh hưởng này.

Phương pháp cấu trúc - hệ thống cho phép chúng tôi có cái nhìn sâu sắc về ảnh hưởng của triết Phật trong văn học Việt Nam từ năm 1945 đến nay Bằng cách hệ thống hóa danh mục các tác giả và tác phẩm thơ, chúng tôi có thể nhận diện rõ ràng những tác giả chịu ảnh hưởng sâu đậm và những tác giả có sự ảnh hưởng mờ nhạt Qua đó, chúng tôi cũng khám phá quá trình hình thành và phát triển văn học Phật giáo, cũng như sự tiếp nhận triết Phật trong văn học dân gian đến hiện đại và trong thơ ca từ 1945 đến nay.

Phương pháp tiểu sử được áp dụng để phân tích ảnh hưởng của triết lý Phật giáo đối với các nhà thơ từ năm 1945 đến nay, thông qua việc xem xét các yếu tố đời tư và tiểu sử của tác giả Phương pháp này giúp làm rõ căn nguyên, mức độ ảnh hưởng và những biểu hiện đa dạng trong việc tiếp thu triết lý này.

Chúng tôi áp dụng phương pháp liên ngành bằng cách kết hợp nghiên cứu văn học với các lĩnh vực như văn hóa, lịch sử, tôn giáo, triết học, xã hội học và tâm lý học Phương pháp này giúp làm nổi bật triết lý Phật giáo trong thơ, đồng thời tạo ra cái nhìn sâu sắc và phong phú hơn về vấn đề nghiên cứu.

Phương pháp loại hình là một phương pháp nghiên cứu khoa học tổng hợp, được áp dụng để phân loại các tác giả thành từng nhóm dựa trên địa bàn, lứa tuổi và giai đoạn sáng tác Các nhóm tác giả bao gồm những người xuất phát từ thơ Mới, từ Sài Gòn cũ, những người di cư từ Bắc vào Nam, cũng như những người chịu ảnh hưởng của tư tưởng thiền và Phật giáo dung hợp Qua đó, chúng ta có thể nhận diện mức độ ảnh hưởng và đặc điểm chung của triết học Phật giáo trong thơ ca của họ.

Phương pháp phân tích và tổng hợp là hai kỹ thuật phổ biến trong nghiên cứu, giúp chia nhỏ vấn đề để đánh giá một cách toàn diện Qua việc phân tích các triết lý và tác phẩm của các tác giả, chúng tôi có thể tổng hợp những nhận định sâu sắc và chính xác hơn.

Bài viết này trình bày 14 vấn đề của thời đại một cách chi tiết, khái quát từng giai đoạn lịch sử, nhóm tác giả và nhóm nội dung, nhằm mang đến cái nhìn sâu sắc và toàn cảnh cho luận án Hai phương pháp phân tích này không chỉ bổ sung cho nhau mà còn giúp xác định những đặc điểm chung nhất ảnh hưởng triết lý Phật giáo trong thơ từ năm 1945 đến nay.

Phương pháp tiếp cận thi pháp học chú trọng vào việc phân tích các văn bản thơ, từ đó nghiên cứu ngôn ngữ, biểu tượng, tính âm nhạc, kết cấu, hình tượng, ẩn dụ, hoán dụ và so sánh Qua đó, chúng tôi phát hiện ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong từng bài thơ, từng tập và từng tác giả, đồng thời nhận diện được những đặc điểm chung và riêng của thể loại thơ này so với các thể loại khác và các giai đoạn khác nhau Điều này mang lại sự hấp dẫn về mặt nghệ thuật vô ngôn, thể hiện sự tiếp nối của đặc tính thiền trong thơ.

Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để làm cho nội dung trở nên rõ ràng và sâu sắc hơn.

Đóng góp mới của luận án

Luận án tập trung vào việc phân tích các tác phẩm văn học Việt Nam, từ văn học dân gian đến văn học viết, chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo, đặc biệt là từ năm 1945 đến nay Nghiên cứu này không chỉ cung cấp cái nhìn tổng quát và hệ thống về mối quan hệ giữa văn học và Phật giáo, mà còn là tài liệu quý giá cho những người nghiên cứu sau này.

Luận án lần đầu tiên nghiên cứu thơ Việt Nam từ 1945 đến nay dưới góc nhìn tâm linh và tôn giáo, một lĩnh vực còn ít được khai thác Dựa trên triết lý Phật giáo, luận án chỉ ra vẻ đẹp đa dạng về nội dung và nghệ thuật của thơ Việt Nam trong giai đoạn này Qua việc phân tích ảnh hưởng của triết lý Phật giáo, đề tài mở ra hướng tiếp cận mới cho thơ Việt Nam hiện đại, khẳng định sự hiện diện của một bộ phận thơ chịu ảnh hưởng từ Phật giáo, làm cho thơ hiện đại trở nên sâu sắc hơn.

Đạo đức Phật giáo mang lại sức mạnh xây dựng xã hội tốt đẹp, thể hiện qua 15 khía cạnh lý thuyết và ứng dụng hấp dẫn Nó định hướng lý tưởng sống cho mỗi cá nhân, khuyến khích tinh thần bất hại và hướng thượng, đồng thời giúp tịnh hóa tâm hồn thông qua thơ ca.

Bố cục của luận án

Luận án được cấu trúc thành ba phần chính: phần mở đầu, phần nội dung và kết luận, bên cạnh danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục Phần nội dung của luận án bao gồm bốn chương.

64 Chương 1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu

65 Chương 2 Tiền đề tiếp nhận và ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay

66 Chương 3 Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt

Nam từ 1945 đến nay trên phương diện nội dung tư tưởng

67 Chương 4 Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong thơ Việt

Nam từ 1945 đến nay trên phương diện tổ chức thế giới nghệ thuật

Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Khái lược về triết lý Phật giáo

72 Phật giáo là tôn giáo vô thần, ra đời dựa trên lời dạy của Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni có 6 thần thông Ban đầu, Phật giảng dạy giáo lý bằng khẩu truyền, sau đó hàng đệ tử ghi lại bởi tiếng Pali [18; tr 217], gọi là Tam Tạng, quy tụ về nhất thừa Giáo lý chứa đựng tinh thần từ bi vô ngã Lộ trình tu tập phải trải qua những giáo lý căn bản là: giới - định - tuệ, văn - tư - tu, Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, tam pháp ấn, 37 phẩm trợ đạo, nhân quả, duyên khởi, tính Không… Triết học chính yếu của Phật giáo được khai thác trên các lĩnh vực như: Vũ trụ, Nhận thức, Nhân minh, Đạo đức, Giải thoát… nhưng nhìn chung vẫn liên quan và thống nhất trong tu tập, giữ vị trí tối cao tron hệ thống triết học Đông - Tây Triết học Phật giáo được đề cập trong khoảng 5000 bài pháp mà Phật thuyết ở

Trong suốt 49 năm theo Đại thừa và 45 năm theo Nguyên thủy, triết lý Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học hiện đại và thơ Việt Nam từ năm 1945 đến nay Qua nghiên cứu và khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng các tác phẩm chủ yếu tập trung vào vũ trụ quan, thế giới quan và nhân sinh quan, phản ánh rõ nét sự giao thoa giữa triết lý Phật giáo và tư duy văn học đương đại.

1.1.1 Về vũ trụ quan Phật giáo

73 Vũ trụ quan được hiểu là sự xem xét, tư duy về toàn bộ quy luật của trời đất cũng như những diễn biến và chuyển hóa của chúng Phật giáo cho rằng vũ trụ là sự tác động phức tạp trong mối duyên nghiệp biến hóa của vạn hữu, bao gồm nhiều phân tầng khác nhau mà nơi đó có chúng sinh cư ngụ, gọi chung là Tam hữu (Tam giới) Phật giáo Nguyên thủy cho rằng có 31 cảnh giới, còn Phật giáo Đại thừa cho rằng có 32 cảnh giới Trong đó, cõi thấp nhất là Dục giới (6 cõi), Sắc giới (4 tầng thiền, 18 cõi), Vô sắc giới (4 cõi) Dù phân chia thành các hệ phái khác nhau nhưng triết lý chung của các hệ phái vẫn mang tính nhất quán.

74 Theo thuyết lý nhà Phật, hành giả tu tập từ phàm phu có thể thành thánh nhân Cuộc đời của đức Phật đã chứng minh điều đó Trong cõi thánh, Phật giáoNguyên thủy chia làm 4 cấp độ là: Tư-đà-hoàn (Nhập lưu, Thất lai), Tư-đà-hàm (Nhất lai), A-na-hàm (Bất lai) và A-la-hán (Vô sanh) Ngoài ra, vũ trụ quan Phật giáo còn có 55 cõi Bồ-tát và vô lượng cõi Phật (cõi của Phật A Di Đà, cõi của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai ) Triết học Phật giáo cho rằng thế giới trong vũ trụ mà các chúng sinh hiện hữu các nơi đó là do sự tương ứng của tâm thức. Tức là, các chúng sinh tồn tại ở mỗi cảnh giới cao thấp khác nhau là do kết quả nghiệp mà chính họ tạo ra Hay các chúng sinh đó tùy theo nghiệp tạo mà sinh ra: sinh từ trứng gọi là noãn sinh, sinh từ bào thai gọi là thai sinh, sinh từ ẩm ướt tăm tối gọi là thấp sinh và sinh do biến hóa sinh ra gọi là hóa sinh.

75 Loài người sống trong cõi Dục giới thứ nhất, do chưa đoạn được ái dục Trong Dục giới lại phân ra làm 6 cõi từ cao xuống thấp là: trời (thiên), người, a-tu- la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục Khảo sát riêng trong cõi trời (được cho là cao nhất trong Dục giới) thì thấy triết Phật lại chia làm 6 bậc trời gồm: Tứ thiên vương, Tam thập tam (Đao lợi), Tu diệm ma, Đâu suất, Lạc biến hóa, Tha hóa tự tại.

76 Những bộ kinh quan trọng của hệ phái Đại thừa như Lăng

Nghiêm, Địa Tạng… có ghi cõi thấp nhất trong Dục giới là địa ngục Kinh

Theo kinh A Hàm, địa ngục được chia thành 8 tầng, bao gồm: Đại địa ngục Tưởng, Đại địa ngục Dây Đen, Đại địa ngục Đá Ép, Đại địa ngục Kêu La, Đại địa ngục Kêu La Lớn, Đại địa ngục Thiêu Nướng, Đại địa ngục Thiêu Nướng Lớn, và Đại địa ngục Vô Gián Trong số 8 địa ngục này, còn có 16 địa ngục nhỏ hơn Việc khảo sát hai cảnh giới cao nhất và thấp nhất của Phật giáo trong cõi Dục giới cho thấy sự phức tạp vô tận của chúng sinh và thế giới vũ trụ, đồng thời nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người trong vũ trụ rộng lớn.

77 Ở cõi Sắc giới thứ hai, chúng sinh tồn tại là do tu thiền định và do hóa sinh, còn mang hình dáng thân người Theo Mật tông là thân kết cấu bằng tứ đại (đất, nước, gió, lửa) vi tế Ở cõi này có 4 bậc và chia thành 18 cõi khác nhau Sơ thiền, có các cõi trời như: Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm; Nhị thiền, gồm cõi trời: Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang âm;

Tam thiền, gồm trời: Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh và Tứ thiền, gồm trời: Phúc sinh, Phúc ái, Quảng quả, Vô tưởng.

78 Thứ ba, khảo sát cõi cao nhất trong Tam giới là Vô sắc giới trong Phật giáo, thì từ cõi trời cao nhất hoặc phát triển theo hướng chúng sinh tu tập thông tuệ sẽ ra giải thoát luân hồi (đắc A-la-hán), nếu thành Bồ-tát thừa (Hồi tâm Đại A-la- hán, Bất hồi tâm độn A-la-hán) Và 4 cõi còn trong vòng luân hồi là: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

79 Ngoài ra, kinh Lăng Nghiêm của Đại thừa Phật giáo còn liệt kê mười dạng tiên, gồm có: Địa hành, Phi hành, Du hành, Không hành, Thiên hành, Thông hành, Đạo hành, Chiếu hành, Tinh hành, Tuyệt hành. Theo Mật tông Tây Tạng còn có thêm cõi “Trung giới” (cõi “Âm”) Cõi này được cho là nơi chờ để đủ duyên chúng sinh sẽ tái sanh, là nơi chuyển tiếp tâm thức từ sau khi chết đến trước khi tái sinh vào các cõi trên.

80 Và Phật giáo còn có cách phân chia vũ trụ thành ba loại thế giới: Tiểu thiên, Trung thiên và Đại thiên Vũ trụ có vô lượng vô biên thế giới (thế giới theo nghĩa chỉ một thiên thể): “Một ngàn thiên thể là Tiểu thiên thế giới, một ngàn Tiểu thiên thế giới là Trung thiên thế giới, một ngàn Trung thiên thế giới là Đại thiên thế giới Như vậy, Tiểu thiên gồm

1000 thiên thể, Trung thiên một triệu và Đại thiên là một tỷ” [46; tr.322- 223].

81 Điểm đặc biệt là Phật giáo khẳng định, tuy ở cấp độ cảnh giới thứ hai của Dục giới nhưng con người lại là trung tâm của cả Tam giới rộng lớn Vì các cõi trời do phước báu lớn nên khó tu thành chính quả,các cõi dưới do phải chịu quả báo khổ đau hành hạ triền miên nên cũng khó tu giải thoát luân hồi, chỉ có kiếp người vừa đau khổ vừa có những nhiều điều kiện thuận duyên tu tập cho nên khả năng đạt quả Thánh lớn. Đức Phật và tất cả các vị Phật khác trong quá khứ cũng từ kiếp người nam mà chứng đắc Thánh quả cao nhất, giác ngộ đạo Vô thượng Bồ-đề. Các “pháp” gồm, “xuất thế gian” và “thế gian” Pháp “xuất thế gian” (chân đế), pháp “thế gian” (tục đế) Pháp “chân đế” là của các bậc Thánh đã chứng ngộ Pháp “tục đế” đều là hư huyễn, bị chi phối bởi quy luật biến đổi Tuy vũ trụ quan Phật giáo mênh mông nhưng không nằm ngoài tâm thức Vì Phật giáo cho rằng “nhất thiết duy tâm tạo”, địa ngục hay cõi trời đều do tâm thức của con người biến hiện ra.

1.1.2 Về thế giới quan Phật giáo

82 Thế giới quan là quan niệm (thành hệ thống) về thế giới (bao hàm mọi hiện tượng tự nhiên, xã hội, con người), thể hiện cái nhìn tổng quát về thế giới trong ý thức của mỗi cá nhân (gồm thế giới bên ngoài, con người và mối quan hệ giữa con người với thế giới đó) Thế giới quan Phật giáo vô cùng phong phú, với các triết lý cơ bản vô thường, vô ngã, nhân duyên, nhân quả, nghiệp báo, luân hồi

83 Vô thường trong Phật giáo tạm hiểu là sự không thường còn, không như cái ban đầu, mọi sự vật hiện tượng luôn chuyển biến thay đổi; vạn vật vũ trụ đều bị quy luật vô thường chi phối Trong đó, vô thường ở thân và tâm diễn ra dưới hai hình thức: “sát-na vô thường” (rất nhanh, ngắn) và “nhất kỳ vô thường” (sự thay đổi trong từng đoạn) Triết lý vô thường của Phật giáo khẳng định vũ trụ là thành

84 - trụ - hoại - không, sự sống là sinh

85 Triết lý vô ngã của Phật giáo chung quy lại là khẳng định việc không có cái “ta” và sở hữu “của ta” Theo kinh A-hàm, cái “ta sinh lý” (sắc ấm) là do duyên hợp giả tạm của địa - thuỷ - hoả - phong Cái “ta tâm lý” gồm thụ - tưởng - hành - thức, gọi là bốn ấm Phật giáo cho rằng

Cái ta không tồn tại độc lập mà chỉ là sự kết hợp của các yếu tố, do đó không thể sở hữu cái gọi là “của ta” Khi các sắc ấm tách rời, chúng trở về bản chất của mình và không còn thực thể Các ấm này che khuất tánh biết, khiến chúng sinh không nhận ra Phật tính bản thể Sự giác ngộ về vô ngã dẫn đến hiểu biết sâu sắc hơn về thực tại.

Lịch sử vấn đề nghiên cứu

95 Những ảnh hưởng của triết lý Phật giáo vào thơ Việt Nam từ

Từ năm 1945 đến nay, văn học Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nhiều yếu tố xã hội, văn hóa và lịch sử, trong đó có yếu tố Phật giáo Văn học có yếu tố Phật giáo đã hình thành từ rất sớm và việc nghiên cứu về văn học Phật giáo trong khoa nghiên cứu văn học Việt Nam trở nên quan trọng Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến triết lý Phật giáo trong văn học Việt Nam, đặc biệt là thơ ca từ năm 1945 đến nay, với những trường hợp tiêu biểu và nổi bật.

1.2.1 Những nghiên cứu về văn học Phật giáo

96 Cho đến nay, trong các từ điển văn học chưa có thuật ngữ “Văn học Phật giáo”, tuy nhiên, tham khảo nhiều công trình nghiên cứu [67]

Chúng tôi nhận thấy rằng tên gọi này đã trở thành một danh xưng phổ biến Mục tiêu của chúng tôi không phải là xác định nội hàm khái niệm, mà chỉ đơn thuần dựa vào cách sử dụng của các công trình để chỉ những sáng tác của tác giả là Phật tử, bao gồm cả người xuất gia và tại gia Những tác phẩm này thường đề cập đến các vấn đề liên quan đến đạo Phật và thể hiện những đặc điểm nghệ thuật gắn liền với Phật giáo.

97 Sự ra đời của văn học Phật giáo có thể tính từ sau cuộc kết tập kinh điển lần thứ 3 (tức khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên) tại Ấn Độ Tam Tạng kinh điển là nền tảng cho những sáng tác văn học Phật giáo Sau này các hàng đệ tử trên khắp thế giới tiếp tục sáng tác trên tinh thần Tam Tạng Tầng lớp tu sĩ và cư sĩ Phật tử tại Việt Nam cũng có nhiều sáng tác văn học xuất hiện từ thế kỷ X, tiêu biểu như: thơ kệ của các thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Chiếu, Không Lộ, Quảng Nghiêm, Huyền Quang…, Thiền uyển tập anh - Kim Sơn (1300-

1370), Khóa hư lục - Trần Thái Tông (1218-1277), Thượng sĩ ngữ lục

- Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), Cư trần lạc đạo phú - Trần Nhân Tông (1258-1308), Thập giới cô hồn văn - Lê Thánh Tông (1442-1497),

Cổ châu pháp vân phật bản hạnh - Pháp Tính (1470-1550), Hương Hải thiền sư ngữ lục

- Minh Châu Hương Hải (1628-1715), Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh - Ngô Thì Nhậm (1746-1803), Lược ước tùng sao - Viên Thành (1879-

Văn học Phật giáo Việt Nam đã ghi dấu ấn với nhiều tác giả nổi bật từ thế kỷ XX đến XXI, như Mật Thể, Trí Thủ, Thiện Hoa, và Thích Nhất Hạnh Tuy nhiên, nghiên cứu về văn học Phật giáo chỉ thực sự được chú trọng từ giữa thế kỷ XX, sau cách mạng tháng Tám Các tác giả như Trí Quang, Minh Châu, và Thiền sư Thích Giác Toàn đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của thể loại này.

98 Khoa nghiên cứu văn học hình thành sớm hơn ở miền Bắc Tuy nhiên, trong các bộ Việt Nam văn học sử yếu (1941) và Việt Nam thi văn hợp tuyển (1942) của Dương Quảng Hàm, các tác phẩm văn học Phật giáo/thơ thiền hầu như chưa được đưa vào nghiên cứu Trong Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm chỉ giới thiệu sơ lược: “Đạo Phật trong triều Lý rất thịnh: các vị sư đều là những người thâm nho học; nên có nhiều vị làm thơ nay còn truyền lại, như sư Khánh Hỉ (1067-1142) có

Ngộ đạo thi tập (ngộ đạo: hiểu đạo); sư Bảo Giác (1080-1151) có Viên thông tập” [50; tr.312].

99 Ở miền Nam, cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên củaPhạm Thế Ngũ (1962) là công trình nghiên cứu văn học sử đầu tiên có quan tâm đến văn học Lý - Trần [111] Đây là một trong số những công trình văn học sử quan trọng của thế kỷ XX Tuy vậy, trong tập 2 của bộ sách, nói về thơ văn thời Lý - Trần, liên quan đến văn học Phật giáo, Phạm Thế Ngũ chỉ nhắc đến bài phú Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông.

Sau công trình của Phạm Thế Ngũ, các nghiên cứu về văn học Phật giáo trước 1975 nổi bật như: "Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam (1932 – 1962)" của Minh Huy, "Giá trị triết học tôn giáo trong Truyện Kiều" của Thích Thiên Ân, và "Văn học sử Phật giáo" của Cao Hữu Đính Đặc biệt, trong "Bảng lược đồ văn học Việt Nam" (quyển hạ), Thanh Lãng đã dành một chương để viết về "Văn học tôn giáo", bao gồm cả Phật giáo.

101 Nghiên cứu về văn học Phật giáo sau 1975 đầu tiên phải kể đến những nghiên cứu về thơ văn Lý - Trần trong các công trình: Thơ văn Lý

Trần, 2 tập, Nxb Khoa học xã hội xuất bản các năm 1977-1978; Thơ văn

Văn học Lý - Trần, được biên soạn bởi Nguyễn Huệ Chi (tập 1 năm 1977, tập 2 năm 1989) và Lê Bảo (Nxb Giáo dục, 1999), đã tiếp thu nhiều yếu tố, đặc biệt là Hán học, nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc Đây là giai đoạn quan trọng, đánh dấu sự phát triển của văn học Việt Nam từ thế kỷ thứ X (năm 938) Nội dung thơ văn Lý - Trần tập trung vào việc giải thoát giác ngộ, với triết học Tam Tạng thánh điển được đề cập nhiều dưới các hình thức phong phú, mặc dù ngôn ngữ văn tự không được coi là có thể chạm đến thực tại tối hậu.

Từ sau năm 1975, số lượng các nhà nghiên cứu văn học Phật giáo tăng lên đáng kể, bao gồm nhiều tên tuổi nổi bật trong lĩnh vực văn học Việt Nam trung đại như Nguyễn Khắc Phi, Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Đăng Na, Trần Nho Thìn, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Kim Sơn, Nguyễn Công Lý, Nguyễn Phạm Hùng, Đoàn Thị Thu Vân và Nguyễn Kim Châu.

GS Nguyễn Khắc Phi đã công bố nhiều nghiên cứu quan trọng, bao gồm các tác phẩm như “Thử nêu một cách hiểu khác về vài từ khóa trong bài Quốc tộ của thiền sư Pháp Thuận”, “Về ba chữ 'nhất chi mai' trong bài Cáo tật thị chúng của Mãn Giác Thiền Sư”, và “Quanh nguồn tư liệu có liên quan đến bài Ngôn hoài của Không Lộ Thiền Sư” Những nghiên cứu này không chỉ làm sáng tỏ các khía cạnh văn hóa và tư tưởng trong thiền học mà còn góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam, tiêu biểu là tác phẩm “Thiên trường vãn vọng”.

104 Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na có các công trình công phu liên quan đến văn học Phật giáo như: “Con đường tuệ giải bài kệ gọi là

Các công trình như “Ngôn hoài của Không Lộ Thiền Sư” và “Bí ẩn đoạn kết truyện Vô Ngôn Thông” đã được công bố trên các tạp chí và sau đó được tập hợp trong cuốn sách "Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam".

GS Trần Nho Thìn trong nghiên cứu về “Kiểu tác giả của văn học trung đại” đã chỉ ra sự tồn tại của “Kiểu tác giả nhà sư” trong những thế kỷ đầu của văn học trung đại Ông nhấn mạnh rằng các thiền sư không chỉ là những người tu hành có nhiệm vụ thuyết pháp, mà còn tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị xã hội Điều này dẫn đến việc họ sáng tác thơ ca bên cạnh các bài thuyết pháp Ông cũng nhận xét rằng các thiền sư là những thi sĩ tài năng, với học vấn uyên bác, khả năng quan sát sắc bén, và hiểu biết sâu rộng về cuộc sống, triết học và tôn giáo, cùng với khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt.

106 Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn có nhiều công trình nghiên cứu về văn học Lý - Trần và tác phẩm Thiền uyển tập anh Trong bài

“Căn rễ văn hóa của nền văn học thời Lý - Trần”, ông phân tích:

Văn học Lý - Trần, dưới ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, thể hiện sâu sắc quan niệm về bản thể qua các dạng thức tồn tại như pháp, pháp bản, và các khái niệm liên quan như thân, chân thân, sắc thân, và tâm Sự biểu cảm của những dạng thức này luôn gắn liền với các mối quan hệ như hữu - vô, sinh - tử, cũng như sự tu chứng và giải thoát trong đời sống tâm linh, tạo nên một mối liên hệ chặt chẽ với thế giới tự nhiên.

108 Về Thiền uyển tập anh, ông đã có các công bố như: “Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật của Thiền uyển tập anh” (Tạp chí Văn học,

1992), “Mấy ý kiến về sách Thiền uyển tập anh” (Tạp chí Nghiên cứu

Trong các nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, nhiều tác giả đã chỉ ra các khía cạnh quan trọng như mối quan hệ giữa phần “truyện – tiểu sử” và việc “tàng trữ giá trị thi ca” (Phật học, 1995), khả năng tích hợp các yếu tố folklore (Tạp chí Văn hoá dân gian, 1998), cũng như vị trí của tác phẩm trong dòng văn xuôi truyền thống dân tộc (Tạp chí Tác phẩm mới, 1992) Các bài viết như “Đọc Thiền uyển tập anh” (Nhân dân chủ nhật, 1991) và “Thiền uyển tập anh – từ góc nhìn một nét tương đồng hình thức thể tài biến văn” (Tạp chí Văn học, 1997) đã góp phần làm sáng tỏ giá trị văn học của tác phẩm này.

Ông Trần đã thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu về cuốn sách "Thiền uyển tập anh", được xuất bản bởi Nhà xuất bản Khoa học xã hội Nghiên cứu này, được đăng trên Tạp chí Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam năm 2020, đã phân tích loại hình tác phẩm của Thiền uyển tập anh, đóng góp quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu văn hóa và triết lý Thiền.

2002) Gần gũi với ý kiến của Nguyễn Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt

Tiền đề tiếp nhận triết lý Phật giáo của thơ Việt Nam từ 1945 đến nay 35

2.1.1.1.Tiếp nối truyền thống văn học dân tộc

Kinh điển Phật giáo bao gồm 12 thể loại như Trường hàng, Trùng tụng, Thọ ký, và nhiều thể loại khác, trong đó một số tương đồng với các thể loại văn học như văn xuôi, thơ ca, và truyện Nội dung của các bản kinh chứa đựng triết lý Phật giáo gần gũi với tư tưởng trong nhiều tác phẩm văn học Việt Nam Nghiên cứu này sẽ xem xét ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong văn học Việt Nam qua ba thời kỳ: Văn học dân gian, Văn học trung đại, và Văn học cận hiện đại, nhằm làm rõ các tiền đề tiếp nhận triết lý này từ quá khứ đến hiện tại.

175 Trong văn học dân gian

Trong văn chương bình dân Việt Nam, đức Phật được gọi là Bụt, tượng trưng cho sự giúp đỡ người hiền trong những hoàn cảnh khó khăn Bụt không chỉ là một nhân vật siêu phàm mà còn mang tính bình dị, gần gũi với cuộc sống Triết lý Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học dân gian qua nhiều thể loại, từ truyện ngụ ngôn như "Xẩm sờ voi" và "Mèo lại hoàn mèo" đến các truyện cổ tích như "Cây nêu ngày Tết," "Kéo cày trả nợ," "Ăn một qua trả nghìn vàng," "Sọ dừa," "Chim tu hú," và "Hai vợ chồng con chiền chiện và ông sư." Một ví dụ nổi bật khác là truyền thuyết Man Nương, thể hiện rõ nét ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong văn hóa dân gian.

Khâu Đà La, được ghi chép trong Cổ châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục và Lĩnh Nam chích quái, thể hiện sự tiếp biến văn hóa Việt Nam với Phật giáo Ấn Độ Văn hóa này hòa quyện tinh thần Phật giáo vào tín ngưỡng dân gian, xuất phát từ nguồn gốc Tứ pháp, đồng thời phản ánh ý nghĩa của nền văn minh nông nghiệp trong bối cảnh đạo Phật.

Truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung, được ghi trong Lĩnh Nam chích quái với tên gọi Nhất dạ trạch, mang tính huyền sử và phản ánh tín ngưỡng Việt Nam Nhân vật Chử Đồng Tử, một thánh trong “Tứ bất tử”, đã kết duyên với công chúa Tiên Dung, trở thành những Phật tử đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam Nội dung truyện chứa nhiều tình huống siêu nhiên, liên quan đến quy y Tam Bảo, nhân duyên vợ chồng và tinh thần hiếu đạo Qua hình tượng các nhân vật như Phật Quang, Chử Đồng Tử - Tiên Dung, và nhà sư Khâu Đà La, truyện thể hiện sự tiếp nhận và phát triển của Phật giáo Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.

Truyện Quan Âm Thị Kính kể về kiếp trước của Bồ tát Quan Thế Âm, trong đó Ngài sinh ra trong gia đình họ Mãng ở Cao Ly và trải qua nhiều gian truân Câu chuyện tóm tắt hành trình của Thị Kính, người bị oan giết chồng, sau đó đi tu với pháp danh Kính Tâm Dù gặp tiếng oan với Thị Mầu, Thị Kính vẫn nuôi con cho Thị Mầu hơn cả con ruột của mình và cuối cùng đạt được giác ngộ thành Phật Thị Kính, hiện thân của Phật Bà Quan Âm, thể hiện tinh thần tự độ tha, từ bi và hỷ xả Truyện cũng liên quan đến chùa cổ Pháp Vân (chùa Dâu - Bắc Ninh), nơi thờ Phật Bà Quan Âm Thị Kính, được dân gian truyền miệng rộng rãi.

Truyện Quan Âm Thị Kính phản ánh tinh thần tu tập giải thoát của người xuất gia, nhấn mạnh rằng tu hành không chỉ là ẩn mình nơi cửa Phật mà là quá trình rèn luyện thân tâm qua thử thách để đạt đạo và cứu độ tha nhân Nhiều nhà nghiên cứu, như Vũ Khắc Khoan, đã ca ngợi sự nhẫn nhịn và dũng cảm của Thị Kính, người đã chấp nhận mọi hình phạt để tiếp tục tu hành và nuôi dưỡng con cái Trong quan niệm Phật giáo, nhẫn nhục là pháp tu của Bồ tát, thể hiện khả năng chịu đựng cần thiết để chứng đắc đạo quả Phạm Thế Ngũ cũng cho rằng truyện này thể hiện tinh thần dấn thân cho lý tưởng, vượt lên những ràng buộc của thế gian, khẳng định rằng sự kiên trì và can đảm là yếu tố quan trọng trong con đường tu hành.

179 Truyện Quan Âm Nam Hải được lưu truyền trong dân gian trước cả truyện Quan Âm Thị Kính Theo Nguyễn Lang trong sách Việt

Nam Phật giáo sử luận, Quan Âm Nam Hải nguồn gốc từ nhà Sư đời

Theo truyền thuyết Việt hóa, Quan Âm Nam Hải là Diệu Thiện, công chúa thứ ba của vua Diệu Trang ở nước Hưng Lâm Nàng đã trốn khỏi triều đình, vượt biển đến động Hương Tích, nơi mà ngày nay là chùa Hương ở Việt Nam, để tu hành và đạt được giác ngộ, trở thành Phật Bà Quan Âm với khả năng cứu độ chúng sinh Tất cả các hình tượng như Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Đồng Tử, Quan Âm Tống Tử, Quan Âm Diệu Thiện, và Quan Âm Thị Kính đều thể hiện lòng từ bi vô hạn và là hiện thân của Bồ-tát Quan Thế Âm trong kinh Pháp Hoa.

Tục ngữ, thành ngữ Việt Nam phản ánh triết lý sống phong phú, đặc biệt là những giá trị gần gũi với triết lý Phật giáo Triết lý Tứ vô lượng tâm nhấn mạnh lòng thương yêu và sự đồng cảm: “Thương người như thể thương thân” và “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” Bên cạnh đó, triết lý sống thiểu dục tri túc khuyến khích sự hài lòng với những gì mình có qua các câu như “Thanh bần lạc đạo” và “Giấy rách phải giữ lấy lề” Triết lý nhân quả được thể hiện rõ qua các câu như “Ở hiền gặp lành” và “Gieo gió gặt bão”, trong khi giáo lý luân hồi nghiệp báo nhắc nhở về hậu quả của hành động: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” Thêm vào đó, triết lý vô thường được thể hiện qua câu “Nước chảy đá mòn”, và triết lý về tam độc (tham, sân, si) phản ánh những khía cạnh tiêu cực trong cuộc sống: “Trăm nhát cuốc hất cả vào lòng” Những câu tục ngữ này không chỉ là bài học quý giá mà còn là kim chỉ nam cho cuộc sống.

Ca dao Việt Nam chứa đựng nhiều câu mang ý nghĩa gần gũi với triết lý Phật giáo, như “Gió đưa cây trúc ngã quỳ/ Ba năm trực tiết còn gì là xuân” thể hiện triết lý duyên sinh Câu “Cơm cha, áo mẹ, công thầy/ Nghĩ sao cho bỏ những ngày ước ao” phản ánh triết lý tứ ân Những câu như “Cái cò mà mổ cái trai/ Cái trai quắp lại mà nhai cái cò” hay “Ai đi muôn dặm non sông/ Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy” thể hiện triết lý về sự khổ ở thế gian Cuối cùng, triết lý tu khẩu nghiệp được thể hiện qua câu “Lời nói chẳng mất tiền mua/ Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” và “Hoa thơm ai chẳng muốn đeo/ Người khôn ai nỡ cứ theo nặng lời”.

Văn học dân gian phản ánh chân thực đời sống của người lao động với tâm hồn chân chất và thẳng thắn Nó chấp nhận sự thật nhưng vẫn mang trong mình tinh thần lạc quan và nhân hậu, thể hiện sự cảm thông và tôn trọng bình đẳng Những tác phẩm này không chỉ truyền tải các bài học đạo đức mà còn nhắc nhở về nhân quả và nghiệp báo, khuyên con người sống hiền lành và lương thiện Nội dung của văn học dân gian đã hòa quyện một cách tự nhiên với triết lý nhân sinh và thế giới quan Phật giáo.

183 Trong văn học trung đại

Trong thời kỳ trung đại, văn học Việt Nam chủ yếu sử dụng chữ Hán và chữ Nôm, thể hiện rõ đặc trưng “ngôn chí”, “tải đạo” và cảm quan Phật giáo Qua khảo sát thơ Lý - Trần, có thể nhận thấy sự thống nhất trong tư tưởng Phật học của các tác phẩm, với sự tham gia sáng tác của nhiều thành phần như vua quan, thiền sư, cư sĩ Phật tử và trí thức Nho học Cuốn Thơ văn Lý - Trần đã tổng hợp nhiều tác phẩm nổi bật chuyển tải giáo lý Phật của các nhân vật như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung, Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang Một số tác phẩm tiêu biểu bao gồm Thiền uyển tập anh, Khóa hư lục, Thượng sĩ ngữ lục, Cư trần lạc đạo phú, Thập giới cô hồn văn, và Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục.

Lượng Ngô Thì Nhậm cùng các đạo hữu đã viết nhiều tác phẩm quan trọng như luận thuyết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, Thiền tông bản hạnh (Chân Nguyên) và Hứa sử truyện vãn (Toàn Nhật) Trong số đó, Thiền uyển tập anh (1715) là một tác phẩm tiểu truyện nổi bật về các Thiền sư, ghi lại nhiều câu chuyện về những vị danh tiếng như Khuông Việt, Vạn Hạnh, Pháp Thuận Những nhân vật này không chỉ kiên trì tu hành và hoằng dương Phật pháp mà còn tích cực tham gia vào các công việc chính trị, lo liệu quốc kế dân sinh.

Văn học chữ Nôm bắt đầu xuất hiện từ thời Trần, với những tác phẩm nổi bật như "Cư trần lạc đạo phú" và "Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca" của Trần Nhân Tông, cùng "Vịnh Vân Yên tự phú" của Huyền Quang Đến thế kỷ XVIII - XIX, thiền sư Minh cũng có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này.

Châu Hương Hải, Pháp Chuyên Luật Truyền Diệu Nghiêm, Toàn Nhật Quang Đài là những người rất có công lớn đóng góp cho văn học Phật giáo.

Các tác phẩm liên quan đến triết lý Phật giáo đóng vai trò quan trọng và có nhiều đóng góp lớn trong lĩnh vực học thuật Một trong số đó là Thánh đăng lục, được ra đời vào khoảng cuối thời Trần, với thông tin về tác giả và năm soạn hiện chưa rõ Năm 1705, Chân Nguyên đã cho in tái bản tác phẩm này, và đến năm 1848, nó tiếp tục được phổ biến rộng rãi.

- đời Tự Đức năm thứ nhất) tái bản tiếp), Việt Âm thi tập (Phan Phu Tiên,

1433), Tinh tuyển chư gia luật thi (Dương Đức Nhan tuyển chọn, trước

Các công trình như Trích diễm thi tập (Hoàng Đức Lương biên soạn, 1497) đều đề cập đến thơ của các tác giả thuộc thiền phái Trúc Lâm Đặc biệt, Thiền tông bản hạnh, được viết năm 1734 bằng thể loại diễn ca lịch sử chữ Nôm, là tác phẩm nổi bật do Thiền sư Chân Nguyên sáng tác.

Thánh đăng lục, Thích Thanh Từ viết tiếp Thiền tông bản hạnh giảng giải và Thiền sư Việt Nam Đến thế kỉ XVIII, Tính Quảng - Ngô Thì Nhậm viết

Tam Tổ thực lục đề cập đến Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang; sau Hải LượngNgô Thì Nhậm viết Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh Cuốn

Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong các chặng đường phát triển của thơ Việt Nam từ 1945 đến nay

Sự phát triển của thơ Việt Nam từ năm 1945 đến nay gắn liền với những biến động lớn trong lịch sử Các nhà nghiên cứu thường chia giai đoạn này thành hai chặng đường chính để phân tích và hiểu rõ hơn về sự tiến hóa của thể loại thơ trong bối cảnh lịch sử xã hội.

1945 đến 1975 và từ 1975 đến nay Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo đến thơ, qua mỗi giai đoạn, chúng tôi thấy có những điểm không hoàn toàn nhất quán.

263 Thơ hiện đại được coi là bắt đầu từ Phong trào thơ mới khoảng

Giai đoạn 1945-1954, thơ Việt Nam trải qua sự phân hóa rõ rệt do ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chống Pháp, với hai xu hướng chính: một bên tiếp tục kế thừa tinh thần thơ Mới, bên kia phục vụ sự nghiệp cách mạng, lấy hiện thực xã hội chủ nghĩa làm nguyên tắc Sự phát triển của các hội, trung tâm báo chí Phật giáo, đặc biệt ở miền Trung và miền Nam, đã tạo điều kiện cho nhiều bài thơ thiền được đăng tải trên các tạp chí như Viên Âm, Bồ Đề, Từ Quang, Hoằng Pháp, và Hải Triều Âm Những yếu tố này đã cùng nhau góp phần làm phong phú và đa dạng bộ mặt thơ ca trong giai đoạn này.

Thơ trong giai đoạn này phản ánh nỗi khổ niềm đau, đói khát, chia lìa, và bất toại, thể hiện quan điểm nhân sinh gần gũi với Phật giáo Sự kết hợp giữa từ bi và trí tuệ trong cách nhìn của Phật giáo đối với các vấn đề xã hội được thể hiện qua hình ảnh những chiến sĩ - hiệp sĩ, với lý tưởng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" và "không có gì quý hơn độc lập tự do" Họ hy sinh vì những người ở hậu phương, thể hiện tinh thần vì thương mà hi sinh, tương đồng với lý tưởng Bồ-tát đạo.

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Hoàng Cầm nổi bật với bài thơ "Bên kia sông Đuống", thể hiện dòng chảy cảm xúc mơ hồ và khó nắm bắt, phản ánh tâm thức siêu hình trong cõi vô thức Đặc điểm này trong thơ của ông đã tác động sâu sắc đến tâm thức người đọc, mang đến những trải nghiệm tinh tế và sâu sắc.

Thành duy thức luận của Đại thừa thể hiện rằng những ký ức cảm xúc đẹp đẽ trong a-lại-da thức đã nuôi dưỡng cái đẹp trong suy nghĩ tích cực và tinh khôi của nhà thơ Sự sống và cái chết hòa quyện một cách hài hòa, tạo nên sự thể nhập thanh tao, bình yên, mơ hồ nhưng vẫn đầy vẻ đẹp trong tánh thiện.

266 “Đêm buông xuống dòng sông Đuống

-Con là ai? Con ở đâu về?

-Con vào đây bốn phía tường che Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể

267 Những chuyện muôn đời không nói năng”

Triết lý trong thơ Hoàng Cầm mang đậm tính tâm linh, thể hiện sự cứu rỗi và phụng hiến Tâm linh trong thơ ông không chỉ giải thiêng mà còn hòa quyện giữa thực tại và mơ mộng, giữa quá khứ và hiện tại, tạo nên một thái độ thanh cao, hướng thiện và trân trọng những điều trong trẻo trong tâm thức Tập thơ "Về Kinh Bắc" được xem như nguồn sống, mang lại năng lượng giải thoát qua những nhạc điệu dạt dào, khó nắm bắt.

Hồ Chí Minh đã sáng tác nhiều bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và sự hòa nhập với vạn vật, phản ánh triết lý duyên sinh và bình đẳng của Phật giáo Tinh thần vô ngã và từ bi trong thơ Bác không chỉ làm nổi bật nhân sinh quan mà còn tương đồng với triết lý tứ vô lượng tâm của Phật giáo.

271 “Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.

Bác Hồ, vượt lên mọi gian nan của cuộc sống kháng chiến, vẫn giữ trong lòng tình yêu thiên nhiên và cái đẹp, thể hiện tâm hồn nghệ sĩ, thi sĩ và chiến sĩ Trong cái nhìn sâu sắc, Bác nhận thấy sự hòa quyện giữa ánh trăng rằm, dòng sông và con người, tạo nên một nguồn năng lượng tràn đầy Thơ thiền Phật giáo thường ca ngợi thiên nhiên, ánh trăng, gió mây và phong thái tĩnh tại, và mặc dù không chủ ý viết thơ thiền, nhưng dưới con mắt của một vĩ nhân, tác phẩm của Bác cũng mang nhiều điểm tương đồng với chất thiền thư thái và tinh thần bi-trí-dũng của triết lý Phật giáo.

274 “Rằm xuân lồng lộng trăng soi

275 Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân Giữa dòng bàn bạc việc quân

276 Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Thơ giai đoạn 1954-1975 phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh lịch sử của đất nước, thể hiện cảm hứng sử thi và lãng mạn, trong đó nhiều tác phẩm mang màu sắc Phật giáo phản ánh tâm thức rộng lớn và tình yêu thương vô hạn Thơ Phật giáo không chỉ phản ánh thực tại cam go mà còn chứa đựng những cảm xúc tinh tế, mơ hồ trong tâm linh Các tác phẩm như "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm và "Bài thơ không năm tháng" của Lâm Thị Mỹ Dạ cho thấy sự mờ nhòe trong việc xác định chủ thể và khách thể Triết lý Phật giáo trong thơ khuyến khích con người sống tốt như "hoa sen trong bùn", thể hiện thái độ sống bao dung, lạc quan và hướng về cộng đồng.

Giai đoạn 1954-1975, bên cạnh các đề tài lớn như xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất, thơ ca miền Nam đã đón nhận ảnh hưởng sâu sắc từ triết học Phật giáo, nhờ vào sự giao thoa văn hóa phong phú Các tác giả nổi bật như Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, và Trịnh Công Sơn đã thể hiện tư tưởng Phật giáo trong nhiều tác phẩm của họ Mặc dù thơ đô thị miền Nam khám phá và phát triển các tư tưởng tôn giáo và tâm linh, phong cách sáng tác của nhiều nhà thơ trong giai đoạn này vẫn chưa thật ổn định Khi Nhà nước áp dụng chính sách đổi mới, mảng thơ liên quan đến Phật giáo vẫn tồn tại nhưng chưa phát triển mạnh mẽ.

Vào những năm 1960, tại miền Nam, một số nhà thơ đã khám phá cái "tôi" trong cuộc sống hàng ngày, gần gũi với triết lý Phật giáo và phát hiện nhiều chân lý mà Phật đã giảng dạy Tập thơ "Hành hương" của Trụ Vũ, phát hành năm 1964, được lấy cảm hứng từ Phật giáo Các tác phẩm như "Tiếng địch chiều thu" (1949) và "Xuân vô ý" (1950) cũng thể hiện ảnh hưởng này.

Mùa xuân cũ (1950) của Nguyễn Lang cũng nằm trong ý thức hệ triết học

Phật giáo đã bắt đầu xâm nhập vào phương Tây, đặc biệt là qua thơ thiền, và quá trình hiện đại hóa này đã thu hút sự chú ý của nhiều tác giả tiêu biểu như Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư và Phạm Công Thiện Đồng thời, Vũ Hoàng Chương cũng đóng góp đáng kể vào sự phát triển của thể loại này.

Lửa từ bi cho đến tập Bút nở hoa đàm đã lấy nguồn cảm hứng đạo Phật.

Dưới ảnh hưởng của Phật giáo, thơ của ông thể hiện tấm lòng chân thành đối với quê hương và sự cảm thông sâu sắc với kiếp người mong manh Ông chấp nhận và nỗ lực đóng góp tài năng cho cộng đồng, điều này làm cho thơ giai đoạn 1945-1954 trở nên phong phú và đa dạng hơn.

Nhiều tác giả không phải Phật tử nhưng có thơ mang tính triết lý tương đồng với nhân sinh quan Phật giáo, như Chế Lan Viên và Huy Cận Thơ Chế Lan Viên chứa đựng hình ảnh thiên nhiên với nhiều biểu tượng triết lý, như hoa thể hiện cho tư tưởng và cuộc sống: “Cành đào ứ nhựa” biểu trưng cho hạnh phúc, “Hoa lau đường máu” thể hiện nỗi đau, và “Một điểm vàng tí xíu” thể hiện sức sống mãnh liệt Ông cũng bộc lộ sự giác ngộ về quy luật tự nhiên qua hình ảnh con chim và tinh thần tự chủ: “Con chim quên mình có đôi cánh” Hình ảnh “đội hình bay” biểu thị sức mạnh đoàn kết và tinh thần cộng tu, trong khi mùi hương trong thơ ông ca ngợi đạo đức và thiền: “Những lá thơm hái lúc về già” Tương tự, Huy Cận cũng thể hiện cảm hứng thiên nhiên với câu thơ: “Trăng lên trong lúc đang chiều”.

Hình ảnh "trăng", "gió", "chiều", "ngọn triều" thường xuất hiện trong thơ cổ và hiện đại, mang theo ý nghĩa triết học về sự vô thường của thời gian Sự vô thường này có thể dẫn đến những cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực, tùy thuộc vào cách sống và nhận thức của mỗi người Khi đạt được giác ngộ với tâm thức bình yên trong trạng thái thiền, con người có thể nhìn nhận mọi thứ một cách đơn giản, không vướng mắc vào những biến đổi của cuộc sống Lúc này, tâm hồn trở nên tĩnh lặng và rõ ràng Câu thơ trở nên đẹp đẽ trong cả ý nghĩa lẫn hình thức, thể hiện sự chuyển động của thời gian qua hình ảnh "trăng lên" khi "đang chiều" và quy luật tự nhiên của thủy triều và gió.

Nhận thức về sự khổ và tinh thần tịnh lạc

Sự khổ của con người trong thế gian bao gồm hai khía cạnh: thân và tâm Theo quan điểm Phật giáo, thân khổ vì sinh, lão, bệnh, tử; tâm khổ do mong cầu không được, yêu thương phải chia xa, ghét phải gặp, và sự mất cân bằng của năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức Nỗi khổ trong tâm lý được phân chia thành bốn chủ đề chính: "ái biệt ly", "cầu bất đắc", "oán tắng hội", và "ngũ ấm xí thạnh", trong đó "ái biệt ly" và "cầu bất đắc" thường được nhấn mạnh hơn Hai khía cạnh này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau Tịnh lạc được hiểu là sự yên tĩnh và an vui bền lâu, phản ánh tinh thần thiền học với sự tự tại, vượt qua khó khăn và trọn vẹn trong giây phút hiện tại mà không nắm giữ Tất cả đều xuất phát từ sự hiểu biết sâu sắc về bản chất của khổ, vô thường và vô ngã.

3.1.1 Phơi bày sự thật những nỗi khổ nơi thân tâm

3.1.1.1.Sự khổ của thân tứ đại trên phương diện cái chết

Thân người là một thực thể mong manh và tạm bợ, không tồn tại mãi mãi, và nỗi đau khổ gia tăng khi phải chứng kiến sự chia ly với những người thân yêu Bùi Giáng đã thể hiện nỗi niềm mất mát khi vợ ông ra đi qua những câu thơ đầy cảm xúc: “Nước bỏ bờ ruộng khô / Từ ngày chim chết hết / Cành cây thôi líu lo / Em hay là ai giết?” Sự ra đi của “em” không chỉ làm cho cuộc sống của ông trở nên vô nghĩa mà còn phản ánh sự loay hoay trước quy luật sinh tử Đối với Bùi Giáng, hình tượng “em” không chỉ là vợ mà còn là biểu tượng cho sự “vô minh” mà ông phải đối diện trong dòng chảy biến thiên của cuộc sống.

Thơ Nhất Hạnh phản ánh nỗi khổ đau trong tâm hồn con người với những cảm xúc sâu sắc về cuộc sống Ông thể hiện sự xót xa trước thực trạng nhân thế, nơi mà tham lam và bạo lực dẫn đến những hệ lụy đau thương: “Sống xâu xé, sống tham lam, cướp bóc” Chiến tranh và hận thù chỉ làm gia tăng nỗi khổ của nhân loại, khiến con người mãi chìm trong khổ đau: “Ôi nhân sinh! Ôi thế cuộc vô thường!” Thơ của ông còn phơi bày thực tại khắc nghiệt của sự sống, với những lo âu về bệnh tật và cơm áo gạo tiền.

304 “Ai biết được ngày mai còn sống nữa? Hay cái chết sẽ hiện ra trước cửa?

305 Quỷ vô thường, ôi biết tránh vào đâu? Đây những cảnh đớn đau trong tật bệnh

306 Bao nhiêu người lo lắng chạy ngược xuôi”

Thơ Mặc Giang thể hiện sâu sắc nỗi khổ do vô thường, phản ánh những cảnh đời bi thảm và hậu quả của chiến tranh cũng như thiên tai Ông miêu tả sự chao đảo của đất trời và những mất mát đau thương: “Đất trời rung chuyển ngửa nghiêng/ Đảo lộn, nổ tung, vùi dập.” Những hình ảnh về sự tan tành và đổ nát khiến người đọc cảm nhận được sự vô nghĩa của phú quý và sang hèn trong khoảnh khắc tàn khốc Bên cạnh đó, tâm trạng hụt hẫng của con người trước cái chết cũng được thể hiện qua những câu thơ đầy xúc động: “Nhìn bàn thờ, khói hương nhòa dĩ vãng/ Ra nghĩa trang, ngọn cỏ ngậm sương pha.” Tác phẩm khắc họa nỗi nhớ thương và khao khát được gặp lại cha mẹ, tạo nên một bức tranh bi thương về cuộc sống và cái chết.

Trong thơ Phật giáo, nỗi khổ do không nhận ra bản chất chân như là điều cốt yếu Phật giáo cho rằng chúng sinh chịu đựng khổ đau chủ yếu do phiền não, với vô minh là nguyên nhân chính Việc không hiểu rõ thực tướng của bản thân và vạn vật dẫn đến bế tắc trong nhận thức và hành động, tạo ra hoài nghi về cuộc sống Nguyễn Đức Sơn thể hiện sự bối rối trong hành trình tìm kiếm giác ngộ, khi chưa tìm ra chân lý của đạo Tuy nhiên, sự bối rối này cũng phản ánh ý hướng khai ngộ Do đó, thơ của những tác giả chịu ảnh hưởng Phật giáo thường mang đặc tính mơ hồ, nhưng cũng là bước đầu trong quá trình giác ngộ, với tinh thần buông bỏ đã sẵn sàng.

310 “Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi

311 Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô Chân rục rã tôi đi luồn ra núi

312 Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô”

313 (Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi)

Trụ Vũ bày tỏ nỗi buồn trước sự vô thường của cuộc sống, phản ánh sự chìm nổi và lênh đênh của kiếp người Ông đã quán chiếu về quy luật nhân quả và sự mong manh của cuộc sống trong vòng luân hồi Tự nhủ rằng cần sống thanh tịnh như “lá sen vuông”, ông nhận thức được sức mạnh của nghiệp lực Nỗi sầu muộn của ông không chỉ là cảm xúc cá nhân mà còn là sự đồng cảm sâu sắc với thế giới bên ngoài.

315 “Giọt nước ngàn năm lóng lánh buồn Nổi chìm trên một lá sen vuông

316 Làm sao giải nghĩa tròn vuông được ? Giọt nước ngàn năm lóng lánh buồn”

Trịnh Công Sơn cảm nhận rõ ràng sự giằng xé giữa mong muốn thoát khỏi những ràng buộc của thế gian và thực tế khó khăn của nghiệp lực Mặc dù ông hiểu sâu sắc về đạo, nhưng những ràng buộc trần thế vẫn khiến ông khó bứt phá Sự thông tuệ của ông về cuộc sống và con người thể hiện qua những nỗ lực tìm kiếm tự do trong một thế giới đầy cạm bẫy.

319 Con người có thể đạt được những điều tốt đẹp, nhưng không hề dễ dàng Thơ của ông phản ánh triết lý về khổ đau, khổ vì kiếp sống mong manh, khổ vì sự cô đơn và lụi tàn, thiếu vắng người tri âm Nội dung này được thể hiện rõ nét qua những ca từ xúc động, da diết và ám ảnh.

329 “Một ngày mùa đông Trên con đường mòn Một chiếc xe tang

330 Trái mìn nổ chậm Người chết hai lần”

334 “Không còn, không còn ai Ta trôi trong cuộc đời”

336 Điều ngạc nhiên ở các tác giả này là dù nói nhiều đến khổ nhưng sự thật

Thơ ca hiện đại phản ánh một thái độ sống bình yên, chân thành và tự nhiên, với mục đích không chỉ để tự chiêm nghiệm mà còn để đánh thức và cứu độ người khác Như Nguyễn Đức Sơn đã diễn đạt, tình cảm trong thơ đôi khi chỉ là những điều phù du, nhưng việc nhận ra và vượt qua khổ đau lại là đặc tính nổi bật của thơ, chịu ảnh hưởng từ triết lý Tứ diệu đế Thông qua đó, người đọc nhận thấy rằng thơ ca không chỉ chỉ ra nỗi khổ mà còn khuyến khích con người sống trọn vẹn với đời sống vật chất, thể hiện qua thân “tứ đại” (đất - nước - lửa).

- gió hợp thành) để làm nhiều việc có ý nghĩa cho mình và người.

3.1.1.2.Nỗi khổ nơi tâm vì xa cách, chia ly và ái chấp

Ái chấp là sự dính mắc quá mức vào các pháp thế gian, dẫn đến khó khăn trong việc buông bỏ Tất cả mọi thứ, cả vật chất lẫn tinh thần, đều do duyên tạo thành và mang tính giả tạm Do đó, nếu chúng ta bám víu vào những điều này, sẽ chỉ mang lại khổ đau.

Sáu căn của con người tiếp xúc với sáu trần, dẫn đến sự chấp giữ và phân biệt Mắt dính vào sắc tướng, tai bị cuốn hút bởi âm thanh, mũi vướng vào mùi hương, lưỡi đắm chìm trong vị thức ăn, thân thể ham thích xúc chạm, và tâm ý luôn phân biệt đúng sai theo cách chủ quan.

Phật giáo đề cập đến nhân sinh quan và các vấn đề trong cuộc sống, bao gồm tình cảm, từ đó tạo nên nguồn cảm hứng cho thơ ca ảnh hưởng từ Phật giáo Tình yêu, với bản chất là pháp hữu vi, liên quan đến giác ngộ và sự tỉnh thức Nỗi nhớ và tưởng tượng trong tình yêu chỉ là mộng tưởng, và sự nhớ nhung xa cách thể hiện bản chất đau khổ của ái chấp trong cuộc sống Trong triết lý Phật giáo, tình yêu chỉ là nền tảng để tính giác hiển lộ.

Phạm Thiên Thư, từng có thời gian tu tập trong chùa, đã thể hiện một cách nhìn độc đáo khi viết thơ tình, điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật của pháp Thơ của ông mang một sắc thái thánh thiện, thể hiện tình cảm sâu sắc và sự cảm thông, từ đó phản ánh sự mong manh của kiếp sống Ông mô tả "dáng em" trong tư duy pháp của mình như một hình ảnh nhỏ bé trong cõi xa vời, đồng thời thể hiện sự hư ảo qua những câu thơ như “Nay áo đã cuốn về thiên cổ” và “Em nằm dưới mộ bi” Nhận thức được sự vô minh là nguyên nhân của sầu muộn trong cuộc sống, Phạm Thiên Thư đã chia sẻ những suy tư sâu sắc về sự phù du của nhân thế.

342 “Cõi người có bao nhiêu Mà tình sầu vô lượng

343 Còn chi trong giả tướng Hay một vết chim bay”

Vũ Hoàng Chương đã chỉ ra rằng sự sai lầm trong nhận thức về tình yêu là nguyên nhân chính khiến con người phải chịu đựng đau khổ Sự hiểu biết không đúng đắn về tình yêu dẫn đến những nỗi buồn và khổ tâm kéo dài trong cuộc sống.

Nhân loại sẽ mãi đau khổ nếu không chấm dứt được vô minh Trong bài thơ "Nguyện cầu" của Nguyễn Đức Sơn, ông thể hiện sự mờ mịt của con người trong hành trình luân hồi: “Lang thang từ độ luân hồi/ U minh nẻo trước xa xôi dặm về.” Thêm vào đó, thơ của ông cũng phản ánh sự nguy hiểm của vô minh qua câu chữ: “Mù sương âm vọng tiếng huyền/ Có con dơi lạ bay trên cõi đời.” Những hình ảnh này nhấn mạnh cảm giác tuyệt vọng và cái chết giữa không gian tĩnh lặng: “Tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không.”

Mối quan hệ tương duyên và nhận thức về chân như

3.2.1 Mối quan hệ tương duyên giữa con người và vạn hữu

Chữ “duyên” trong nhà Phật mang ý nghĩa rộng lớn hơn khái niệm nhân duyên trong thế gian, vì nó bao quát toàn bộ vũ trụ và sự sống Mọi sinh vật, từ con người đến cây cỏ, đều có sự sống và giá trị riêng, được trân trọng trong mối liên hệ với nhau.

Theo giáo pháp Phật, mọi vật và con người đều có mối quan hệ tương tác từ vô thủy vô chung, nơi duyên tốt giúp phát triển điều lành, trong khi duyên xấu tạo ra nghiệp ân oán trong vô minh Phật giáo chấp nhận cả thuận lợi lẫn khó khăn từ ngoại cảnh với tinh thần vô ngã, đồng thời khuyến khích mỗi người làm điều tốt cho bản thân và cộng đồng.

Trong tư tưởng nhận thức duyên khởi, thơ Bùi Giáng thể hiện sự dung hợp giữa các phong cách, thể loại và tư tưởng, cho thấy rằng cái đẹp tồn tại trong những mâu thuẫn Ông khám phá quy luật vận động của các pháp thế gian qua cái nhìn thiền vô trụ, cho thấy cái đẹp không chỉ nằm ở một điểm nhấn nào mà ẩn chứa trong bản thể tự nhiên đầy đan xen Trong thơ của ông, sự chuyển biến giữa các yếu tố diễn ra một cách tinh tế, thể hiện sự chân thành trong mọi chủ đề như một cuộc trò chuyện.

400 “Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại Với dòng trong em hẹn ở bên đường Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại

401 Thuở xưa kia bờ nước ấy xưa kia”

Trong tập thơ Mưa nguồn của Bùi Giáng, vạn vật luôn tương tác và vận động đa chiều, hướng về nhau để bộc lộ bản nguyên của thiên nhiên Ngôn ngữ và hình ảnh trong thơ ông vượt lên trên sự sắp đặt, thể hiện tổng hòa nhưng vẫn giữ được cái riêng, giống như pháp trong khi vận động Thơ Bùi Giáng vì thế mang đến cảm quan triết - mỹ độc đáo.

Thiền sư Nhất Hạnh nhận thức rằng mọi sự vật và hiện tượng đều liên kết chặt chẽ với nhau, và bản thể của chúng hiện hữu ngay trong vẻ đẹp bề ngoài Ông bừng sáng khi nhận ra rằng sự hiểu biết luôn hiện diện trong từng khoảnh khắc.

405 “Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua

406 Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông

408 Thơ trong từng đốm lửa hồng Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm

409 Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử

410 Nắng vắng trong hư không, nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ”.

411 (Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt)

Mối quan hệ nhân duyên trong thơ Nhất Hạnh thể hiện triết lý thiền sâu sắc, cho thấy sự hiện hữu của mặt trời trong những điều bình dị như trái khổ qua và bát canh Thiền sư nhận ra rằng mặt trời không chỉ nằm trong ánh sáng mà còn ẩn chứa trong những vật thể xung quanh, như trong bát canh có sự kết hợp của không gian, thời gian, và cảm xúc con người Những hình ảnh như “Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua” và “Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm” cho thấy sự kết nối giữa thiên nhiên và cuộc sống, nhấn mạnh rằng mọi thứ đều có sự hiện diện của ánh sáng và năng lượng, từ đó tạo ra nguồn cảm hứng và sự ấm áp cho con người.

Ông vui mừng khi nhận ra sự tương đồng của vạn hữu: “Nắng vắng trong hư không/ Nhưng nắng chứa đầy một lò sưởi đỏ” Thơ Nhất Hạnh thể hiện sự liên kết giữa các yếu tố: không có nắng thì không có mưa, và không có mưa thì hạt giống không thể nẩy mầm, thể hiện nhân duyên tương tức Đối với thiền gia, rau cũng mang ý nghĩa như mặt trời, phản ánh cách hiểu sâu sắc của người tu Để hiểu rõ ý thơ của thi sĩ, người đọc có thể nghiên cứu pháp duyên khởi và quy luật luân hồi trong Phật giáo Trong tập Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt, Nhất Hạnh chỉ ra rằng mặc dù mặt trời không dẻo và không thơm, nhưng chính nhờ có mặt trời mà bát cơm mới trở nên dẻo thơm Thơ của ông, dù phi logic, vẫn tuân theo quy luật tự nhiên và khi nhìn sâu, ta sẽ nhận ra hạnh phúc.

Phật giáo nhấn mạnh sự kết nối giữa con người với nhau, thể hiện qua câu nói “nhìn con thấy cha, nhìn đệ tử thấy thầy, nhìn thầy thấy Phật”, cho thấy sự hiểu biết và cảm thông trong từng khoảnh khắc hiện tại Sự khác biệt giữa người giác ngộ và người vô minh giống như “cá dưới nước và người trên bờ”, mặc dù cùng sống dưới một bầu trời Thơ Nhất Hạnh là một phản ánh sâu sắc của thế giới và nhân sinh, mang triết lý Phật giáo từ vô thỉ đến hiện tại, nhấn mạnh rằng mọi pháp đều vô ngã do duyên khởi, từ đó giúp giải quyết khổ đau của kiếp người Đọc thơ Nhất Hạnh, ta nhận thấy triết lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện rõ ràng.

Thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh thể hiện sự hòa quyện giữa thiên nhiên và cuộc sống qua hình ảnh hoa lá, cỏ cây, và các yếu tố tự nhiên khác Ông nhìn nhận mọi hiện tượng trong mối liên hệ sinh diệt và biến đổi liên tục, không cố định trong các hình thức truyền thống Điều này tạo nên nét độc đáo trong thơ ông, phản ánh cái nhìn vô ngã và duyên sinh của triết lý Phật giáo Ông nhận thức rõ mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại, giữa mộng và thực, tất cả đều hòa quyện trong chân như bản thể.

415 “Viễn khách ơi! Viễn mộng nào đây!

416 Phù phiếm quá, con sông không chảy Và bờ kia,

Trong triết lý duyên khởi, Quách Tấn nhấn mạnh rằng sự sống vẫn tồn tại ngay cả sau khi chết, thể hiện qua câu thơ: “Muôn nghìn sau ngoảnh lại/ Dù mộng chẳng hư không” (Trăng khuya – Mộng Ngân Sơn) Ông nhận thấy vũ trụ luôn chảy cùng nhau và tương duyên, tạo nên một mối liên kết sâu sắc Tương tự, Trịnh Công Sơn cũng khai thác khía cạnh này trong triết lý của mình.

Lý duyên khởi vô ngã thể hiện mối quan hệ hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, nơi mọi thứ đều bình đẳng và không phân biệt Trong thơ Nguyễn Bình Phương, hình ảnh thiên nhiên và con người gắn kết chặt chẽ, tạo nên sự chuyển hóa liên tục Các câu thơ như “Cây trưa thu bóng dài” và “Nước câu mặt trời” cho thấy sự tương tác sâu sắc, xóa nhòa ranh giới giữa chủ thể và khách thể, phản ánh sự vận động không ngừng của vạn vật trong cuộc sống.

Mối quan hệ tương duyên trong thơ hiện đại thể hiện sự ẩn hiện sâu sắc, đòi hỏi người đọc phải suy ngẫm và thâm nhập triết lý Phật giáo để hiểu được ý nghĩa tác giả muốn truyền tải Các tác giả như Nhất Hạnh, Viên Minh, và Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã thể hiện ảnh hưởng triết Phật qua các chủ đề nhằm gửi gắm tinh thần khai thị giác ngộ Người đọc cần nhận thức thiền ý và tự tính để đồng hiện với bản thể chân như Mối quan hệ nhân duyên, bao gồm tương hợp, tương khắc, tương sanh và tương diệt, xuất phát từ giáo lý trùng trùng duyên khởi, cho thấy rằng các sự vật hiện tượng không có tướng nhất định và vô ngã Do đó, việc cố chấp sẽ dẫn đến khổ đau; chỉ cần buông xuống và sống an nhiên với tính biết hiện tiền.

3.2.2 Nhận ra chân như thật tính

Chân như là sự thật của bản thể, không bị ảnh hưởng bởi sự đến và đi, không có khái niệm còn và mất, không nhơ và sạch, cũng như không tăng và giảm Đây là chân lý bất di bất dịch, hiện hữu trong vạn vật nhưng không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ Đó chính là mục tiêu cuối cùng mà hành giả hướng đến trong hành trình tìm kiếm.

Bài Phổ nhập của Nhất Hạnh nhấn mạnh rằng từ vô thủy vô chung, mọi vật đều tồn tại trong nhau và cùng sống, cùng chết trong một bản thể duy nhất Điều này khẳng định rằng chúng ta không nên sợ hãi trước những chống trái và thuận nghịch của cuộc đời Hãy bình yên quan sát sự vận chuyển của vạn pháp theo quy luật tự nhiên của nó.

424 “Dòng suối đã có sẵn tôi

425 Chúng ta không lúc nào không tương tức Bởi vậy chừng nào em còn thở

426 Thì em đừng bảo là tôi không có trong em”

Nhất Hạnh đã sống trọn vẹn trong pháp thể nhập chân như, thể hiện tư duy thiền sự-lý viên dung qua thơ ông Câu thơ “Em không phải là Tạo Sinh mà chỉ là Biểu Hiện” (Trường ca Avril) cho thấy tính chất duyên sinh tục đế và hiển bày các pháp chân đế Trong mối quan hệ giữa hình thức và nội dung, tất cả đều bắt nguồn từ một gốc Như Lai tạng.

429 “Tìm tôi qua thanh sắc đã sinh và đã mất Để thấy rằng tôi vẫn còn chân thực

430 Chưa bao giờ đi Chưa bao giờ đến

432 Chân Như sẽ xuất hiện mầu nhiệm nơi tử sinh

433 Tôi đang mỉm cười an nhiên trong giây phút hiện tại” (Một mũi tên rơi hai cờ huyễn tượng)

Tinh thần vô ngã và lòng từ bi trải rộng không phân ranh giới

Tinh thần vô ngã là một đặc điểm nổi bật trong Phật giáo, gắn liền với triết lý tính Không và duyên sinh Theo đó, mọi sự vật hiện tượng đều phát sinh và mất đi do nhân duyên; khi nhân duyên đầy đủ, chúng hội tụ, và khi duyên hết, chúng tan biến Điều này thể hiện tính chất vô thường và tạm bợ của các pháp hữu vi Người thấu hiểu triết lý này có thể sống tự do, an yên, không gây hại, và mở rộng lòng từ bi hỷ xả, bao dung và tha thứ với mọi nghịch duyên Nhờ vào thái độ vô ngã, lòng từ bi sẽ được trải dài, không phân chia ranh giới, không phân biệt và bình đẳng.

3.3.1 Thể hiện tinh thần vô ngã

Phật giáo nhấn mạnh triết lý vô ngã như là cốt lõi trong việc tu tập để đạt được an vui tự tại Quan niệm "vô ngã là niết-bàn" cho thấy rằng sự đốn ngộ trong tinh thần này diễn ra nhanh chóng đối với các thiền sư Thiền sư Nhất Hạnh đã sử dụng hình ảnh chỗ ngồi của mỗi vị tu hành để minh họa cho tính chất vô ngã, khuyến khích không nên bám chấp vào chỗ ngồi của mình.

Cuộc sống là vô thường, cả thân và tâm cũng không ngừng thay đổi, vì vậy hãy sống chánh niệm trong từng khoảnh khắc Nhờ vào sự vô ngã, bạn có thể sống tự tại và không bám chấp vào hoàn cảnh, để mọi hành động diễn ra một cách tự nhiên Thơ Nhất Hạnh phản ánh sâu sắc triết lý này trong tư tưởng và thực hành của ông.

473 “mỗi ông thầy tu có một chỗ nơi góc chiếc chiếu để ngồi thiền hãy ngồi yên trên chỗ đó

474 trái đất mang tất cả chúng ta đi

475 và chỗ ngồi cũng như một chỗ ngồi trên toa xe lửa hạng nhì đến ga rồi thì ông thầy tu cũng phải đi xuống

476 và chỗ ngồi đó sẽ được phủi bụi đi để cho người khác tới ngồi”

Thơ ông bình yên “ngay tại đây và bây giờ” thể hiện sự không tác ý và không chấp dính, vì ông nhận thức rõ rằng mọi hiện tượng trong thế gian đều là giả tạm, hình thành và tiêu diệt do các duyên điều kiện Chân như nhiệm màu nằm ở thái độ vô ngã trước sự đến đi, còn mất trong cuộc sống Trong trạng thái vô ngã, mọi thứ đều bình đẳng, không có sự khác biệt, và chỉ do chấp trước vào ngôn từ và hình tướng mà chúng ta trở thành ràng buộc, dẫn đến luân hồi và tạo nghiệp.

479 “Có đã là mầu nhiệm Không cũng là mầu nhiệm Có không đều như nhau Không có gì sai khác

480 Chỉ ảo tưởng về tôi”

481 (Tiếng gầm sư tử lớn)

Với Nhất Hạnh, việc quyết định "xóa đi hay không" không quan trọng, mà điều cốt yếu là sống trọn vẹn trong thực tại hiện tại Ông nhấn mạnh rằng "pháp trần hình thành" xuất phát từ những chấp trước và cần phải phá vỡ cái ngã Trong bài thơ Padmapani, thơ của Nhất Hạnh thể hiện sâu sắc tinh thần thiền tỉnh thức và sự thể nhập.

Dấu chân trên cát, Chắp tay nguyện cầu

483 cho bồ câu trắng hiện và Tiếng đập cánh loài chim lớn, tinh thần vô ngã, thể nhập này cũng đều được ông bàn đến:

484 “Mười bông hoa trên trời Mười bông hoa dưới đất Sen nở trên mi Bụt

485 Sen nở trong tim người Bồ-tát cầm đóa sen

487 Tâm đi trong tĩnh mặc Bắt gặp chân như về”

Theo triết lý Phật giáo, mọi phương pháp tu tập đều dẫn đến sự hiện hữu của pháp thân Phật trong từng cá nhân, thể hiện qua hình ảnh “sen nở trên mi Bụt, sen nở trong tim người” Phật và chúng sinh gần nhau bởi tất cả đều mang tính giác, với Phật là chúng sinh đã đạt được đạo quả tối thượng, còn chúng sinh có khả năng đạt Bồ-đề thông qua thực hành Con đường thiền “Bồ-tát cầm đóa sen” trên hội Linh Sơn được xem là con đường ngắn nhất để dừng vọng niệm, trở về với bản thể Như Lai Thơ của ông phản ánh tinh hoa của cuộc sống an nhiên, tỉnh thức, với ý nghĩa vượt lên trên nhận thức thông thường và nằm ngoài ngôn ngữ.

490 “Gối nhẹ mây đầu núi Nghe gió thoảng hương trà Thiền duyệt tâm bất động Rừng cây dâng hương hoa”

Thơ ông nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng cuộc sống hiện tại, khuyến khích con người trở về với thân tâm trong chánh niệm tỉnh thức và buông bỏ nhị biên Qua cái nhìn hiện thực, ông cảm nhận sâu sắc “gió nhẹ” thổi giữa “mây,” thể hiện sự kết nối giữa con người và thiên nhiên.

Tại “đầu núi”, hương thơm của “hương trà” hòa quyện, mang đến một trải nghiệm thiền định sâu sắc Trong khoảnh khắc tỉnh thức, ông nhận ra sự tinh tế của con người và thiên nhiên mà không bị can thiệp bởi ý thức Ông cảm nhận rõ ràng vẻ đẹp của “rừng cây dâng hương hoa”, giúp ông vượt qua dòng sinh tử.

Tinh thần vô ngã, vô trụ của Bùi Giáng thể hiện sâu sắc trong thơ ông, dù bề ngoài có vẻ khó phân định nhưng thực chất lại thống nhất và hòa hợp Tác phẩm của ông phản ánh tình yêu thương vô phân biệt, mặc dù có vẻ khác biệt với triết lý Phật giáo Nhiều quan điểm về cái “điên” của thi sĩ tồn tại, nhưng dưới góc nhìn Phật học, các bài thơ như Người điên uống rượu hay Ông điên chứng tỏ ông không điên, mà là sự giác ngộ cao về tinh thần vô ngã Bùi Giáng vượt lên trên những thị phi và phân biệt của cuộc đời, mang trong mình cái nhìn của người tu học Phật.

495 “Em muôn vạn xứ êm đềm

496 Cho em rất mực muôn nghìn mà ra Anh từ đó ngộ thiết tha

497 Em là vô tận em là em ơi!”

499 “Em” ở đây ý chỉ thực tính pháp Vạn pháp hữu vi cuộc đời

Từ bản thể chân như "em", khái niệm "muôn nghìn mà ra" thể hiện sự vô tận và không thể định danh Tinh thần vô ngã, vô trụ, và thể nhập đến vô phân biệt được Bùi Giáng diễn đạt qua câu thơ: “Mình ơi tôi gọi là nhà/ Nhà ơi tôi gọi mình là nhà tôi”, cho thấy sự hòa quyện giữa "ta" và "em" Thơ Bùi Giáng không chỉ chịu ảnh hưởng từ thiền học mà còn phản ánh triết lý kinh Hoa Nghiêm và tính Không bát-nhã.

“Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm / Tường vôi lá cỏ lim dim vô cùng”, “ChânKhông Diệu Hữu là ca /Không chân hữu diệu lưu sa

Ông nhận thức rõ ràng về chân không và diệu hữu, cho rằng mọi vật đều thay đổi theo duyên khởi Ba nghìn thế giới tồn tại trong nhau, và khi tâm thể nhập làm một, vũ trụ hiện hữu trong thân ngũ uẩn và từng sát-na của hơi thở Đọc thơ Bùi Giáng, ông cũng rất tâm đắc với câu chuyện Niêm hoa vi tiếu, thể hiện tinh thần “Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang, cùng với tinh thần an trú và hàng phục tâm trong kinh Duy Ma Cật.

Thơ Viên Minh thể hiện cái nhìn của người tu học Phật, cho rằng mọi thứ đều là pháp Đối với thiền sư, thơ không chỉ là nghệ thuật mà còn là phương tiện dẫn đến giác ngộ Những bài thơ của ông mang đến sự tĩnh lặng và bình yên đặc biệt, khiến người đọc càng chiêm nghiệm càng thấy sâu sắc Pháp thường được diễn đạt qua những điều giản dị, hướng đến ý nghĩa vô ngã, buông bỏ và tự tại.

502 “Buông thư, tâm rỗng lặng Không trước ý dụng công Không dừng, không bước tới Điềm đạm tợ hư không”

Cõi thơ Viên Minh phản ánh triết lý “sự sự vô ngại” và “lý sự viên dung” của pháp tính, thể hiện qua những vần thơ nhẹ nhàng, sáng trong Độc giả khi đọc thơ Viên Minh như người uống nước, tự nhận biết cảm xúc của mình Khi đạt đến cảnh giới an vui giải thoát, hành giả sống không làm khổ mình hay người khác, luôn tràn đầy năng lượng và giữ tâm định tĩnh giữa những biến đổi vô thường của cuộc sống.

505 “Viết bài thơ trên cát Cơn sóng vỗ xóa đi Vô tình đâu nhớ được Mình viết bài thơ gì”

Đối với thi sĩ và thiền sư, việc tu hành và sáng tác thơ ca đều là những pháp môn, bởi khi sống với sự nhận thức rõ ràng và thái độ vô ngã, họ có thể cảm nhận mọi điều kỳ diệu trong cuộc sống Sự thật rằng thơ ca, giống như những gì được viết trên cát, sẽ không tồn tại mãi mãi.

Trong những khoảnh khắc xúc động, chúng ta thường không thể nhớ rõ bài thơ đã sáng tác Ông khuyên rằng cuộc sống đôi khi cần phải buông bỏ, quên đi những lo âu, để mọi thứ tự nhiên diễn ra theo quy luật sinh diệt Thông điệp của bài Thơ trên cát nhấn mạnh rằng để có được hạnh phúc bền vững, chúng ta nên từ bỏ sự cầu toàn và tiếc nuối, tập trung vào những hành động thiết thực trong hiện tại, đồng thời chấp nhận những thay đổi của cuộc sống với tinh thần vô ngã, từ đó mới có thể tìm thấy bình an và tự tại.

509 “Thuyền ai quên bến đậu Lênh đênh một mình trôi Có chở ai không rứa?

510 Không, chỉ ánh trăng thôi”

Chương 4 ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ PHẬT GIÁO TRONG THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY TRÊN PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 107 4.1 Ảnh hưởng trên phương diện ngôn từ

Ngày đăng: 14/01/2022, 12:41

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
12. [1]. Arixtote (1964), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật thơ ca
Tác giả: [1]. Arixtote
Nhà XB: Nxb Văn hóa - Nghệ thuật
Năm: 1964
13. [2]. Lê Tú Anh (2012), Tiểu thuyết Việt Nam 1900-1930, chuyên luận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiểu thuyết Việt Nam 1900-1930
Tác giả: [2]. Lê Tú Anh
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2012
14. [3]. Lê Tú Anh (2018), Văn xuôi Việt Nam hiện đại: khảo cứu và suy ngẫm, Tiểu luận – phê bình, Nxb Đh Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn xuôi Việt Nam hiện đại: khảo cứu vàsuy ngẫm
Tác giả: [3]. Lê Tú Anh
Nhà XB: Nxb Đh Quốc gia Hà Nội
Năm: 2018
15. [4]. Nguyễn Kim Anh, Vũ Ngọc, Hà Thanh Vân, Hoàng Tùng (nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu) (2002), Thơ văn nữ Nam Bộ thế kỷ XX, Nxb Tp Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ vănnữ Nam Bộ thế kỷ XX
Tác giả: [4]. Nguyễn Kim Anh, Vũ Ngọc, Hà Thanh Vân, Hoàng Tùng (nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu)
Nhà XB: Nxb Tp Hồ Chí Minh
Năm: 2002
16. [5]. Trần Hoài Anh (2009), Lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975
Tác giả: [5]. Trần Hoài Anh
Nhà XB: Nxb Hội Nhà văn
Năm: 2009
17. [6]. Trần Hoài Anh (2012), Văn học nhìn từ văn hóa, tiểu luận phê bình, Nxb Thanh niên, TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học nhìn từ văn hóa, tiểu luận phê bình
Tác giả: [6]. Trần Hoài Anh
Nhà XB: Nxb Thanh niên
Năm: 2012
18. [7]. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945-1995: Nhìn từ phương diện sự vận động của cái tôi trữ tình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945-1995: "Nhìn từ phương diện sự vận động của cái tôi trữ tình
Tác giả: [7]. Vũ Tuấn Anh
Nhà XB: Nxb Khoa họcxã hội
Năm: 1997
19. [8]. Thích Thiên Ân (1966), Giá trị triết học tôn giáo trong Truyện Kiều, Nxb Đông Phương, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giá trị triết học tôn giáo trong Truyện Kiều
Tác giả: [8]. Thích Thiên Ân
Nhà XB: Nxb Đông Phương
Năm: 1966
20. [9]. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ Việt Nam hiện đại (1945-1975), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản sắc dân tộc trong thơ Việt Nam hiện đại (1945-1975)
Tác giả: [9]. Nguyễn Duy Bắc
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
Năm: 1998
21. [10]. Lê Bảo (1999), Thơ văn Lý - Trần, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Lý - Trần
Tác giả: [10]. Lê Bảo
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1999
22. [11]. Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ngữ thơ
Tác giả: [11]. Nguyễn Phan Cảnh
Nhà XB: Nxb Văn hóa Thông tin
Năm: 2000
23. [12]. Thích Minh Cảnh (2007), Từ điển Phật học Huệ Quang, 8 tập, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Phật học Huệ Quang
Tác giả: [12]. Thích Minh Cảnh
Nhà XB: Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh
Năm: 2007
24. [13]. Lê Cung (2013), 50 năm nhìn lại phong trào Phật giáo Miền Nam Việt Nam, Nxb Đại học Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: 50 năm nhìn lại phong trào Phật giáo Miền Nam Việt Nam
Tác giả: [13]. Lê Cung
Nhà XB: Nxb Đại học Huế
Năm: 2013
25. [14]. HT. Minh Châu (dịch) (1999), Đại Thừa và sự liên hệ với Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w